Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả lớp 4 tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.74 KB, 15 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của đất nước, sự phát triển về lĩnh vực giáo dục cần
phải được chú trọng và quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc đổi phương pháp dạy
học đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ thị cho Sở Giáo dục các tỉnh thực hiện.
Đối với việc dạy học phân môn Tập làm văn, nếu giáo viên thực hiện tốt các
phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh sẽ giúp các
em phát huy cao độ trí tuệ, cảm xúc, sự năng động, sáng tạo trong học tập và
giao tiếp. Trên thực tế, nhiều giáo viên ở nhiều nơi, do chưa vận dụng thành
cơng các phương pháp dạy học tích cực, học sinh còn bị đặt ở thế thụ động lĩnh
hội tri thức nên hiệu quả dạy học chưa khả quan. Cụ thể là, học sinh chưa nói,
viết theo cách cảm, cách nghĩ của văn chương.
Hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học là nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học. Đổi mới phương pháp dạy học là vừa kế thừa
và phát huy những mặt tích cực của những phương pháp dạy học quen thuộc,
vừa áp dụng hiệu quả những phương pháp dạy học mới. Việc lựa chọn phương
pháp dạy học phải căn cứ vào từng loại bài học, từng nội dung dạy học ở từng
lớp, phải căn cứ vào điều kiện, phương tiện dạy học ở từng vùng, từng trường.
Phân môn Tập làm văn là phân mơn địi hỏi học sinh phát huy cao độ trí tuệ và
cảm xúc để thực hiện các yêu cầu bài học. Vì vậy, việc rèn kĩ năng viết văn (đặc
biệt là văn miêu tả) cho học sinh là điều rất quan trọng và hết sức cần thiết. Vấn
đề đặt ra là rèn kĩ năng viết văn cho học sinh như thế nào cho hợp lí, hiệu quả,
1


đảm bảo khoa học ; phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, phát
huy cao độ trí tuệ và cảm xúc của các em để thực hiện tốt các yêu cầu của bài
học ? Để trả lời cho vấn đề này, tôi đã mạnh dạn đưa ra đề tài: “Một số biện
pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4B Trường TH Quảng Tiên”
với mong muốn góp phần nhỏ bé cơng sức của mình vào sự nghiệp đào tạo thế
hệ trẻ, góp phần cụ thể hoá định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở nhà


trường tiểu học. Đồng thời qua đó để đúc rút những kinh nghiệm thiết thực cho
bản thân trong công tác giảng dạy sau này.
II. Điểm mới và phạm vi ỏp dng ca ti:
- Đề tài này chỉ có thể áp dụng, vận dụng trong phạm vi ở tiÕt “Tập làm văn”
miêu tả cđa häc sinh líp 4 nhằm:
+ Đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4
+Bồi dưỡng cho học sinh năng lực cảm thụ văn học và rèn kĩ năng viết văn cho
học sinh thông qua thể loại văn miêu tả.

II. NỘI DUNG
2.1 Thực trạng tình hình dạy học viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
2.2.1. Tiến hành khảo sát - điều tra
Để tìm hiểu thực trạng dạy học rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp
4, tôi đã tiến hành khảo sát, điều tra trên cả hai đối tượng là giáo viên và học
sinh Trường Tiểu học Quảng Tiên.
A. Về phía học sinh

2


Năm học 2012 - 2013, tôi đã được Nhà trường và chuyên môn phân công chủ
nhiệm và giảng dạy lớp 4B. Ngay từ đầu năm, tôi đã tiến hành khảo sát chất
lượng phân môn Tập làm văn đối với 22 học sinh lớp 4B Trường TH Quảng
Tiên qua bài kiểm tra đầu năm và thu được một số kết quả như sau:
Bảng 1 : Thống kê điểm bài khảo sát đầu năm
Điểm

Tổng
1


Lớp
4B

0

2

3

1

2

4

5

3

6

5

7

6

2

8

2

9

10

1

0

số hs
22

* Điểm trung bình bài kiểm tra đầu năm: ĐTB = 5,5
Bảng 2 : Thống kê tỉ lệ phần trăm điểm bài khảo sát đầu năm
Xếp loại

