BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
------o0o------
TRẦN THỊ LOAN
KỸ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ
TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG TỈNH BẮC NINH
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60.31.04.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Thị Hạnh Phúc
HÀ NỘI, NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Kỹ năng ứng phó với những khó khăn tâm
lý trong học tập của học sinh Trung học phổ thông tỉnh Bắc Ninh” là cơng
trình do chính tơi nghiên cứu.
Các số liệu trong đề tài này là kết quả công sức tôi đã đầu tư thu thập và
xử lý thông tin một cách trung thực. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong
luận văn này không sao chép của bất cứ luận văn nào và cũng chưa được trình
bày hay cơng bố ở bất cứ cơng trình nào khác trước đây.
Hà Nội, ngày 12 tháng 10 năm 2016
Tác giả luận văn
TRẦN THỊ LOAN
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lịng biết ơn chân thành, em xin gửi lời biết ơn
sâu sắc đến cô PGS.TS. Đỗ Thị Hạnh Phúc - Người đã chỉ bảo, hướng dẫn
em một cách tận tâm, chu đáo giúp em hoàn thành luận văn.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các Thầy Cô giáo khoa Tâm lý
- Giáo dục học, phòng Sau đại học và Ban lãnh đạo trường Đại học Sư phạm
Hà Nội đã hết sức tạo điều kiện để em có thể học tập và nghiên cứu.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các thầy
cô giáo cùng các em học sinh trường THPT Quế Võ số 3 và trường THPT
Hàn Thuyên tỉnh Bắc Ninh đã hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian nghiên cứu tại trường.
Xin cảm ơn gia đình, anh chị đồng nghiệp, bạn bè đã luôn ủng hộ và
giúp đỡ mọi mặt để tơi hồn thành luận văn.
Do thời gian và khả năng nghiên cứu của bản thân cịn có hạn nên luận
văn khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tơi mong sẽ nhận được
những ý kiến đóng góp q báu của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để
luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng 10 năm 2016
Học viên
Trần Thị Loan
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐH, CĐ
ĐTB, X
ĐLC
HĐHT
HS
KK
KKTL
KN
KNƯP
THCS
THPT
VTN
: Đại học, cao đẳng
: Điểm trung bình
: Độ lệch chuẩn
: Hoạt động học tập
: Học sinh
: Khó khăn
: Khó khăn tâm lý
: Kỹ năng
: Kỹ năng ứng phó
: Trung học cơ sở
: Trung học phổ thông
: Vị thành niên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng khách thể được nghiên cứu..............................................52
Bảng 3.1. Biểu hiện những khó khăn tâm lý trong học tập.............................66
của học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh...................................................................66
Bảng 3.2. Biểu hiện những khó khăn tâm lý trong học tập của HS THPT tỉnh
Bắc Ninh xét theo khối lớp..............................................................................69
Bảng 3.3. Biểu hiện những khó khăn tâm lý trong học tập của HS THPT tỉnh
Bắc Ninh xét theo giới tính.............................................................................75
Bảng 3.4 cho thấy, những khó khăn tâm lý trong học tập khi được so sánh
theo lát cắt về môi trường học tập cho thấy có sự khác nhau về thứ bậc và
điểm trung bình giữa hai trường. Trường THPT Quế Võ số 3 có ĐTB = 3,46,
cao hơn ĐTB của trường THPT Hàn Thuyên là 3,23. Trường THPT Hàn
Thuyên là một trong các trường đứng tốp đầu về thành tích học tập cũng như
trang thiết bị cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên dày kinh nghiệm của tỉnh Bắc
Ninh. Đầu vào học sinh của trường cũng khá cao nên mặt bằng về lực học của
học sinh cũng khá cao. Ngược lại, trường THPT Quế Võ số 3 là trường thành
lập sau, trang thiết bị, cơ sở vật chất còn yếu, đội ngũ giáo viên trẻ, chất lượng
đầu vào của học sinh ở mức thấp, do đó, các em học sinh ở đây gặp nhiều khó
khăn trong học tập hơn các em trường THPT Hàn Thuyên. Và ở mỗi trường,
các em lại gặp phải những khó khăn tâm lý trong học tập ở các mức độ khác
nhau.................................................................................................................76
Bảng 3.4. Biểu hiện những KKTL trong học tập của HS THPT tỉnh Bắc Ninh
xét theo môi trường học tập.............................................................................76
Bảng 3.5. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó mang............79
sắc thái tình cảm của HS THPT tỉnh Bắc Ninh đối với những KKTL trong học
tập....................................................................................................................79
Trong suy nghĩ của mình, trước hết, HS THPT thấy đây là bài học tốt cho bản
thân (ĐTB = 2,67) và sau những khó khăn đó, các em có thêm kinh nghiệm
trong học tập (ĐTB = 2,57). Phần lớn các em lý giải các khó khăn về học tập
theo chiều hướng tích cực (ĐTB = 2,53). Khi gặp khó khăn trong học tập, HS
THPT khơng lý giải theo chiều hướng tiêu cực, khơng “đổ lỗi cho hồn cảnh”
(ĐTB = 1,95), không “lảng tránh” (ĐTB = 2,10), không “phủ nhận” những
thất bại của mình (ĐTB = 2,26) mà các em biết “chấp nhân” thực tế đã xảy ra
(ĐTB = 2,34)...................................................................................................82
Bảng 3.6. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó bằng suy nghĩ
của HS THPT tỉnh Bắc Ninh đối với những KKTL trong học tập..................82
Bảng 3.7. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó bằng hành
động của HS THPT tỉnh Bắc Ninh đối với những KKTL trong học tập.........84
Bảng 3.8. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó mang tính tích
cực và tiêu cực của HS THPT tỉnh Bắc Ninh đối với những KKTL trong học
tập....................................................................................................................86
