Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Phát triển hoạt động ủy thác nguồn vốn ODA tại sở giao dịch III – ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.08 KB, 78 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập nền kinh tế thế giới,
trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ và đầu tư
quý báu của thế giới không chỉ về vốn, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực mà còn
cả về kinh nghiệm quản lý. Nắm bắt được nhu cầu về quản lý nguồn vốn viện
trợ chính thức, Sở giao dịch III – Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam đã đi tiên phong trong lĩnh vực ủy thác. Trong đó, nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) của các nhà tài trợ nước ngồi đã thực sự góp phần to
lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế, công nghiệp hố - hiện đại hố đất nước,
xố đói giảm nghèo và hỗ trợ cải cách chính sách kinh tế tại Việt Nam.
Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn trong nước cho thấy, cơ chế quản lý
nguồn vốn là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả thực hiện các Dự
án sử dụng nguồn vốn ủy thác ODA. Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam (BIDV) được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tín
nhiệm ủy thác quản lý các dự án sử dụng nguồn vốn ODA trọng điểm, mà
trong đó có dự án Tài chính nơng thôn (TCNT) hỗ trợ tăng cường khả năng
tiếp cận các dịch vụ tài chính của người nghèo ở nơng thơn Việt Nam.
Vậy thực trạng hoạt động ủy thác tại Sở giao dịch III như thế nào và để
đánh giá được hiệu quả sử dụng nguồn vốn ủy thác ODA có đạt được như mục
tiêu và nhiệm vụ giao phó mà Chính phủ đề ra hay khơng, cũng như đánh giá
nguồn vốn ODA có thực sự trở thành nguồn vốn nước ngồi có ý nghĩa quan
trọng góp phần vào q trình tăng trưởng kinh tế bền vững tại Việt Nam, tôi
xin lựa chọn đề tài: “ Phát triển hoạt động ủy thác nguồn vốn ODA tại Sở
giao dịch III – Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam” với trọng tâm là hoạt động sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức của


2



Dự án Tài chính nơng thơn do WB tài trợ để làm đề tài nghiên cứu trong luận
văn thạc sỹ này.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về quản lý nguồn vốn ủy thác ODA.
Phân tích đánh giá thực trạng hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn
ủy thác ODA tại SGD III – BIDV.
Đề xuất giải pháp phát triển hoạt động ủy thác nguồn vốn ODA tại
SGD III – BIDV trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động ủy thác nguồn vốn ODA của NHTM
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động ủy thác ODA tại SGD III – BIDV
trong giai đoạn 2008 - 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích kinh tế, tổng hợp diễn
dịch và qui nạp, so sánh, bảng số liệu, biểu đồ, phân tích dữ liệu thứ cấp từ
Tài liệu lý thuyết và báo cáo của SGD III – BIDV.
5. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1:Lý luận chung về hoạt động ủy thác nguồn vốn ODA của
Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động ủy thác nguồn vốn ODA tại Sở giao
dịch III - Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động ủy thác nguồn vốn ODA tại
Sở giao dịch III - Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam


3


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ỦY THÁC
NGUỒN VỐN ODA TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát sử dụng vốn ODA tại Ngân hàng Thương mại
1.1.1. Khái niệm về vốn ODA
ODA là tên viết tắt 3 chữ cái đầu của Tiếng Anh: “Official
Development Assistance” có nghĩa là “Hỗ trợ phát triển chính thức”. Theo
chương trình phát triển liên hợp quốc trong “Báo cáo tổng quan viện trợ phát
triển chính thức tại Việt Nam, tháng 12 năm 2002” có đưa ra khái niệm về
ODA như sau:
“Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) bao gồm tất cả các khoản viện
trợ không hoàn lại và các khoản cho vay đối với các nước đang phát triển, cụ
thể là (i) do khu vực chính thức thực hiện; (ii) chủ yếu nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế và phúc lợi; (iii) cung cấp với các điều khoản ưu đãi về mặt tài
chính (nếu là vốn vay thì có phần khơng hồn lại ít nhất là 25%)”.
Ngày 04/05/2001, lần đầu tiên Nghị định 17/2001/NĐ-CP về Quy chế
quản lý và sử dụng Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức có đưa ra khái niệm về
ODA như sau:
“Hỗ trợ phát triển chính thức (sau đây gọi tắt là ODA) trong quy chế
này được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính
phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ bao gồm: (i)
Chính phủ nước ngồi, (ii) Các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia”.
Như vậy, các khái niệm ODA nêu trên đều thống nhất một số vấn đề cơ
bản như sau: ODA là mối quan hệ hợp tác phát triển mang tính “Hỗ trợ vốn”
giữa quốc gia này với quốc gia khác nhằm thúc đẩy “phát triển” kinh tế - xã
hội thông qua con đường “chính thức” giữa cấp Nhà nước và Nhà nước, giữa


4


Nhà nước và Chính phủ với các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia và
mối quan hệ “ODA” này hình thành và phát triển dựa trên nền tảng của một
phần cho khơng (phần khơng hồn lại hay cịn gọi là thành tố hỗ trợ) kết tinh
trong tổng nguồn vốn ODA hàng năm mà nước này cam kết dành cho nước
khác để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội đã định với giá
trị ít nhất là 25% so với tổng giá trị viện trợ.
1.1.2. Các đặc trưng của vốn ODA
Vốn ODA có tính chất ưu đãi
Bản thân nguồn vốn ODA bao gồm rất nhiều tính ưu đãi. Tính ưu đãi
thể hiện ở phần viện trợ khơng hồn lại khá lớn. Cịn phần cho vay chủ yếu là
vay ưu đãi với lãi suất thấp hơn các khoản vay thông thường rất nhiều
(thường dưới 3%). Một khoản vay ODA thường có thời gian sử dụng vốn dài,
thường 30-40 năm, bao gồm 2 phần: thời gian ân hạn (từ 5-10 năm) và thời
gian trả nợ (gồm nhiều giai đoạn và những tỷ lệ trả nợ khác nhau ở từng giai
đoạn). Đây chính là điểm khác biệt cơ bản của ODA so với khoản vay thương
mại thông thường.
Vốn ODA thường đi kèm các điều kiện ràng buộc
ODA ngay từ khi ra đời đã kèm theo điều kiện ràng buộc mà nhà tài
trợ đặt ra cho nước nhận vốn, thể hiện ở những ảnh hưởng về kinh tế và
chính trị. Ví dụ như Nhật tập trung viện trợ cho các nước châu Á, Mỹ tập
trung khu vực Trung Đơng và Mỹ La tinh,... mục đích sâu xa nhằm tăng
cường ảnh hưởng của nước tài trợ tại khu vực nhận tài trợ. Mặt khác, các
nước cung cấp tài trợ cịn có tham vọng đạt được ảnh hưởng về kinh tế,
mang lại thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của các nhà sản
xuất trong nước, và hơn thế nữa, còn dọn đường cho nguồn vốn đầu tư
nước ngoài (FDI) chảy vào nước nhận viện trợ. Đây thường được coi là
mặt trái của ODA.