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Ghi

(9, 10)
SL
%


(7, 8)
SL
%

(5, 6)
SL
%

(1, 2, 3, 4)
SL
%

chú

Lớp
4A

1

3,8

5

19,2

14

53,8


6

23,0

Nhận xét :
Nhìn vào bảng thống kê 1 cho thấy : Điểm của học sinh qua bài kiểm tra tương
đối thấp. Điểm trung bình là 5,5. Điều này cho thấy chất lượng dạy học phân
môn Tập làm văn còn thấp, đặc biệt là chất lượng văn viết của học sinh.
Từ bảng thống kê 2 chúng tôi nhận thấy : Số học sinh yếu kém chiếm một tỉ lệ
tương đối cao: 23,0%. Ngược lại tỉ lệ học sinh khá giỏi rất hạn chế: 23,0%. Kết
quả này phần nào phản ánh hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn cho học
sinh chưa cao.

3


Bảng 3 : Thống kê các loại lỗi văn viết của HS lớp 4A
Lỗi
Lỗi chính tả

Lớp
4A

13

Lỗi viết

Tổng số học

câu

14

sinh
22

Lỗi dùng từ
11

Bảng 4 : Thống kê tỉ lệ phần trăm mắc lỗi của HS lớp 4A
Lỗi

Lỗi viết
Lỗi chính tả

Lớp
4A

50,0

Lỗi dùng từ
42,3

Tỉ lệ (%)
câu
53,8

100

Nhận xét:
Bảng thống kê cho thấy : Nhiều học sinh đều mắc các loại lỗi văn viết nêu

trên, đặc biệt là lỗi viết sai các dấu thanh ; dùng từ khơng chính xác ; viết câu
q, câu cụt, có nhiều từ ngữ thừa, rườm rà, lủng củng.
B. Về phía giáo viên:
Hầu hết Gv đều quan tâm đến việc rèn kĩ năng viết văn cho HS. Mức độ quan
tâm của GV sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học
nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn.
2.2 Các giải pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Từ thực trạng nêu trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm rèn kĩ
năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4B dưới đây:

1. Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập (rèn kĩ
năng nhận diện đặc điểm thể văn và phân tích đề bài)

4


Bất kì một đề bài Tập làm văn nào, việc giúp học sinh nắm vững yêu cầu của
đề bài là rất quan trọng. Đây là định hướng đầu tiên để học sinh hệ thống lại
trong trí nhớ của mình thể loại văn cần tả. Từ đó, xác định bố cục bài văn và dàn
ý của thể loại văn cần tả. Tức rèn cho các em có thói quen và kĩ năng nhận diện
thể văn cũng như kĩ năng phân tích đề bài.
Ví dụ : Đề bài “Tả cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em” (SGK TV4, T2, trang
18)
- Giáo viên cần giúp học sinh xác định đúng thể loại văn bằng cách đưa ra các
gợi ý để học sinh lựa chọn (văn kể chuyện, văn miêu tả hay văn nhật dụng, viết
thư, ...).
- Sau khi học sinh xác định được thể loại văn (tả đồ vật), giáo viên giúp học sinh
xác định yêu cầu của đề bài: Tả cái gì ? (Tả cái bà n học ở lớp hay ở nhà của
em).
Việc làm này giúp học sinh nhận ra rằng: đồ vật các em cần tả là một cái bàn

học ở lớp hay ở nhà của em chứ không phải là tả những cái bàn học khác. Đây là
bước rèn cho học sinh kĩ năng phân tích đề bài.
- Bước tiếp, giáo viên có thể đưa ra một số đề bài tương tự yêu cầu học sinh
nhận diện thể văn và phân tích đề bài để xác định u cầu: Tả cái gì ?
Ví dụ: Đề bài Tả chiếc cặp sách của em hay Đề bài Tả chiếc áo em mặc đến
lớp hôm nay, ...)