Bảng 3.9. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó với những khó
khăn tâm lý trong học tập của học sinh nam và học sinh nữ...........................87
Bảng 3.10. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó với những
KKTL trong học tập của học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh xét theo khối lớp.....89
Học sinh lớp 11,12 có mức độ thực hiện hành vi tiêu cực cao hơn hẳn. Đặc
biệt, các em HS lớp 11, có cách ứng phó bằng hành vi tiêu cực cao nhất trong
ba khơi (ĐTB= 1,61). Vì các em lớp 11 đã quan với môi trường học tập ở bậc
THPT, các em muốn thể hiện bản thân, muốn gây được sự chú ý, trong khi
suy nghĩ của các em lại chưa chín chắn. Bên cạnh đó, khả năng lên kế hoạch
và biết tìm những hành vi tích cực để thay thể trong tình huống khó khăn của
các em khối 11, 12 cũng cao hơn HS lớp 10. Trong khi đó, các em HS khối 10
lại chọn cách ứng phó theo kiểu “ Tìm lời khuyên” (ĐTB = 2,39) và “Lảng
tránh” cao nhất trong ba khối (ĐTB = 2,13). Bởi các em cịn chưa có kinh
nghiệm trong việc ứng phó với khó khăn tâm lý trong học tập, các em muốn
tìm kiếm những lời khuyên từ bạn bè mình, từ những người có thể giúp đỡ
các em để có thể vượt qua khó khăn...............................................................90
Bảng 3.11. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó với những
KKTL trong học tập của HS THPT tỉnh Bắc Ninh.........................................92
xét theo môi trường học tập.............................................................................92
Bảng 3.12. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan đến kỹ năng ứng phó
của học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh...................................................................97
.........................................................................................................................99
Bảng 3.13. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến kỹ năng ứng
phó của học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh..........................................................100
.......................................................................................................................103
Bảng 3.14. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó với những
KKTL trong học tập của học sinh Nguyễn Thị M........................................105
Bảng 3.14. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó với những
KKTL trong học tập của học sinh Phùng Hữu T...........................................108
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Những vấn đề khó khăn nhất, ít khó khăn nhất..........................67
trong học tập của học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh............................................67
Biểu đồ 3.2. Biểu hiện những KKTL trong học tập của HS THPT................71
tỉnh Bắc Ninh ở ba khối lớp............................................................................71
Biểu đồ 3.3. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó mang tính
tích cực và tiêu cực của HS THPT tỉnh Bắc Ninh đối với những KKTL........86
trong học tập....................................................................................................86
Biểu đồ 3.4. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó với những
khó khăn tâm lý trong học tập của học sinh nam và học sinh nữ....................88
Khi gặp khó khăn trong học tập, các em nam thường có khả năng sắp xếp kế
hoạch cho công việc để giải quyết vấn đề (nhưng vẫn ở mức độ thấp hơn các
em nữ), cố gắng để tự mình vượt qua khó khăn, có những lý giải tích cực về
hồn cảnh, đơi khi chấp nhận sự thật và cũng đơi khi phủ nhận tình huống
này...................................................................................................................89
Biểu đồ 3.5. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó với những
KKTL trong học tập của HS THPT tỉnh Bắc Ninh xét theo khối lớp.............90
Biểu đồ 3.6. Biểu hiện của việc lựa chọn các phương án ứng phó với những
KKTL trong học tập của HS THPT tỉnh Bắc Ninh.........................................93
xét theo mơi trường học tập............................................................................93
Như vây, có thể thấy cách thức biểu hiện những cách ứng phó khi gặp khó
khăn trong học tập của HS THPT ở môi trường học tập khác nhau cũng có
những khác biệt ít nhiều. HS ở mỗi mơi trường đều sử dụng những cách ứng
phó riêng của mình theo đặc điểm riêng. Điểm chung nhất trong các kiểu ứng
phó là các em có xu hướng giải quyết những khó khăn trong học tập của mình
biểu hiện ra bằng hành động, đặc biệt là những hành động tích cực..............93
Biểu đồ 3.7. Kết quả tự đánh giá của học sinh về hiệu quả của việc sử dụng
các phương án ứng phó với KKTL trong hoạt động học tập...........................94
Biểu đồ 3.8. Đánh giá của giáo viên về hiệu quả của việc sử dụng các phương
án ứng phó với KKTL trong học tập của HS THPT tỉnh Bắc Ninh................96
Biểu đồ 3.9. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan đến kỹ năng ứng phó
của học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh...................................................................99
Biểu đồ 3.10. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến kỹ năng ứng
phó của học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh..........................................................103
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lứa tuổi thanh niên là một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời mỗi con
người. Trong tâm lí học lứa tuổi, tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển bắt
đầu từ lúc dậy thì và kết thúc vào tuổi người lớn. Lứa tuổi học sinh trung học
phổ thông ( THPT) là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên.