5


Vốn ODA có tính hai mặt đối với quốc gia tiếp nhận
- Mặt tích cực: Nguồn vốn ODA giúp quốc gia tiếp nhận thức đẩy đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI), bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư
phát triển,hỗ trợ tăng cường năng lực thể chế và đẩy mạnh các hoạt động cải
cách chính sách kinh tếvà góp phần đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu cần thiết
của Chính phủ mà khơng gây ra lạm phát, bổ sung ngoại tệ quan trọng cho
các quốc gia đang phát triển và bù đắp thiếu hụt trong cán cân thanh tốn và
là cầu nối giao lưu văn hố, chính trị và con người giữa các nước tài trợ với
nước tiếp nhận viện trợ. Thông qua nguồn vốn ODA, các nước tiếp nhận
ODA thường thiết lập và mở rộng được các mối quan hệ hợp tác phát triển đa
phương và song phương với các nước tài trợ.
- Mặt tiêu cực: ODA gắn liền với quyền lợi kinh tế của các nước tài
trợ: Xu hướng chung hiện nay của các nhà tài trợ đó là giảm số tiền viện trợ
khơng hồn lại và tăng các khoản cho vay ưu đãi với các điều kiện ràng buộc
tức buộc nước tiếp nhận ODA phải mua hàng hoá và dịch vụ đi kèm của nước
cung cấp ODA. Đây là điểm nổi bật trong thực trạng viện trợ hiện nay trên thế
giới. Tuy nhiên, mức độ ràng buộc của mỗi nước lại có khác nhau. Trong một
số trường hợp, nguồn vốn ODA thường gắn liền với yếu tố chính trị hơn là
yếu tố kinh tế.
Các khoản vay ODA thường trở thành gánh nặng nợ nần của quốc
gia trong tương lai vì các khoản vay ODA là các khoản vay giữa cấp Nhà
nước và Nhà nước. Các khoản vay này thường được Chính phủ nước đi vay
tập trung vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, do đó khả
năng sinh lời trong ngắn hạn của các dự án này rất thấp, thậm chí là bằng
khơng nếu hạ tầng cơ sở đó sau khi được đầu tư và đi vào vận hành nhưng
không phát huy được hiệu quả, hoặc sử dụng không hết công suất, hoặc


6


thậm chí là phải bỏ khơng, thì bổng nhiên tạo ra gánh nặng nợ nần tiềm ẩn
trong tương lai.
Các khoản ODA thường gắn với những điều kiện khắt khe như: điều
kiện về vốn đối ứng, điều kiện về cơ chế quản lý tài chính...
So với các khoản tài trợ ODA song phương với điều kiện ràng buộc
nhằm nâng cao lợi ích kinh tế của nước tài trợ thì ODA đa phương từ WB lại
chú trọng việc bảo vệ các giá trị tự nhiên và nâng cao chất lượng cuộc sống
của nước sở tại. Ngoài các điều kiện như trên, các nhà tài trợ còn đưa ra một
số yêu cầu về chính sách kinh tế, lựa chọn các đối tượng có quy mơ, năng lực
tài chính và hoạt động nhất định, chỉ thực hiện đầu tư ở một số khu vực,...
1.1.3. Các phương thức viện trợ nguồn vốn ODA
Viện trợ theo chương trình
Viện trợ theo chương trình là một thuật ngữ mô tả các khoản hỗ trợ vào
các lĩnh vực như đầu tư hỗ trợ cán cân thanh toán và ngân sách của Chính
phủ. Đi kèm với phương thức cung cấp này thường là các điều kiện liên quan
đến việc Chính phủ phải quyết định như thế nào trước việc sử dụng khoản
viện trợ đó, ngồi ra sẽ là các điều kiện liên quan đến cải cách chính sách.
Viện trợ theo chương trình gồm: Hỗ trợ cán cân thanh tốn; Hỗ trợ
Ngân sách; Hỗ trợ ngân sách theo ngành và Giảm nợ.
Viện trợ theo dự án
Là những khoản viện trợ theo các mục tiêu cụ thể. Các hoạt động và chi
tiêu của dự án sẽ được chi tiết hóa và thường là khơng địi hỏi phải thêm các
điều kiện liên quan đến lĩnh vực thay đổi chính sách. Một dự án phát triển là
một loạt hoạt động riêng lẻ với những mục tiêu, ngân sách và kết quả được xác
định rõ ràng cũng như cơ chế quản lý dự án hết sức cụ thể. Có ba phương thức:
- Viện trợ dự án được chuyển qua Chính phủ: là hình thức Chính phủ
các nước tiếp nhận viện trợ phải tự chịu trách nhiệm về quản lý dự án và tự



7

kiểm soát việc sử dụng nguồn vốn của các nhà tài trợ. Trong trường hợp này,
vốn của Dự án được giải ngân trực tiếp vào một tài khoản của Chính phủ. Các
nhà tài trợ yêu cầu Chính phủ nước tiếp nhận phải hạch toán việc sử dụng
nguồn vốn này một cách minh bạch và các nhà tài trợ thường đưa ra các cách
thức sử dụng nguồn vốn cho dự án.
- Viện trợ dự án do Nhà tài trợ quản lý: Là dạng các nhà tài trợ giữ
quyền kiểm soát, quản lý các hoạt động và kinh phí của dự án. Trong trường
hợp này, các nhà tài trợ thành lập đơn vị quản lý dự án đặc biệt chịu trách
nhiệm thực hiện dự án và quản lý vốn của các nhà tài trợ. Vốn được giải ngân
và hạch toán theo các thủ tục của các nhà tài trợ. Các dự án này khơng phải là
bộ phận của chương trình và Ngân sách thường xuyên của Chính phủ, các
Chính phủ thường cung cấp và cử cán bộ làm việc cho các dự án trên cơ sở
biệt phái. Cơ chế cấp vốn như vậy thường thấy ở các dự án do các nhà tài trợ
song phương tài trợ và thể hiện rõ nét của hình thức viện trợ này là các khoản
viện trợ khơng hồn lại dưới dạng hỗ trợ kĩ thuật (TA).
- Viện trợ dự án được chuyển qua các Tổ chức phi chính phủ
(NGO): là một trong những phương thức hỗ trợ thông dụng của các nhà tài
trợ. Trong trường hợp này, các nhà tài trợ có thể viện trợ cho NGO trên cơ sở
đề xuất dự án được xác định phù hợp. Các nhà tài trợ thường kí hợp đồng với
các NGO nêu rõ các hoạt động sẽ được thực hiện và các điều kiện sử dụng
vốn cũng như các yêu cầu về kiểm toán, kế toán.
1.1.4. Sử dụng vốn ODA của Ngân hàng thương mại
Các NHTM là cơ quan được Chính phủ hoặc một cơ quan thay mặt
Chính phủ quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA bằng các hình thức sau: (i)
được ủy quyền cho vay lại các doanh nghiệp tồn bộ hoặc một phần vốn
ODA của Chính phủ; hoặc (ii) được vay lại để cho vay tiếp theo một chương
trình tín dụng hoặc hợp phần tín dụng trong một dự án sử dụng vốn ODA.