5


Với các đề bài này, học sinh phải xác định được: thể văn là văn miêu tả (tả đồ
vật) và các em tả chiếc cặp của mình chứ khơng phải tả chiếc cặp của bạn; tả
chiếc áo mà các em mặc đến lớp hôm nay chứ không phải chiếc áo nào khác.
Ví dụ: Đề bài Tả một cây có bóng mát (SGK TV4 T2, trang 92)
Học sinh phải xác định được những cây nào là cây có bóng mát (cây có tán xịe
rộng, lá dày có thể che bóng mát như cây bàng, cây cổ thụ, cây đa, ...)
Học sinh xác định được đối tượng miêu tả tức là đã có kĩ năng phân tích đề
bài.
2. Biện pháp 2 : Đưa ra các gợi ý dưới dạng mở nhằm cung cấp cho học
sinh một số đặc điểm, cơng dụng, tính cách ... liên quan đến đối tượng cần
tả ; chú ý những nét riêng, đặc sắc của đối tượng được tả nhằm rèn kĩ năng
tìm ý.
Với đề bài Tả một cây có bóng mát (SGK TV4 T2, trang 92), GV có thể đưa
ra các gợi ý: Về hình dáng của cây (to lớn, cành lá xum xuê; cây như một chiếc
ô xanh hay ngọn tháp xanh khổng lồ, ...). Về màu sắc của lá (xanh đậm, xanh
nhạt, xanh non tơ, ...); kích thước, hình dáng của chiếc lá (lá hình bầu dục, hình
chiếc quạt; tán lá xịe rộng, lá dày đan xen nhau kín khít, mỗi chiếc lá như một
chiếc quạt xanh, ...). Về cơng dụng (che bóng mát, tạo cảnh quan cho trường, ..);
cây có bóng mát các em tả có điều gì đặc biệt so với những cây có bóng mát hay
những loại cây khác: cây đã được trồng lâu năm, cành lá xum xuê, gốc cây to, ...

Ví dụ với đề bài Tả cái đồng hồ báo thức, GV có thể sử dụng phương pháp
đàm thoại hoặc phương pháp trực quan (tranh ảnh, băng hình) để cung cấp hình

6


ảnh về đối tượng miêu tả. Sau đó, giáo viên gợi ý đưa ra một số từ ngữ miêu tả
dưới dạng mở để học sinh lựa chọn phù hợp với đối tượng miêu tả.
Ví dụ: Về hình dáng đồng hồ (trịn, vng, hình chữ nhật, hình chú mèo, hình
chú gà, ...). Về màu sắc (xanh lá cây, xanh da trời, xanh dương, vàng nhạt, vàng
tươi, đỏ thẫm, đỏ chon chót, ...). Về các bộ phận và đặc điểm của các bộ phận
(các con số màu gì? (màu đen hoặc xanh, đỏ, ..); được sắp xếp như thế nào? (sắp
xếp trên một đường trịn, sắp xếp thành hình vng hay hình chữ nhật, ...); có
mấy kim? (3 kim) đó là những kim nào? (kim giờ, kim phút, kim giây); mỗi kim
có đặc điểm gì? (kim giờ to chạy chậm, kim phút mảnh hơn chạy nhanh hơn,
kim giây mảnh chạy như có ai đuổi, ...). Về công dụng của đồng hồ (đồng hồ
giúp em xem giờ, báo thức, ..). Chiếc đồng hồ báo thức của em có đặc điểm gì
đặc biệt so với những chiếc đồng hồ khác (ví dụ đặc biệt về hình dáng, về tiếng
chng báo thức hay về màu sắc, ...)...
Để biện pháp trên có hiệu quả cao, giáo viên cần phải huy động tính tích cực,
chủ động của nhiều học sinh trong lớp, đặc biệt là những học sinh mà vốn từ TV
còn hạn chế nhằm giúp các em có được vốn từ cần thiết phục vụ cho việc làm
bài tập
3. Biện pháp 3 : Hướng dẫn học sinh dùng từ để đặt câu miêu tả (miệng) và
sửa lỗi (nếu có) nhằm rèn kĩ năng chọn từ, tạo câu, kĩ năng diễn đạt.
Sau khi học sinh đã có một vốn từ TV nhất định liên quan đến đề bài, giáo
viên cần hướng dẫn học sinh tập đặt câu miêu tả; đồng thời kết hợp sử dụng các
hình ảnh so sánh, nhân hoá để làm nổi bật sự vật: ngoại hình hay hoạt động được