Những cơng trình nghiên cứu sự phát triển tâm sinh lý của lứa tuổi học
sinh THPT gần đây quan niệm: lứa tuổi này như là một giai đoạn phát triển đi
qua một loạt những lớp sự kiện, những kinh nghiệm, sự trải nghiệm hay
những nhiệm vụ phát triển được xác định về mặt xã hội. Đây được coi là lứa
tuổi mùa xuân của cuộc đời.
Trong giai đoạn phát triển này, nhiệm vụ học tập và hướng nghiệp là
hoạt động chủ đạo và luôn là mục tiêu hàng đầu mà các em muốn hướng tới.
Các em mong muốn làm thế nào để thực hiện được nhiệm vụ học tập một
cách tốt nhất, chính vì mục tiêu ấy các em ln phải chịu những áp lực từ phía
bản thân, áp lực từ những chương trình học tập quá tải, áp lực từ việc thi cử,
cùng với sự kỳ vọng của gia đình, thầy cơ, bạn bè, và để đáp ứng với những
yêu cầu của xã hội. Tất cả những điều đó nhiều khi tạo nên sức ép lớn đối với
các em, tạo nên những khó khăn, căng thẳng trong học tập, ảnh hưởng vô
cùng lớn đến kết quả học tập cũng như đời sống của các em. Đứng trước
những áp lực từ công việc học tập như vậy nếu các em khơng có kĩ năng ứng
phó và phương pháp học tập phù hợp thì sẽ dẫn tới những kết quả học tập
không tốt, cùng với những thất bại trong học tập dẫn đến chán nản, nhụt ý chí,
những hoàn cảnh gây stress dẫn đến sự tuyệt vọng và hủy hoại bản thân trong
rượu, ma túy và những tệ nạn xã hội khác, và thậm chí cịn có cả trường hợp
tự tử… Trong các nghiên cứu xã hội kết quả cũng cho thấy con đường dẫn
đến những hành vi lệch chuẩn, vi phạm pháp luật ở lứa tuổi thanh thiếu niên
1
đó là do các em chưa có kĩ năng ứng phó tốt với những khó khăn trong hoạt
động học tập, nếu các em được rèn luyện và có khả năng ứng phó tốt với
những khó khăn đó, thì có thể góp phần làm giảm thiểu và ngăn chặn được
những hành vi tiêu cực xảy ra với các em.
Các cơng trình nghiên cứu về ứng phó ở trên Thế giới cũng như trong
nước khá nhiều, tuy nhiên tập trung nhiều vào kỹ năng ứng phó với các vấn
đề trong cuộc sống, cịn kỹ năng ứng phó với khó khăn tâm lý trong học tập
của học sinh THPT còn khá mới mẻ, đặc biệt trên một địa bàn cụ thể.
Trong xu thế phát triển chung với cả nước, tỉnh Bắc Ninh là một trong
những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế cao, đặc biệt là tốc độ đơ thị hóa, cơng
nghiệp hóa khá nhanh. Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành cơng nghiệp và
các khu cơng nghiệp đã góp phần nâng cao đời sống, tạo ra nhiều cơ hội việc
làm cho lao động phổ thơng... Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của nó là
việc quan tâm đến học tập của con em các gia đình có cả bố mẹ đều làm công
nhân bị chểnh mảng, các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều, đặc biệt nhiều học
sinh có thái độ học tập chống đối chỉ để lấy bằng tốt nghiệp là sẽ có việc
làm,... Do đó, vấn đề học tập, hướng nghiệp trong nhà trường THPT ở tỉnh
Bắc Ninh luôn được quan tâm. Tuy nhiên, khi gặp những khó khăn trong học
tập, học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh ứng phó chưa hiệu quả, làm ảnh hưởng đến
kết quả học tập của các em. Vì vậy việc giáo dục để học sinh THPT tỉnh Bắc
Ninh có được khả năng ứng phó tốt là việc hết sức cần thiết, qua đó giúp các
em nâng cao khả năng ứng phó với những khó khăn trong hoạt động học tập,
để có được kết quả học tập mong muốn. Với tính cấp thiết đó, chúng tơi chọn
nghiên cứu đề tài “Kỹ năng ứng phó với những khó khăn tâm lý trong học tập
của học sinh trung học phổ thông tỉnh Bắc Ninh” với mong muốn tìm hiểu về
cách ứng phó của HS THPT tỉnh Bắc Ninh trong việc ứng phó với khó khăn
trong học tập, từ đó kiến nghị một số biện pháp tâm lý – sư phạm giúp học
sinh THPT nâng cao kỹ năng ứng phó hiệu quả với những khó khăn tâm lý
2
trong học tập để các em có thể đạt được kết quả cao trong học tập và định
hướng tốt cho tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và khảo sát thực trạng kỹ năng ứng phó với
những khó khăn tâm lý trong học tập của học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh. Từ
đó đề xuất các kiến nghị giúp học sinh THPT có kỹ năng ứng phó hiệu quả
với những khó khăn tâm lý trong học tập.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện của kỹ năng ứng phó với những khó khăn tâm lý trong học
tập ở học sinh THPT.