8

Việc lựa chọn ủy quyền cho NHTM cho vay lại nguồn vốn ODA của
Chính phủ được coi là hình thức tốt nhất do: NHTM là một tổ chức cung
cấp tín dụng chuyên nghiệp nhất trong nền kinh tế. NHTM có sự kiểm soát
về tổ chức bộ máy cũng như hoạt động chặt chẽ của nhiều cơ quan chức
năng đặc biệt là NHNN. Đồng thời với việc thực hiện hoạt động tín dụng
trong nước đã tạo ra nền tảng kiến thức, kinh nghiệm cho NHTM về các
lĩnh vực ngành nghề cũng như các doanh nghiệp, tổ chức. Do đó, NHTM
khơng chỉ có khả năng quản lý các nguồn vốn ủy thác cho vay lại một cách
chặt chẽ, đảm bảo các yêu cầu của nhà tài trợ và Chính quyền mà cịn có
khả năng tư vấn cho các cơ quan Chính phủ (thông qua việc tham gia ý
kiến vào các Hiệp định tín dụng, Cơ chế triển khai các nguồn vốn,….)
trong việc sử dụng, quản lý các nguồn vốn này một cách hiệu quả, phát
huy được mục tiêu tài trợ đề ra. Thêm vào đó, NHTM thường có mạng lưới
chi nhánh rộng khắp trên cả nước sẽ là kênh dẫn các nguồn vốn này một cách
nhanh chóng từ nhà tài trợ đến các khách hàng.
Vốn ODA nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho những lĩnh vực quan
trọng của nền kinh tế như cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước,… được nhà
tài trợ nước ngoài quyết định và NHTM chịu trách nhiệm giám sát quá trình
sử dụng vốn vay của khách hàng.
Khách hàng được vay nguồn vốn ODA được Nhà tài trợ và Chính phủ
lựa chọn thường là các doanh nghiệp nhà nước lớn, hoạt động trong các lĩnh
vực quan trọng được Chính phủ ưu tiên.
Các khoản vay ODA thường là các khoản vay dài hạn có thời gian ân
hạn dài.
Lãi suất cho vay đến khách hàng bao gồm: lãi suất do nhà tài trợ quyết
định (lãi suất này có thể cố định hoặc thả nổi), phí cho vay lại phải trả Chính
phủ, phần lãi suất do NHTM hưởng hoặc phí dịch vụ cho vay lại.



9

Đồng tiền được sử dụng để cho vay lại nguồn vốn vay ODA của Chính
phủ thường liên quan đến nhiều đồng tiền khác nhau. Vì vậy, khi thực hiện
hoạt động cho vay lại thường gắn với các sản phẩm mua, bán, hoán đổi ngoại
tệ,…tại NHTM.
1.2. Hoạt động ủy thác tại Ngân hàng Thương mại
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của hoạt động ủy thác
Hoạt động ủy thác xuất hiện khá sớm, ngay từ những buổi đầu của nền
kinh tế thị trường. Khi những nhà buôn, tư bản, địa chủ đã tích lũy được một
lượng tài sản lớn thì cùng lúc đó họ cũng phát sinh nhu cầu muốn đảm bảo an
tồn cho tài sản của mình. Một số người cảm nhận được nhu cầu này, họ có sự
nhạy bén với thị trường, có vốn lớn và uy tín cao đã đứng ra nhận trách nhiệm
trông coi, đảm bảo an tồn cho số tài sản đó. Ngược lại, những người chủ sở
hữu tài sản phải trả cho họ một số tiền coi như phí. Nghiệp vụ ủy thác nảy sinh
từ đây.
Ban đầu, hầu hết các nghiệp vụ ủy thác chỉ diễn ra giữa cá nhân và cá
nhân và chỉ dừng lại ở việc đảm bảo, quản lý hộ các tài sản (tiền, vàng, trang
sức,...). Bên nhận ủy thác cũng chỉ dừng lại ở việc trông coi tài sản cho bên ủy
thác và việc đem tài sản của bên ủy thác đi đầu tư là rất hiếm. Một đặc điểm
quan trọng trong thời kỳ phát triển sơ khai của hoạt động ủy thác là sư tham gia
của pháp luật còn rất hạn chế. Hai bên tham gia ủy thác trên cơ sở tin tưởng và
cùng có lợi, chủ yếu giữa họ là sự thỏa thuận miệng chứ khơng có giấy tờ hay
văn bản.
Theo thời gian, nền kinh tế thị trường phát triển hơn kéo theo những
thay đổi trong nghiệp vụ ủy thác. Lúc này, hoạt động ủy thác khơng chỉ bó
hẹp giữa cá nhân với cá nhân mà còn mở rộng ra giữa cá nhân với tổ chức hay
giữa tổ chức với tổ chức. Các cơng ty có vốn dư thừa hay tài sản nhàn rỗi, tạm