7



miêu tả. Để làm được điều này, giáo viên cần phải chuẩn bị một hệ thống câu
hỏi để dẫn dắt học sinh tự mình tìm ra kiến thức.
- Trở lại với Đề bài “Tả cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em” (SGK TV4, T2,
trang 18), GV cần giúp học sinh biết sử dụng đúng từ ngữ để đặt câu trong
những tình huống cụ thể. Ví dụ, học sinh khơng thể miêu tả mặt bàn hình vng
(vì bàn học sinh) hay bàn được làm bằng sợi ni lông tổng hợp.
- Tuỳ từng ngữ cảnh cụ thể mà GV hướng dẫn học sinh dùng nghĩa đen hay
nghĩa bóng của từ, có sự lựa chọn từ trong cùng trường nghĩa (những từ có
nghĩa gần nhau). Trong q trình hướng dẫn học sinh đặt câu (miệng), giáo viên
cần phân tích các từ dùng sai trong ngữ cảnh câu văn để học sinh nhận biết.
Phân tích cấu trúc câu sai ngữ pháp (nếu có): Chỉ ra các thành phần câu, trật tự
của các thành phần câu, trật tự từ trong câu, cách sử dụng dấu câu, ... để học sinh
nhận biết lỗi sai trong câu và tự sửa lỗi.
Ví dụ: Trong bài viết Tả chiếc bàn học ở lớp hay ở nhà của em, em Phạm
Đoàn Minh Ngọc lớp 4B viết như sau: Bố mẹ bảo em phải dữ gìn cẩn thận và
em sẽ luôn giữ mãi đến năm lớp sáu mà em luôn giữ mãi đến khi chiếc bàn
hư.
Hay trong bài văn tả chiếc cặp, em Lê Thị Bích Hồng lớp 4B tả như sau:
Chiếc cặp em đeo trên mình một màu hồng xinh xinh.
Do các em chưa hiểu nghĩa của từ và cách dùng từ đặt câu để tạo nên một ý
nghĩa trọn vẹn nên sa vào lủng củng, rườm rà; diễn đạt sai ý.

8


- Bên cạnh đó, khi hướng dẫn học sinh đặt câu miêu tả, giáo viên cần gợi ý cho
học sinh dùng các hình ảnh so sánh, hình ảnh nhân hố để làm nổi bật ngoại
hình hay hoạt động được miêu tả. Ví dụ: Miêu tả cây bàng: “Cây bàng như một

chiếc ô xanh khổng lồ; mỗi chiếc lá bàng như một chiếc quạt xanh quạt vào
khơng gian” (Trích trong bài văn Tả một cây có bóng mát của em Đồn Diệu
Huyền) hay nhân hóa chiếc bàn học mang tính cách của con người: “Đến giờ
rồi, vào học thơi. Đó là tiếng gọi thân thuộc của chiếc bàn học của em đấy”
(Trong bài văn Tả chiếc bàn học ở lớp hay ở nhà của em của em Nguyễn
Thanh Hải lớp 4B)
4. Biện pháp 4 : Cho học sinh tự lập dàn ý chi tiết và trình bày miệng dàn ý
trước khi viết văn nhằm rèn kĩ năng tạo lập văn bản (liên kết câu tạo thành
đoạn, bài)
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh trình bày bố cục của văn bản (tức là sự xếp
đặt, trình bày các phần để tạo nên một nội dung hoàn chỉnh : miêu tả theo trình
tự thời gian hay khơng gian) bằng câu hỏi dẫn dắt : Em cần trình bày bài viết
của mình như thế nào ? (Trình bày theo mấy phần? Đó là những phần nào ?)
- Hướng dẫn học sinh xác định đúng nội dung của từng phần (mở bài, thân bài
và kết bài)
Biện pháp này là bước cơ bản giúp học sinh viết được một bài văn miêu tả có
chất lượng. Sau khi học sinh đã có một vốn từ TV nhất định liên quan đến yêu
cầu của bài tập, GV cho học sinh lập dàn ý chi tiết và trình bày miệng dàn ý vừa