3.2. Khách thể nghiên cứu
200 học sinh của trường trung học phổ thông Quế Võ số 3( Huyện Quế
Võ – Tỉnh Bắc Ninh) và 200 học sinh của trường trung học phổ thông Hàn
Thuyên (Thành Phố Bắc Ninh – Tỉnh Bắc Ninh)
4. Giả thuyết khoa học
Đa số học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh gặp khó khăn tâm lý trong học tập
như: chưa có phương pháp học tập phù hợp; việc tập trung chú ý trong học
tập, sắp xếp, phân phối thời gian học tập cịn chưa hợp lí, đặc biệt là khó khăn
trong việc vận dụng tri thức học tập vào giải quyết các bài tập thực tiễn, nhất
là học sinh lớp 12 gặp khó khăn trong việc chọn nghề… Trước những khó
khăn tâm lý đó, học sinh THPT đã có một số kỹ năng ứng phó, nhưng hiệu
quả chưa cao. Nếu chỉ ra được một số biện pháp sư phạm tích cực, khả thi sẽ
giúp nâng cao hiệu quả của các kỹ năng ứng phó với khó khăn tâm lý trong
học tập ở học sinh THPT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về kỹ năng ứng phó với những khó khăn tâm lý
trong học tập của học sinh THPT.
5.2. Khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý trong học tập của học sinh THPT
tỉnh Bắc Ninh và kỹ năng ứng phó với những khó khăn tâm lý đó.
3
5.3. Kiến nghị một số biện pháp sư phạm giúp học sinh THPT nâng cao kỹ
năng ứng phó hiệu quả với những khó khăn tâm lý trong học tập.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về biểu hiện của kỹ năng ứng phó với
những khó khăn tâm lý trong học tập của học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh.
6.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu 400 học sinh và một số giáo viên ở hai
trường trung học phổ thông tỉnh Bắc Ninh năm học 2015 – 2016, cụ thể:
200 học sinh và 15 giáo viên trường THPT Hàn Thuyên thuộc thành
phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
200 học sinh và 15 giáo viên trường THPT Quế Võ số 3 thuộc huyện Quế Võ,
tỉnh BN.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
7.3. Nhóm phương pháp xử lí số liệu
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, thì luận văn cịn có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận về kỹ năng ứng phó với những khó khăn
tâm lý trong học tập của học sinh THPT
Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu kỹ năng ứng phó
với những khó khăn tâm lý trong học tập của học sinh THPT
Chương 3. Thực trạng kỹ năng ứng phó với những khó khăn tâm lý
trong học tập của học sinh THPT tỉnh Bắc Ninh.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ KỸ NĂNG ỨNG PHĨ
VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kỹ năng ứng phó (KNƯP) với khó khăn tâm lý (KKTL) có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với lứa tuổi thanh niên, lứa tuổi mà các em đang tích lũy
để chuẩn bị cho mình một hành trang bước vào đời. Vì thế vấn đề đó được
nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Sau đây chúng tôi xin điểm qua
tình hình nghiên cứu của các nhà tâm lý học nước ngồi và ở Việt Nam để có
5
cái nhìn chung nhất về vấn đề đã được giải quyết, đang giải quyết và những
vẫn đề đặt ra cho luận văn này.
1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới có nhiều nước, nhất là các nước phát triển đã quan tâm
nghiên cứu KNƯP với hồn cảnh khó khăn nói chung ở lứa tuổi vị thành niên
nhất là ở tuổi học sinh THCS và ứng dụng vào thực tiễn nhằm góp phần nâng
cao KNƯP cho các em.
Các nghiên cứu khẳng định: những hạn chế về KNƯP của trẻ vị thành
niên với hồn cảnh khó khăn đã ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ thể chất và
tinh thần của các em.
Vào năm 1970, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một cách tiếp cận để đo
lường và đánh giá sự ứng phó được tóm tắt trong cơng trình của Folkman và
Lazarus. Họ đã xác định tám cách ứng phó gồm: đối diện với vấn đề, cố
thốt khỏi tình huống khó khăn, tìm kiếm sự hỗ trợ xã hội, gánh vác trách
nhiệm, né tránh thực tại, lập kế hoạch giải quyết vấn đề và nhìn thấy điều
thuận lợi. Các nhà nghiên cứu tin rằng những cách này phản ánh hai kiểu cơ
bản của sự ứng phó: tập trung vào vấn đề và tập trung vào cảm xúc. Lazarus
và Folkman nhấn mạnh rằng những khía cạnh trong hành vi ứng phó của cá
nhân thay đổi phụ thuộc vào tình huống hay mức độ hỗ trợ xã hội mà cá nhân
nhận được. Một trong những công cụ đo lường được phát triển bởi quan điểm
mới là CISS (Coping with stressful situations). Công cụ này cố gắng đưa ra
những dấu hiệu của các cách ứng phó mà con người có thể sử dụng trong
tình huống khó khăn. Những cách thức ứng phó mà cơng cụ này đưa ra bao
gồm cách thức hướng vào nhiệm vụ, trong đó người ta hướng đến việc
đương đầu với những vấn đề kế tiếp sẽ diễn ra; cách thức hướng vào cảm
xúc, cách thức tránh né thực tại (bao gồm tìm kiếm sự hỗ trợ về mặt xã hội
và tìm kiếm sự giải tỏa tâm trí) [44].