thời chưa sử dụng đến, đồng thời lại có mong muốn tài sản của mình không


10

gặp rủi ro mà vẫn sinh lời hợp lý. Bắt nguồn từ những địi hỏi trên, họ tìm đến
những người có khả năng và điều kiện đáp ứng nhu cầu đó. Tuy nhiên, nếu tài
sản đó mang một giá trị lớn thì một người khơng thể đảm đương được vai trị
quản lý. Chính vì thế, các tổ chức chun nghiệp cung ứng dịch vụ ủy thác ra
đời. Nhiệm vụ ủy thác cũng có những thay đổi nhất định, khơng chỉ đơn thuần là
quản lý hộ tài sản để nhận phí nữa mà cịn đảm bảo mục đích sinh lời cho tài sản
đó và thực hiện những cơng việc mà khách hàng yêu cầu.
Trong giai đoạn phát triển, các công ty bảo hiểm đã nhanh chân hơn các
tổ chức tín dụng trong việc nhận ủy thác của khách hàng. Song, có một số hạn
chế là các công ty bảo hiểm chỉ được quản lý hộ tài sản cho khách hàng và thu
phí chứ khơng được sử dụng chúng để sinh lời. Các ngân hàng xuất phát sau
nhưng lại là những tổ chức phát triển nghiệp vụ ủy thác mạnh nhất. Tuy nhiên,
mãi đến những năm 50 của thế kỷ XX, nghiệp vụ ủy thác mới được coi là chìa
khóa để mở cánh cửa phát triển cho ngân hàng trong tương lai.
Ngày nay, khơng chỉ có các ngân hàng thương mại (NHTM) mà nhiều
tổ chức trung gian tài chính khác cũng đang quan tâm đến hoạt động ủy thác.
Mặt khác, hoạt động ủy thác cũng đang có những bước thay đổi và phát triển
trên nhiều phương diện để mang lại hiệu quả cao nhất. Các tổ chức tín dụng
khơng chỉ là người thụ thác mà cịn đóng vai trị là người ủy thác. Họ có thể
ủy thác tài sản để đầu tư cho vay với các công ty đang thiếu vốn hay giữa các
tổ chức tín dụng có thể ủy thác lẫn cho nhau.
Như vậy, hoạt động ủy thác ngày càng đa dạng, hoàn thiện và phát triển
hơn. Bên cạnh những mảng truyền thống cịn mở rộng ra những hình thức
mới như ủy thác công việc, ủy thác vay vốn, ủy thác hàng hóa xuất nhập
khẩu,.. Từ đó, khách hàng càng có thêm nhiều sự lựa chọn phù hợp với nhu

cầu của mình.


11

Khái niệm hoạt động ủy thác:
“Ủy thác là một hoạt động mà theo đó bên nhận ủy thác thực hiện
quản lý tài sản cho bên ủy thác theo một thỏa thuận đem lại lợi ích cho bên
ủy thác hoặc bên thụ hưởng.”
Từ khái niệm của hoạt động ủy thác ta có thể thấy những đặc điểm nổi
bật của nghiệp vụ này:
- Sự tin tưởng giữa hai bên là nền tảng cho hoạt động ủy thác. Bên nhận
ủy thác phải có đủ khả năng và năng lực chuyên môn để bên ủy thác tin
tưởng, giao phó tài sản của mình.
- Hoạt động ủy thác khá phức tạp do liên quan đến quyền lợi của nhiều
người, tùy thuộc vào loại hình ủy thác được sử dụng.
- Hoạt động ủy thác được ràng buộc chặt chẽ và có tính pháp lý cao
bằng một hợp đồng quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ các bên tham gia.
1.2.2. Vai trò của dịch vụ ủy thác đối với các chủ thể trong nền kinh tế
Đối với khách hàng:
Tại các nước đang phát triển, hoạt động ủy thác đã trở thành một nhu
cầu không thể thiếu của người dân, mở ra cho họ một sự lựa chọn mới. Với tài
sản của mình, họ có thể tham gia các kênh đầu tư một cách gián tiếp thông
qua việc ủy thác tài sản của mình cho một tổ chức tài chính có uy tín. Tài sản
của người ủy thác khơng những được đảm bảo mà cịn được sinh lời. Đó chỉ
là một trong số rất nhiều những tiện ích mà dịch vụ ủy thác đem lại cho khách
hàng. Tùy thuộc vào loại hình ủy thác khách hàng sử dụng mà bên nhận ủy
thác có trách nhiệm và nghĩa vụ phục vụ khách hàng đầy đủ.
Đối với các Ngân hàng thương mại:
Ngày nay, khi các NHTM không ngừng tăng lên về số lượng cũng như

quy mơ thì nghiệp vụ uỷ thác đã mở ra một kênh huy động vốn mới linh hoạt
và thường ít tốn kém hơn bên cạnh những kênh huy động truyền thống. Tuy


12

nhiên, vốn qua hoạt động uỷ thác phải được đầu tư theo chỉ định của người uỷ
thác nên sẽ khó khăn hơn khi lựa chọn đối tượng đầu tư.
Lợi ích ngân hàng đạt được khi tham gia hoạt động uỷ thác là nâng cao
uy tín, năng lực cạnh tranh và khả năng thu hút khách hàng. Như chúng ta đã
biết, để phát triển hoạt động uỷ thác không phải là dễ dàng. Đi kèm với đó là
trách nhiệm, nghĩa vụ và khả năng quản lý tài ba của người thụ thác. Chính vì
thế nếu một ngân hàng phát triển trong lĩnh vực uỷ thác đồng nghĩa với việc
họ là một ngân hàng có uy tín, khả năng quản trị tốt và đáp ứng tốt các nhu
cầu khách hàng. Do đó, muốn vươn lên dẫn đầu, nâng cao thị phần và uy tín
với khách hàng thì ngân hàng khơng thể bỏ qua nghiệp vụ uỷ thác.
Đối với nền kinh tế:
Dịch vụ uỷ thác phát triển là một kênh để thu hút vốn từ các cá nhân, tổ
chức vào nền kinh tế. Khi bên ủy thác đem tài sản của mình đi uỷ thác có nghĩa
là tài sản đó sẽ được đầu tư dưới một hình thức nào đó. Chính nhờ vậy, lượng
tiền trong nền kinh tế được quay vòng và được đầu tư một cách thích đáng.
1.2.3. Các dịch vụ uỷ thác của Ngân hàng thương mại
Tuỳ thuộc vào tiêu chí khác nhau mà ta có thể phân chia nghiệp vụ uỷ
thác ra thành nhiều loại:
Phân loại theo đối tượng phục vụ uỷ thác
Đối với cá nhân:
- Thanh lý tài sản: Trước khi một người mất đi, họ thường chỉ định
người thực hiện di chúc của mình (thường là các phịng uỷ thác của NHTM).
Trong trường hợp người đã mất không để lại di chúc thì tồ án sẽ chỉ định
người quản lý tài sản và đó cũng có thể là phòng uỷ thác của NHTM.