9


lập. GV giúp học sinh sửa lỗi dùng từ, đặt câu, diễn đạt,... để hoàn thiện những ý
cơ bản nhất theo yêu cầu của đề bài.
Ví dụ với đề bài “Tả chiếc cặp sách của em” (SGK TV4, T2, trang 18) , GV
cần hướng dẫn hs lập được một dàn ý chi tiết như sau (minh họa):
* Mở bài (trực tiếp hay gián tiếp)
- Mở bài trực tiếp: Vào đầu năm học mới, mẹ mua cho em một chiếc cặp xinh
xắn.
- Mở bài gián tiếp: Cũng như bao đứa bạn cùng lớp, ngày khai trường là ngày

mà em mong chờ nhất. Trước ngày khai trường, mẹ đã mua cho em đủ sách vở
và đồ dùng học tập. Trong số đó, ấn tượng nhất là chiếc cặp sách mà mua về từ
Thủ đơ Hà Nội....
* Thân bài :
- Hình dáng, kích thước: chiếc cặp hình chữ nhật, dài khoảng hai gang tay, rộng
một gang tay, ...
- Cặp vừa có quai đeo, vừa có quai xách nên rất tiện
- Màu sắc: Bao trùm chiếc cặp là một màu xanh lơ (xanh nhạt, xanh đậm, ..) với
đường viền màu đỏ (màu đỏ viền đen, ...)
- Chất liệu: Cặp được làm bằng sợi ni lông tổng hợp nên không thấm nước, bền
và đẹp
- Đường khâu đều đặn bằng chỉ dù đen (đỏ, xanh, ...) chạy vịng quanh chiếc cặp
- Cấu tạo: Cặp gồm có hai, ba, ... ngăn được ngăn cách bởi các lớp vải mềm.
Mỗi ngăn có một cơng dụng riêng của nó...

10


- Nắp cặp có khóa cặp bằng nhựa (sắt mạ kền, mạ vàng, ..) màu đen để chống
trộm
- Một số đặc điểm nổi bật trên chiếc cặp: mặt cặp được trang trí thêm hình chú
thỏ, tranh phong cảnh, đồng lúa vàng, ... làm tăng thêm vẻ đẹp cho chiếc cặp...
* Kết bài (mở rộng hay không mở rộng)
- Kết bài không mở rộng: Em rất vui và tự hào khi có được chiếc cặp xinh xắn
này.
- Kết bài mở rộng: Chiếc cặp là người bạn đồng hành thân thiết của em mỗi khi
đến trường. Ngày ngày, em không quên dùng một chiếc giẻ mềm lau chùi cho
chiếc cặp luôn sạch sẽ. Đối với em, chiếc cặp này thật quý biết bao!
Sau khi lập được dàn ý dưới sự hướng dẫn của GV, Gv cho hs trình bày miệng
dàn ý vừa viết nhằm rèn kĩ năng diễn đạt, liên kết câu tạo thành đoạn, bài tránh

rơi vào lủng củng, câu què, câu cụt, dùng từ thiếu chính xác.
5. Biện pháp 5 : Thường xuyên tổ chức kiểm tra, đánh giá kĩ năng viết văn
của từng học sinh (qua việc thực hành - luyện tập ở lớp cũng như ở nhà), từ
đó phân loại đối tượng học sinh và lập kế hoạch phụ đạo trong thời gian
tiếp theo
Việc nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh là rất cần thiết đối với mỗi giáo
viên. Trên cơ sở đó, giáo viên biết mình cần quan tâm đến học sinh nào ? Học
sinh này yếu những kĩ năng gì ? Học sinh kia yếu những kĩ năng gì ? để có biện
pháp rèn luyện thích hợp.