6
Trong nghiên cứu của Bolognini Monique, Plancherel Bernard,
Halfon Olivier “Đánh giá các chiến lược ứng phó của thanh thiếu niên: có
sự khác nhau theo tuổi và theo giới tính hay khơng?” đã tìm hiểu các cách
ứng phó theo đặc trưng giới, mối tương quan giữa việc chọn lựa các cách
ứng phó với sức khỏe tâm trí theo giới tính và theo độ tuổi. Các tác giả đã
đưa ra những cách thức ứng phó như: sử dụng quan hệ xã hội, gia đình, tình
cảm âm tính, sự giải trí, hài hước, cam kết, tiêu xài, gia đình, nhà trường. Các
kết quả khẳng định nữ thanh thiếu niến tự điều chỉnh tùy theo khó khăn bằng
cách tham gia nhiều hơn vào các quan hệ xã hội (bạn bè, anh chị em, bố mẹ
và các người lớn khác). Nghiên cứu đã cho thấy con gái đầu tư nhiều hơn
vào thế giới tương tác nhằm thể hiện tình cảm một cách cởi mở, nhằm nhận
được sự nâng đỡ, các lời khuyên và những điều an ủi từ một người tâm
tình (bạn bè, gia đình). Trong khi đó, các nam thanh thiếu niên cố gắng nhiều
hơn trong việc giữ ý nghĩa của sự hài hước và tiến hành một hoạt động thể
lực mạnh mẽ. Con trai ít cởi mở hơn và ít phụ thuộc vào người khác hơn so
với con gái, nhưng lại có xu hướng làm cho tình huống bớt khủng hoảng và
tỏ ra lạc quan, tìm kiếm sự giải tỏa trong các trị chơi và hoạt động thể lực.
Về mối quan hệ sức khỏe tâm trí và các cách thức ứng phó, nghiên cứu cho
thấy các kết quả tỏ ra khác biệt giữa con trai và con gái. Ở con gái, trong số
các cách thức ứng phó có tương quan cao nhất là sự thể hiện các tình cảm âm
tính phối hợp với một xác suất cao nhất bị rối nhiễu tâm trí như khí sắc
trầm nhược, lo âu và rối nhiễu giấc ngủ. Ở con trai, chỉ có tương quan về mặt
lo âu [39].
Nhà nghiên cứu Camus Jean trong bài viết “Sự bố trí thời gian và
các khó khăn học đường. Phản ứng tức thời và trì hỗn” đã đối chiếu và cách
thức ứng phó tâm lý của trẻ thuộc nhóm SES (những trẻ học sinh lớp đặc
biệt, các em này được gọi là những “học sinh khơng thích nghi”, “chậm
7
chạp” trong học tập) và trẻ thuộc nhóm CES (nhóm học sinh cấp 2 bình
thường). Kết quả cho thấy, trẻ trai thuộc nhóm SES khi gặp khó khăn sẽ
hành động chớp nhống, khơng cần đánh giá, chúng xem những hành động
bột phát như thể là một “tấm áo giáp” chống lại sự sợ hãi về thất bại liên tiếp
tấn công. Trẻ nữ trong nhóm này có xu hướng trì hỗn thời gian thực hiện
cơng việc, các em loay hoay tìm kiếm giải pháp phù hợp, cảm thấy thất
vọng, luôn phàn nàn và yêu cầu được giúp đỡ hơn nhóm trẻ nữ CES [40].
Một nghiên cứu của Neru và Ronan (1988) chỉ ra rằng trẻ vị thành niên
(VTN) khơng có kỹ năng phịng ngừa những tác động của hồn cảnh có thể
dẫn đến stress, những vấn đề về trầm cảm, lo âu. Để giải quyết được, VTN
cần có niềm tin dựa trên năng lực, xác lập được những KNƯP với những hồn
cảnh khó khăn của chính bản thân VTN [43;1].
Theo Kovacs (1989), có nhiều vấn đề về tâm thần của VTN liên quan
đến sự kém hiểu biết về kỹ năng xã hội , đây cũng là một trong những nguyên
nhân làm tăng ý tưởng và hành vi tự sát [43;2].
Một tác giả cho rằng hành vi ứng phó có tính chất ổn định và được coi
là xu hướng ứng xử (Carver, Schenier,Weinntraub). Theo các tác giả này, con
người có cách ứng phó nhất định trong nhiều tình huống khác nhau [45].