- Điều hành các uỷ thác cá nhân: Đây là một trong những chức năng
quan trọng nhất của phòng uỷ thác tại NHTM, xuất phát từ thoả thuận của
người uỷ thác và người nhận uỷ thác. Đó là việc chuyển nhượng tài sản từ


13

người uỷ thác sang người nhận uỷ thác để nắm giữ và điều hành tài sản vì lợi
ích của người uỷ thác hay người thụ hưởng.
- Uỷ thác giám hộ và bảo quản tài sản: Khi một người ở tuổi vị thành
niên được thừa kế tài sản, họ phải thuê hay được chỉ định một người giám hộ
để nắm giữ tài sản cho mình. Thơng thường, trách nhiệm này được giao cho
phòng uỷ thác của NHTM.
- Uỷ thác đại diện: Các bộ phận tín thác thực hiện các dịch vụ đại diện
cho cá nhân, trong đó nhiệm vụ quan trọng nhất là đóng vai trị người cất giữ,
người đại diện quản lý tài sản và người đại diện tố tụng.
Đối với doanh nghiệp:
Hầu hết các nghiệp vụ ủy thác đối với doanh nghiệp là phục vụ các
mục đích như trợ cấp hưu trí, phân chia lợi nhuận và chia tiền thưởng cổ
phần, phát hành trái phiếu, mua lại các quỹ, ủy thác thế chấp,.. Các chương
trình vì lợi ích cơng nhân do các NHTM cung cấp có thể mang những hình
thức khác nhau như: chương trình tự cấp vốn, tín thác đầu tư vốn, chi trả phù
hợp với thỏa thuận ủy thác,.. Thực tề chứng minh rằng, chương trình phúc lợi
cho công dân là một bộ phận quan trọng trong kinh doanh ủy thác.
Các bộ phận ủy thác còn thực hiện một số chức năng làm đại lý cho các
doanh nghiệp với vai trò “người đại lý chuyển nhượng”, liên quan đến việc
chuyển nhượng cổ phiếu doanh nghiệp. Nhiệm vụ của đại lý chuyển nhượng
là nhận một loại chứng khoán nào đó và trao lại một loại chứng khốn khác
phù hợp với kế hoạch định trước. Bên cạnh đó, dịch vụ ủy thác của NHTM
dành cho doanh nghiệp còn là quản lý, đăng ký, đại lý thanh toán cho các đợt

phát hành trái phiếu của các công ty với nhiều mục tiêu khác nhau.
Đối với các tổ chức từ thiện và các tổ chức khác:
Bộ phận ủy thác của NHTM có thể đóng vai trị là người thụ thác cho
các tổ chức xã hội. Các hoạt động ủy thác hướng vào các mục đích khác nhau


14

như thúc đẩy nghiên cứu khoa học, trợ giúp các trường học, các tổ chức nhân
đạo hay từ thiện,.. Lúc này, bộ phận ủy thác đóng vai trị là người đại diện quản
lý đầu tư đối với các quỹ quyên góp hay đơi khi là đại diện cho chính quyền địa
phương.
Phân loại theo mục đích uỷ thác
Uỷ thác vốn:
Uỷ thác vốn hay cịn gọi là tín dụng uỷ thác là việc bên nhận uỷ thác
cho vay hoặc nhận vốn giao từ bên uỷ thác và sử dụng nguồn vốn này để cho
vay. Khi bên nhận uỷ thác thực hiện hai hoạt động này thì bên uỷ thác sẽ phải
trả cho họ một số tiền gọi là phí.
Nguồn tín dụng uỷ thác rất đa dạng và phong phú. Do yêu cầu nghiên
cứu ta có thể chia ra các nguồn tiêu biểu sau:
- Nguồn vốn uỷ thác từ cá nhân: quy mô tài sản uỷ thác khơng lớn và
mục đích chính là muốn giao vốn cho những người có khả năng, kinh nghiệm
để sinh lời, giảm rủi ro và thuế.
- Nguồn vốn uỷ thác từ các cơng ty, tập đồn, tổ chức tín dụng trong
nước: các cơng ty, tập đồn có nguồn vốn nhàn rỗi sẽ thực hiện uỷ thác vốn
cho các ngân hàng với mục đích sinh lời từ khoản tài sản này. Bên cạnh đó,
các tổ chức tín dụng, thường là các ngân hàng cũng là người uỷ thác. Khi huy
động được một lượng lớn tiền gửi của dân cư, họ có thể dùng nó để uỷ thác
đầu tư hoặc cho vay để sinh lời.
- Nguồn vốn uỷ thác từ Chính phủ: thơng qua các NHTM, số vốn của

Chính phủ sẽ được đưa đến các đối tượng theo yêu cầu, phù hợp với chiến
lược và định hướng phát triển của đất nước. Ngồi cho vay, ngân hàng cịn
giúp Chính phủ thu tiền lãi, thu gốc từ các khoản vay và hưởng phí tùy theo
thoả thuận kí kết giữa hai bên.


15

- Nguồn vốn uỷ thác từ nước ngồi: có thể là các khoản viện trợ khơng
hồn lại, các khoản vay ưu đãi hay các dịng tiền đầu tư,.. Có 3 đối tượng
chính nước ngồi tham gia uỷ thác:
+ Cơng ty kinh doanh nước ngoài: đa số họ sẽ tự đầu tư vào các thị
trường, tuy nhiên có một số trường hợp lựa chọn trước một số mục tiêu đầu tư
hoặc cho vay rồi uỷ thác vốn cho các NHTM.
+ Chính phủ nước ngồi: việc uỷ thác thực chất là hình thức chuyển
giao vốn có sự thoả thuận, ký kết của hai nước.
+ Các tổ chức tiền tệ thế giới: họ dùng vốn của mình uỷ thác cho các tổ
chức tín dụng trong nước nhằm thực hiện đầu tư hay giải ngân cho vay theo
một chương trình. Mục tiêu chính khơng phải là sinh lời mà là các mục tiêu
xã hội như phát triển sản xuất tiêu dùng cho các vùng nghèo hay nâng cao
chất lượng cuộc sống.
Uỷ thác đầu tư:
Ủy thác đầu tư là việc bên ủy thác giao cho bên nhận ủy thác tiền và tài
sản của mình để bên ủy thác tham gia đầu tư vào các dự án, doanh
nghiệp,..nhằm mục đích sinh lời cho tài sản. Bên nhận ủy thác có thể tồn
quyền đầu tư tài sản, tuy nhiên không được hưởng lời sinh ra từ tài sản mà chỉ
được nhận phí do quản lý tài sản đó.
Ủy thác đầu tư được chia thành các hình thức sau:
- Ủy thác đầu tư khơng chỉ định: Ở hình thức đầu tư này, bên nhận ủy thác
được sử dụng toàn quyền vốn ủy thác miễn sao sinh lời và không trái với quy

định pháp luật. Tuy nhiên, họ cũng phải chịu 100% rủi ro với vốn đầu tư của
mình.
- Ủy thác đầu tư chỉ định: Đây là hình thức đầu tư mà bên nhận ủy thác
sẽ sử dụng vốn uỷ thác theo yêu cầu của khách hàng và không trái với quy
định pháp luật. Trong hợp đồng ủy thác này sẽ quy định rõ thỏa thuận và yêu