Cách ứng phó thể hiện mối liên quan của hành vi ứng phó với các sự
kiện của cuộc sống, với những trải nghiệm sớm của cá nhân được nhiều tác
giả quan tâm.
Các tác giả Myers L.B, Brewin C.R (1994) cho rằng đứa trẻ có những trải
nghiệm âm tính sớm thường có kiểu ứng phó dồn nén, ức chế khi chúng gặp lại
quang cảnh của sự kiện cũ, đặc biệt những sự kiện liên quan đến quan hệ gia
định. Ở đây có mối quan hệ chặt chẽ giữa mức độ trải nghiệm các cảm xúc với
cách mà con người ứng phó với hồn cảnh khó khăn, với stress tâm lý [7].
Segersform S.C, Taylor S.E, Kemeny M.E, Fahey J.L. (1998),
Horowwitz, Sdler và Kegeles (1988) tiếp cận nghiên cứu mối liên quan của
các ứng phó với tính lạc quan và bi quan. Các tác giả nhận thấy tính lạc quan
8
có quan hệ với khuynh hướng sử dụng cách ứng phó tập trung vào giải quyết
vấn đề, tìm kiếm chỗ dựa xã hội, thể hiện những khía cạnh dương tính trong
tình huống stress, ngược lại tính bị quan thường đi kèm với xu hướng phủ
định hoặc tránh xa tình huống stress, tập trung vào những cảm giác stress của
mình [7].
Terry D.L (1991), Lees M.C, Neufeld R. W. J(1999) nghiên cứu mối
liên quan đánh giá về tình huống khó khăn, nhận thức về các khía cạnh khác
nhau của stress với hành vi ứng phó. Theo họ, việc con người ứng xử thế nào
trong hồn cảnh khó khăn thường chịu ảnh hưởng của việc họ đánh giá chính
về hồn cảnh đó, tình huống đó [42].
Cách ứng phó với xung đột gia đình, stress gia đình được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu. Mccubbin (1980) nghiên cứu ảnh hưởng có hại của
cách ứng phó sai lầm với stress gia đình và chỉ ra rằng nó có thể dẫn đến việc
phá hủy hệ thống gia đình . Figley (1993) quan tâm đến những chiến lược ứng
phó hiệu quả trong gia đình có thể dẫn đến stress và cách mà các thành viên
ứng phó với sự chuyển đổi này.
Slavin (1991) - nhà tâm lý học đã nghiên cứu cách ứng phó của con
người đối với chuyển đổi của xã hội ngày nay và phát hiện thấy chuyển đổi xã
hội liên quan đến những vấn đề vĩ mô như quan hệ dân tộc, tục lệ, lễ nghi, sự
phân hóa kinh tế- xã hội và nó có liên quan đến thói quen, văn hóa của mỗi
gia đình, mỗi cá nhân. Cuộc sống của mỗi xã hội đòi hỏi mỗi cá nhân phải
thích nghi với chuyển đổi xã hội dường như đã gây ra những tình huống stress
sâu sắc. Vì thế hành vi ứng phó của mỗi con người trước hồn cảnh mới đã
làm nên văn hóa hành vi, nhiều khi nó liên quan đến chuẩn mực văn hóa , lễ
nghi, tập tục ở cấp độ xã hội. Vì vậy, những chương trình tự giáo dục, phân
loại giá trị và sự chế ngự stress là những phương pháp được đề nghị để ứng
phó với những chuyển đổi xã hội [9; 38].
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
9
Ở Việt Nam những nghiên cứu về KNƯP còn chưa nhiều và xuất hiện
vài năm trở lại đây. Trong các nghiên cứu về Kỹ năng sống có đề cập đến
KNƯP như một kỹ năng sống cơ bản giúp thế hệ trẻ hội nhập tích cực và
thành cơng. Tuy nhiên những nghiên cứu này còn tản mạn chưa được biết đến
rộng rãi.
Năm 2006, nhóm tác giả do Phan Thị Mai Hương ( Chủ biên) thuộc
Viện tâm lý học - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam đã nghiên cứu về
cách ứng phó của trẻ vị thành niên với hồn cảnh khó khăn tại một số trường
THCS, THPT, Trung tâm giáo dục thường xuyên ở Hà Nội và một số trường
Giáo dưỡng số 2 Ninh Bình. Nghiên cứu đã đưa ra một số đặc điểm ứng phó
của trẻ vị thành niên Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả Phan Thị
Mai Hương đã tìm hiểu về “Mối tương quan giữa cách ứng phó của trẻ vị
thành niên trong hồn cảnh khó khăn với các nhân tố xã hội” và “mối tương
quan giữa cách ứng phó của trẻ vị thành niên trong hồn cảnh khó khăn với
các nhân tố nhân cách”. Kết quả nghiên cứu khẳng định một số nhân tố xã
hội như mức độ trải nghiệm các sự kiện của cuộc đời, chỗ dựa xã hội từ các
mối quan hệ với cha mẹ, thầy cơ và bạn bè, thành tích học tập đạt được qua
các năm học, những thành tích nổi bật trong hoạt động ở nhà trường và vị
thế kinh tế - xã hội của gia đình có ảnh hưởng lớn đến khả năng đáp ứng
trước khó khăn của học sinh. Nghiên cứu cho thấy trẻ vị thành niên có chỗ
dựa xã hội vững chắc về tinh thần: có nơi để chia sẻ, nhận được sự thông
cảm, an ủi cũng như giúp đỡ, có sự quan tâm và hiểu biết lẫn nhau… và có
định hướng tốt đẹp, ít trãi qua những sự kiện âm tính trong cuộc sống thì
thường có những cách ứng phó tích cực trước hồn cảnh khó khăn và ngược
lại [9].
Tác giả Nguyễn Hữu Thụ với nghiên cứu “Các kiểu ứng phó với stress
trong học tập của sinh viên đại học quốc gia Hà Nội” đã chỉ ra rằng chiến
10
lược ứng phó của sinh viên trước các tình huống gây stress trong học tập chủ
yếu bằng phương thức thay đổi nhận thức và hành vi bằng cách giải tỏa cảm
xúc, đánh giá sự kiện xem nó có gây stress khơng và thay đổi hoạt động của
cá nhân. Từ đó, sinh viên chủ động trong học tập, giảm bớt sự lo lắng và
cảm xúc tiêu cực nảy sinh từ các sự kiện gây stress cao trong học tập [22].
Nghiên cứu “Một số khó khăn trong học tập của trẻ vị thành niên và
cách ứng phó của các em” của nhà nghiên cứu Lưu Song Hà đã tập trung tìm
hiểu những biến đổi về tâm sinh lý, môi trường học tập từ tiểu học lên trung
học cơ sở đã tạo ra những khó khăn tâm lý đặc trưng nào và liệt kê những
kiểu ứng phó của trẻ vị thành niên khi gặp khó khăn trong học tập. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng khi gặp khó khăn, trẻ vị thành niên thường sử dụng
trước hết là những cách thức ứng phó bằng hành động, tiếp đến là ứng phó về
tình cảm và cuối cùng là suy nghĩ [6].
Bên cạnh nghiên cứu của Viện tâm lý học, Trung tâm Thông tin và
Chương trình Giáo dục Lê Thánh Tơng, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố
Hồ Chí Minh với sự tài trợ của UNESSCO và UNICEF đã triển khai chương
trình giáo dục kỹ năng sống.
Gần đây cũng có một vài nghiên cứu đề cập đến vấn đề KNƯP như:
Năm 2008- Cơng trình nghiên cứu cấp Bộ của tác giả Đào Thị Oanh
cùng các cộng sự “Thực trạng biểu hiện của một số xúc cảm và kỹ năng
đương đầu với cảm xúc tiêu cực ở thiếu niên hiện nay” đã chỉ ra hầu hết học
sinh thiếu niên chưa biết đương đầu hiệu quả với các xúc cảm tiêu cực và
chưa hình thành một phong cách đương đầu nhất định với xúc cảm tiêu cực.
Khơng thấy có sự khác biệt giữa học sinh nam và nữ; giữa các địa bàn khác
nhau; giữa các khối lớp và giữa các trường với nhau [18].
Năm 2008- Luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Thị Thu Hồng ( Viên Khoa
học giáp dục Việt Nam) nghiên cứu “Kỹ năng ứng phó với những khó khăn
11
trong cuộc sống của học sinh Trung học Cơ Sở tại Hà Nội” cho thấy : học
sinh THCS gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, việc lựa chọn các
phương án tích cực để giải quyết những khó khăn của các em còn nhiều lúng
túng do thiếu hiểu biết về mặt xã hội, đặc biệt thiếu kỹ năng sống [8].
Tác giả Lê Minh Nguyệt ( Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) nghiên
cứu “Xung đột tâm lý của thiếu niên với thiếu niên THCS”.
Tác giả Bùi Bích Phượng ( Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) nghiên
cứu “Ứng phó với Stress trong học tập của sinh viên trường ĐHSP Hà Nội”.
Tác giả Vũ Thị Thanh Hiển (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội – Năm
2010) nghiên cứu “Kỹ năng ứng phó với những khó khăn trong việc rèn luyện
nghiệp vụ của giáo sinh trường trung cấp sư phạm mầm non Đăk Lăk”.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Thảo (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội –
Năm 2012) nghiên cứu “Kỹ năng ứng phó với khó khăn trong cuộc sống của
sinh viên dân tộc ít người trường cao đẳng sư phạm Thái Nguyên”.
Như vậy, các nghiên cứu này xác nhận, thanh thiếu niên Việt Nam gặp
những khó khăn tâm lý trong lĩnh vực học tập và trong hoạt động hàng ngày.