16

cầu của hai bên ủy thác và nhận ủy thác. Tùy vào mức độ rủi ro mà khách
hàng chấp nhận. Ủy thác đầu tư chia thành hai loại:
+ Ủy thác đầu tư chỉ định chia sẻ rủi ro: Bên ủy thác đồng ý cho bên
nhận ủy thác đầu tư vào dự an, doanh nghiệp hay lĩnh vực cụ thể mà hai bên
đã thống nhất. Bên nhận ủy thác có nghĩa vụ bảo toàn vốn cho bên ủy thác và
hai bên cùng chia sẻ lợi nhuận đầu tư theo một tỷ lệ lợi nhuận.
+ Ủy thác đầu tư chỉ định không chia sẻ rủi ro: Bên nhận ủy thác có
nghĩa vụ tư vấn cho khách hàng các lĩnh vực hay dự án nên đầu tư. Dựa vào
đó, khách hàng là người tự quyết định phương án đầu tư và tự chịu rủi ro. bên
nhận ủy thác chỉ đóng vai trị khách hàng để đầu tư, người đứng tên tham gia
dự án có thể là khách hàng hoặc bên nhận ủy thác. Bên nhận ủy thác sẽ tư vấn
cho khách hàng lựa chọn ủy thác từng phần hay toàn bộ. Trên cơ sở đó sẽ
phân định người chịu trách nhiệm đầu tư là khách hàng hay bên nhận ủy thác
cũng như mức độ chịu rủi ro mỗi bên.
Uỷ thác thực hiện công việc:
Tùy thuộc vào nhu cầu của khách hàng mà bộ phận ủy thác sẽ nhận
công việc ủy thác. Các công việc nhận ủy thác có thể rất phong phú và đa
dạng như: đàm phán kí kết hợp đồng, phát hành trái phiếu, thuê mua tài
chính,...
1.2.4. Trách nhiệm của ngân hàng thương mại đối với dịch vụ uỷ thác
Trong việc phục vụ khách hàng, nhiệm vụ và trách nhiệm cơ bản của

bộ phận nhận ủy thác được quy định trong văn bản pháp luật. Đối với dịch vụ
ủy thác, người thụ thác phải trung thành tuyệt đối với người ủy thác và người
hưởng lợi. Quyền thụ thác là một thỏa thuận trong đó bao gồm cả sự tin
tưởng. Mối quan hệ giữa người thụ thác và người ủy thác được quy định trong
hợp đồng ủy thác, bị ràng buộc về pháp lý, mang tính thành thực cao, có văn
hóa kinh doanh và trách nhiệm bảo vệ hợp đồng nếu cần thiết.


17

Mọi hoạt động của bộ phận ủy thác đều phải tuân theo chỉ thị hay điều
khoản trong hợp đồng, di chúc, lệnh tịa án. Họ khơng được tự quyền quyết
định một hành động khác dù là tốt hơn.
Trách nhiệm của người thụ thác rất nặng nề. Họ sẽ phải chịu trách
nhiệm nếu làm thiệt hại tài sản của khách hàng do lỗi của chính họ. Tuy
nhiên, nếu như giá trị của tài sản giảm sút do tình hình kinh doanh chung thì
người ủy thác cũng khơng thể bắt họ lãnh trách nhiệm. Chính vì thế, xây dựng
một bộ phận nhận ủy thác có kinh nghiệm, làm việc hiệu quả, có trách nhiệm
trong NHTM không phải là dễ dàng.
1.3. Hoạt động ủy thác nguồn vốn ODA tại Ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm ủy thác nguồn vốn ODA tại Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
tốn và thực hiện chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế. Cho vay ủy thác là một hoạt động đặc thù của
ngân hàng thương mại, theo đó, cho vay ủy thác từ nguồn vốn vay nước ngồi
của Chính phủ tại Ngân hàng thương mại là việc Chính phủ hoặc một cơ quan
thay mặt Chính phủ ủy quyền cho Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay
các doanh nghiệp/tổ chức toàn bộ hoặc một phần vốn vay nước ngoài của
Chính phủ và Ngân hàng thương mại được hưởng phí ủy thác từ hoạt động

này. Do những lợi thế như mạng lưới chi nhánh rộng, khả năng cung cấp các
sản phẩm dịch vụ đa dạng,… nên NHTM được coi là bên nhận ủy thác ưu việt
nhất so với những đối tượng nhận ủy thác khác.
1.3.2. Đặc điểm ủy thác nguồn vốn ODA cho các Ngân hàng thương mại
Nguồn vốn ủy thác ODA quyết định tới quy mô đầu tư, cho vay nên sẽ
ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng.


18

ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, NHTM
sử dụng nguồn vốn này để thu hút cho vay tới các dự án mang tính chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và Chính phủ, ví dụ như dự án phát
triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, đầu tư phát triển ngành giáo
dục, y tế, hỗ trợ phát triển ngành nơng nghiệp….
Ủy thác nguồn vốn ODA góp phần tăng khả năng thu hút các nguồn
vốn đầu tư khác của NHTM, trong đó có vốn FDI và tạo điều kiện để mở
rộng đầu tư phát triển.
1.3.3. Nguyên tắc ủy thác nguồn vốn ODA tại Ngân hàng thương
mại
Nguồn vốn ủy thác ODA của Chính phủ là một khoản nợ của Chính
phủ. Vì vậy, để đảm bảo việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn này một
cách hiệu quả, các nước tiếp nhận thường phải xây dựng quy trình cho vay
lại riêng cho các nguồn vốn này. Quy trình cho vay lại các nguồn vốn này
bao gồm các bước sau:
Bước thứ nhất: Tiếp nhận nguồn vốn
Ngân hàng được Chính phủ (hoặc cơ quan được Chính phủ uỷ quyền)
uỷ quyền thực hiện cho vay lại hoặc phục vụ dự án thông qua Hợp đồng ủy
quyền cho vay lại. Ngân hàng sẽ thay mặt cơ quan của Chính phủ quản lý
khoản vay theo các yêu cầu của nhà tài trợ, Chính phủ và được hưởng phí

dịch vụ cho vay lại hoặc chênh lệch lãi suất.
Bước thứ hai: Thực hiện cho vay lại các nguồn vốn
Ngân hàng sẽ thực hiện việc lựa chọn người vay, rút vốn, giải ngân và
thanh toán các loại phí cho nhà tài trợ theo đúng quy định tại Hiệp định vay
và Hợp đồng uỷ quyền đã ký. Trường hợp có nhiều đối tượng phù hợp với dự
án, Ngân hàng (là cơ quan cho vay lại) có thể thực hiện nhận nợ với Chính