Tùy vào đặc điểm nhân cách và môi trường xã hội mà các em sẽ chọn lựa các
cách đáp ứng trước những khó khăn khác nhau. Việc phân tích lịch sử nghiên
cứu về ứng phó với những khó khăn tâm lý của thanh thiếu niên cho thấy, có
rất ít cơng trình đi sâu nghiên cứu về kỹ năng ứng phó với khó khăn tâm lý
trong học tập của học sinh THPT. Đặc biệt chưa có tác giả nào đi sâu nghiên
cứu KNƯP với KKTL trong học tập của HS THPT tỉnh Bắc Ninh.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Kỹ năng và kỹ năng ứng phó
1.2.1.1. Kỹ năng
Theo một cách phổ biến nhất thì kỹ năng được hiểu là việc cá nhân
thực hiện có kết quả một hành động hay một hoạt động nào đó. Tuy nhiên khi
xem xét một cách hệ thống, chỉ tính riêng trong khoảng từ năm 1960 cho đến
12
nay đã có rất nhiều những quan điểm khác nhau về kỹ năng được các tác giả
đề cập đến. Tóm lại chúng tôi nhận thấy chủ yếu tập trung vào hai cách tiếp
cận nổi bật sau [7;10]:
Cách tiếp cận thứ nhất: Coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành
động hay hoạt động.
Các tác giả theo khuynh hướng này coi kỹ năng là sự nắm vững và vận
dụng phương thức hành động vào thực tiễn trên cơ sở tri thức và những kỹ
năng được hình thành trước đó.
Ph.N Gonobolin (1973) cho rằng Kỹ năng là những phương thức tương
đối hoàn chỉnh của việc thực hiện hành động bất kỳ nào đó. Các hành động
này được hình thành trên cơ sở các tri thức và kỹ xảo – những cái được con
người lĩnh hội trong quá trình hoạt động.
A.V.Kruteski (1980) lại cho rằng: Kỹ năng là sử dụng các tri thức vào
trong thực hành, là phương thức thực hiện hoạt động – cái mà con người lĩnh
hội được. Trong một số trường hợp, KN là phương thức sử dụng các tri thức
vào trong thực hành, tức là khi có tri thức con người phải sử dụng nó vào
trong thực tiễn cuộc sống. Và cũng trong quá trình ấy, các kỹ năng được hoàn
thiện hơn trước.
Quan điểm của các tác giả này bộc lộ hạn chế là để đạt được kết quả
cho mỗi hành động nếu chỉ nắm phương thức của hành động trong hoạt động
cụ thể liệu có mang lại kết quả? Covaliov cho rằng: “ KN là phương thức thực
hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện của hành động”. Theo
ông, kết quả của hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó quan trọng
hơn cả năng lực của con người chứ không đơn giản là cứ nắm vững cách thức
hành động là đem lại kết quả tương ứng.
Chung quan điểm với các tác giả trên, một số nhà Tâm lý học Việt Nam
như: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Thái Duy Tuyên cũng quan niệm kỹ năng
13
là mặt kỹ thuật của hành động, là hệ thống thao tác trí tuệ và thực hành,
phương thức vận dụng tri thức vào thực hành để giải quyết các nhiệm vụ đặt
ra phù hợp với điều kiện cho trước. Con người nắm được các hành động tức
là có kỹ thuật hành động, có kỹ năng.
Tác giả Trần Trọng Thủy, trong cuốn “Tâm lý học lao động” cũng cho
rằng: “Kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động. Con người nắm bắt được
cách thức hành động là có kỹ thuật hành động và có kỹ năng”[32;2].
Tác giả Bùi Thị Xuân đưa ra quan niệm: “Kỹ năng là sự vận dụng đúng
đắn những tri thức, giá trị, thái độ liên quan vào hoạt động hay hành động
thực tiễn theo những điều kiện cụ thể để thực hiện hành động hay hoạt động
có kết quả”. Theo tác giả chỉ khi nào cá nhân nắm rõ tri thức về phương thức
thực hiện hành động và có thái độ vận dụng nó vào thực tiễn thì cá nhân mới
được coi là có kỹ năng trong hoạt động ấy.
Cách tiếp cận thứ hai: Xem xét kỹ năng khơng chỉ là kỹ thuật của
hành động cịn là biểu hiện năng lực của con người. Theo quan điểm này thì
kỹ năng vừa có tính ổn định vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt sáng tạo, vừa có
tính mục đích. Đại diện cho quan niệm này có các tác giả như: N.Đ. Lêvitop,
X.I Kixegof, K.K. Platonov, Nguyễn Quang Uẩn, Phạm Tất Dong, Nguyễn
Thạc, Vũ Dũng, Hà Thị Đức, Trần Quốc Thành… Tuy cách trình bày khác
nhau, nhưng hầu hết các tác giả đều thống nhất : Kỹ năng là khả năng thực
hiện có hiệu quả một nhiệm vụ về lý luận hay thực tiễn nhất định, là năng lực
vận dụng những tri thức và kinh nghiệm đã có vào hoạt động cá nhân.
Theo N.Đ. Lêvitơp thì “kỹ năng là sự thực hiện có hiệu quả của một
tác động nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp
dụng những cách thức đúng đắn các cách thức hành động nhằm thực hiện
hành động có kết quả”. Ơng cho rằng, con người có kỹ năng khơng chỉ nắm
bắt lý thuyết về hành động mà phải biết vận dụng vào thực tế [41;3].
14