19

phủ và cho vay đến những đối tượng, người vay cuối cùng hoặc có thể lựa
chọn cho vay một vài tổ chức tài chính khác để chúng trực tiếp cho vay với
đối tượng, người vay cuối cùng. Dù là trường hợp nào thì cơ quan cho vay lại
cũng phải đảm bảo được nguồn vốn tiếp nhận từ nhà tài trợ đến được với
những người cần vốn, do vậy phải quản lý rất chặt chẽ, cẩn trọng song cũng
hết sức linh hoạt ở việc thực hiện cho vay đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của
người cần vốn, cũng như nhà tài trợ.
Bước thứ ba: Quản lý, giám sát các khoản vay
Nguồn vốn sau khi được giải ngân đến người vay lại cuối cùng phải
được giám sát để đảm bảo được sử dụng đúng mục đích. Việc quản lý rất quan
trọng bởi nếu nguồn vốn không được sử dụng đúng mục đích thì mục tiêu của
dự án sẽ khơng thể đạt được và ảnh hưởng đến việc đánh giá hiệu quả. Khi phát
hiện ra chất lượng khoản vay bị đe doạ cơ quan cho vay lại sẽ có các biện pháp
xử lý kịp thời. Cơ quan cho vay lại được quyền thu hồi nợ trước hạn hoặc
ngừng giải ngân nếu thấy người vay vi phạm những điều kiện đã ký kết hoặc
báo cáo Cơ quan ủy quyền để xem xét, có hướng xử lý để khơng làm ảnh
hưởng đến uy tín của Chính phủ đối với các nhà tài trợ quốc tế.
Bước thứ tư: Thu nợ vốn cho vay
Khi đến hạn trả nợ của dự án, cơ quan cho vay lại sẽ thu hồi từ nguời
vay lại số nợ đến hạn để hoàn trả Ngân sách Nhà nước hoặc nhà tài trợ phần

gốc, lãi, phí của nhà tài trợ và phí của cơ quan ủy quyền đồng thời cơ quan cho
vay lại cũng được hưởng phí dịch vụ cho vay lại hoặc chênh lệch lãi suất giữa
lãi suất thu từ Người vay lại và lãi suất trả cho nhà tài trợ và cơ quan ủy quyền.
Bước thứ năm: Kết thúc dự án


20

Khi dự án trả nợ đầy đủ gốc, lãi, các loại phí có liên quan hoặc được
Chính phủ xem xét xóa nợ thì dự án coi như đã kết thúc. Một nguồn vốn được
coi là kết thúc khi toàn bộ các dự án thuộc nguồn vốn đó kết thúc.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động ủy thác nguồn vốn
ODA tại Ngân hàng thương mại
Nhân tố khách quan
- Tình hình kinh tế xã hội: Bất kể một thành phần nào trong xã hội cũng
phải chịu ảnh hưởng từ sức mạnh chung của nền kinh tế. Một sự thay đổi của
nền kinh tế cũng sẽ tác động đến tình hình sản xuất kinh doanh của các cá
nhân, doanh nghiệp, tổ chức và đặc biệt là NHTM.
- Môi trường pháp lý: Đây là một trong những yếu tố quan trọng để
đánh giá sức mạnh của nền kinh tế. Một quốc gia có một hệ thống pháp luật
chặt chẽ, đồng bộ sẽ làm nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế nói
chung hay hoạt động ủy thác nói riêng.
- Thị trường: Bất kỳ đâu cũng vây, một hoạt động kinh doanh muốn
phát triển phải có một thị trường tiềm năng và rộng lớn. Chính vì thế, một
ngân hàng muốn phát triển thêm một nghiệp vụ nào đó ln phải có sự thăm
dò, nghiên cứu thị trường trước.
Nhân tố chủ quan
- Mục tiêu chiến lược phát triển của ngân hàng: Đây là một yếu tố tiên
quyết trong việc phát triển hoạt động ủy thác tại một ngân hàng.
- Cơ sở vật chất của ngân hàng: Yếu tố này tác động đến tất cả các dịch

vụ của ngân hàng chứ không riêng dịch vụ ủy thác. Một ngân hàng có hệ
thống mạng lưới chi nhánh rộng lớn, cơ sở hạ tầng khang trang, trang thiết bị
hiện đại là điều kiện cơ bản cho sự phát triển lớn mạnh của ngân hàng.
- Chất lượng nhân sự: Nếu cơ sở vật chất là cái vỏ bên ngồi thì đội ngũ
nhân viên chính là cái cốt lõi bên trong. Một đội ngũ nhân viên tận tình, có


21

trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, đồng thời lại có năng lực chuyên môn và
nhiều kinh nghiệm sẽ là yếu tố quan trọng nhất cho mỗi ngân hàng có thể phát
triển hoạt động ủy thác hay không.
Kết luận Chương 1
Đất nước ta đang ngày một hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, mục tiêu
phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
đã đi được một chặng đường khá dài. Nhìn lại chặng đường đã qua chúng ta
có thể thấy rằng chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào: tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt trên 7%, đời sống của nhân dân
ngày càng được nâng cao và không những đạt được những thành tựu về mặt
kinh tế mà các mặt của đời sống văn hoá - xã hội, giáo dục, y tế cũng được
nâng cao rõ rệt, tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng được giữ
vững, các mối quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng. Để đạt được
những thành cơng đó bên cạnh sự khai thác hiệu quả các nguồn lực trong
nước thì sự hỗ trợ từ bên ngồi cũng đóng một vai trị quan trọng và trong đó
viện trợ phát triển chính thức ODA của các quốc gia và tổ chức quốc tế giữ
vai trò chủ đạo. Thực tế tiếp nhận, sử dụng vốn và thực hiện các dự án ODA
thời gian qua cho thấy ODA thực sự là một nguồn vốn quan trọng đối với
phát triển đất nước, ODA đã giúp chúng ta tiếp cận, tiếp thu những thành tựu
khoa học công nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân nhân lực, điều chỉnh cơ
cấu kinh tế và tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội tươg đối hiện đại.

Tuy vậy, để, đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020
chúng ta cần phải huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực cho
phát triển, trong đó ODA có một vai trị quan trọng.
Chương I đã đưa ra những lý luận chung nhất về khái niệm, vai trò ủy
thác đầu tư và đặc trưng của vốn ODA cũng như hoạt động ủy thác nguồn
vốn ODA của ngân hàng thương mại, làm tiền đề cho việc nghiên cứu thực


22

trạng sử dụng nguồn vốn ủy thác ODA tại Sở Giao dịch III - BIDV tại
Chương II.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG UỶ THÁC ĐẦU TƯ
TẠI SỞ GIAO DỊCH III - NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Sở giao dịch III – Ngân
hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.1.1. Sơ lược về hệ thống Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư
và Phát triển Việt Nam
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) được thành
lập theo Quyết định 177/QĐ-TTg ngày 26/04/1957 của Thủ tướng Chính
phủ với tên gọi là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam.
Trong hơn 55 năm phát triển, chức năng và tên gọi của ngân hàng đã
thay đổi song song với sự phát triển của đất nước qua các thời kỳ khác
nhau:
- Ngày 24/06/1981 Chính phủ đã có Quyết định số 259/QĐCP
chuyển Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ Tài chính sang trực
thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư
và Xây dựng Việt Nam.

- Ngày 14/11/1990 theo Quyết định số 401-CT chuyển Ngân hàng Đầu
tư và Xây dựng Việt Nam thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Năm 1996, ngân hàng được tổ chức lại thành một ngân hàng
thương mại quốc doanh độc lập.
Hiện nay, BIDV là một trong bốn Ngân hàng thương mại nhà nước
lớn nhất, có một bề dày lịch sử và uy tín cao cả trong và ngồi nước, cũng


23

là ngân hàng thương mại đầu tiên tại Việt Nam nhận chứng chỉ ISO
9001:2000. Tính đến 31/12/2009, tổng tài sản của BIDV đạt 300.000 tỷ
đồng, dư nợ tín dụng 194.157 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 3.451 tỷ
đồng, các chỉ tiêu an toàn chất lượng đều đạt và vượt chuẩn quốc tế.
Ghi nhận những đóng góp của BIDV qua các thời kỳ, Đảng và Nhà
nước CHXHCN Việt Nam đã tặng BIDV nhiều danh hiệu và phần thưởng cao
qúy: Huân chương Độc lập hạng Nhất, hạng Ba; Huân chương Lao động hạng
Nhất, hạng Nhì, hạng Ba; Danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới;`
Huân chương Hồ Chí Minh,...
Qua 53 năm xây dựng và trưởng thành, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần đắc lực cùng
tồn ngành Ngân hàng thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và phát triển kinh
tế xã hội của đất nước. Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của công nghệ
và tri thức, với hành trang là bề dày truyền thống, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam tự tin hướng tới những mục tiêu và ước vọng to lớn, trở thành
một Tập đồn Tài chính Ngân hàng có uy tín trong nước, trong khu vực và
vươn ra thế giới.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Sở giao dịch III - Ngân
hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
BIDV đã được Chính phủ Việt Nam và Hiệp hội phát triển quốc tế IDA

thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới xem xét và chọn làm ngân hàng bán buôn để
quản lý và sử dụng Quỹ phát triển nơng thơn và tiếp nhận dự án Tài chính
nơng thơn (TCNT) từ Ngân hàng Nhà nước (theo Quyết định số 285/QĐ-TTg
ngày 18/04/2002 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 617/QĐ-NHNN
ngày 14/06/2002 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
Sau khi tiếp nhận quyết định trên, ngày 02/07/2002, Hội đồng quản trị
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã ra Quyết định số 39/QĐ-HĐQT


24

về việc thành lập Sở giao dịch III để thực hiện chức năng của một ngân hàng
bán buôn.
Ngày 15/07/2002, Sở giao dịch III (SGD3) chính thức được ra đời và
là một đại diện pháp nhân của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, có
tổ chức và hoạt động như một chi nhánh, hạch toán nội bộ trong hệ thống và
có con dấu riêng.
Là một trong các đơn vị thành viên lớn nhất của BIDV, SGD3 luôn
cung cấp tất cả các dịch vụ của ngân hàng đến mọi đối tượng khách hàng, là
đầu mối quản lý các nguồn vốn ưu đãi của các tổ chức tài chính quốc tế trong
hệ thống BIDV, được World Bank đánh giá là Ngân hàng chuyên nghiệp
hàng đầu tại Việt Nam trong việc giải ngân nguồn vốn dự án TCNT, hoạt
động ngân hàng dựa trên cơ sở nền tảng công nghệ hiện đại.
Hiện nay, SGD3 đã khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế
thị trường, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng
mạng lưới giao dịch, đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh tiền tệ. Mặt khác,
SGD3 còn thường xuyên tăng cường huy động vốn và sử dụng vốn, thay đổi
cơ cấu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng cơng nghiệp hố - hiện đại hố.
2.1.3. Hoạt động chủ yếu của Sở giao dịch III – Ngân hàng Thương

mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
- Trực tiếp làm chủ dự án (ngân hàng bán bn), quản lý và cho vay
tồn bộ số vốn vay từ các tổ chức quốc tế, các đối tác nước ngồi tới các định
chế tài chính (PFI), các tổ chức vi mô.
- Thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng theo Luật các tổ chức tín dụng và
điều lệ và quy định của BIDV.


25

- Thực hiện dịch vụ ngân hàng đại lý, quản lý vốn đầu tư cho các dự án
theo yêu cầu của khách hàng; dịch vụ thanh toán giữa các ngân hàng và các
nghiệp vụ khác được Tổng giám đốc BIDV giao.
- Thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng thương mại (bán lẻ) từ 10/2007.
2.1.4. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch III – Ngân hàng Thương mại
cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Do nhiệm vụ đặc thù nên cơ cấu tổ chức bộ máy của SGD III có những
đặc điểm riêng biệt. Tính đến 30/11/2013, mơ hình tổ chức của SGD III bao
gồm 178 cán bộ, công tác tại 21 phòng/ban và 1 tổ được chia thành 3 khối
cho 3 mảng hoạt động chính, như sau:
SỞ GIAO DỊCH III

Khối Quản lý

Khối Quan hệ

Khối Quản

Khối Tác


Khối Quản lý

Khối trực

Dự án

Khách hàng

lý Rủi ro

nghiệp

nội bộ

thuộc

P.Quản lý

P. Quan hệ

P. Quản lý

Dự án

KHDN

Rủi ro 1

P. Lựa


P. Quan hệ

P. Quản lý

chọn định
chế

KHCN

P. Thẩm

P. Ngân hàng
đại lý & ủy

Rủi ro 2

P. Quản trị

P.Kế hoạch

tín dụng

tổng hợp

P.Giao dịch
KHDN

P. Tổ chức

P.Giao dịch


P. Điện

hành chính

KHCN

tốn

trường

P.Thanh
tốn QT

P.Tài chính
Kế tốn

Tổ Đào tạo

P. QL &

định dự án

P. Mơi

và quản lý
tiểu cấu
phần cấp
phát


thác 1

dịch vụ
kho quỹ

P.Giao

dịch số 1


×