11


Trên thực tế, các biện pháp nêu trên cần được tiến hành một cách đồng thời và
liên tục trong mỗi tiết dạy. Mặt khác, giao bài tập về nhà và kiểm tra việc học ở
nhà là một việc làm không thể thiếu, làm cơ sở cho việc tiếp thu kiến thức của
các em ở lớp được thuận tiện hơn. Tuy nhiên, khơng thể ngày một ngày hai mà
học sinh hình thành được kĩ năng mà cần phải có một quá trình lâu dài và kiên
trì. Cũng khơng thể rèn kĩ năng cho tất cả các học học sinh trong cùng một lúc
mà phải biết nên tập trung rèn kĩ năng cho học sinh nào trước, học sinh nào sau.

III. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Các biện pháp nêu trên tôi đã áp dụng để rèn kĩ năng viết văn cho học sinh lớp
4B Trường TH Quảng Tiên và đã thu được một số kết quả như sau (theo kết quả
khảo sát chất lượng đợt 3 năm học 2012 - 2013)
Bảng 7: Thống kê điểm bài khảo sát đợt 4 (Phân mơn TLV)

Điểm

Tổng

1

Lớp
4B

2

0

3

0

0

4

5

0

3

6

7

2

8


11

9

5

1

10
0

số hs
22

* Điểm trung bình là : 7,0
Bảng 8: Thống kê tỉ lệ phần trăm

Xếp loại

Lớp
4B
12

Yếu kém

Trung bình

Khá


Giỏi

Ghi

(1, 2, 3, 4)
SL
%

(5, 6)

(7, 8)
SL
%

(9, 10)
SL
%

chú

0

0

SL

%

6


23,0

19

73,1

1

3,8


Bảng 9 : Thống kê các loại lỗi văn viết của HS lớp 4A

Lỗi
Lỗi chính tả

Lớp
4B

5

Lỗi viết

Tổng số học

câu
3

sinh
22


Lỗi dùng từ
4

Bảng 10 : Thống kê tỉ lệ phần trăm mắc lỗi của HS lớp 4A

Lỗi

Lỗi viết
Lỗi chính tả

Lớp
4B

19,2

Lỗi dùng từ
15,4

Tỉ lệ (%)
câu
11,5

100

* Đánh giá kết quả đạt được:
Từ các bảng thống kê cho thấy: Điểm trung bình đợt 3 (7,0) tăng so với đầu
năm (5,5). Số học sinh yếu kém (điểm từ 1 đến 4) khơng có em nào, chiếm tỉ lệ
0% (so với đầu năm là 23,0%). Số học trung bình (điểm từ 5 đến 6) là 6 em,
chiếm tỉ lệ 23,0% (so với dầu năm là 53,8%). Số học sinh khá giỏi (điểm từ 7

đến 10) là 20 em, chiếm tỉ lệ 76,9% (so với đầu năm là 23,0%). Kết quả trên cho
thấy số học sinh yếu kém đã khơng cịn, tỉ lệ học sinh trung bình được giảm
xuống và tỉ lệ học sinh khá giỏi đã được nâng lên đáng kể.
Mặt khác, các loại lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi viết câu tuy vẫn còn nhưng
cũng đã giảm so với đầu năm.

13


Những kết quả đạt được cho thấy các biện pháp nêu trên bước đầu đem lại
hiệu quả.

3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1 Ý nghĩa của đề tài
Với sự phát triển nhanh của đất nước địi hỏi q trình giáo dục phải đào tạo
được những con người đáp ứng với thời cuộc. Đặc biệt là phải đào tạo ngay từ
Tiểu học. Trình độ phát triển tư duy của học sinh tiểu học một phần phụ thuộc
vào nội dung và phương pháp giảng dạy ở nhà trường phổ thông. Trong dạy học
các môn học nói chung và dạy học phân mơn Tập làm văn nói riêng, ngồi việc
cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, giáo viên cần quan tâm rèn luyện
kĩ năng cho học sinh. Đề tài này nhằm mục đích nói trên.
Những kết quả đạt được của đề tài mới chỉ là bước đầu. Tác giả đề tài hi
vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu để khắc phục những hạn chế và mở rộng phạm vi
ứng dụng của đề tài. Rất mong được sự trao đổi, góp ý của chun mơn, đồng
nghiệp và bạn bè để giúp tơi hồn thiện sáng kiến này.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Quảng Tiên, ngày 30 tháng 3 năm
2013
Người viết


14


Nguyễn Thị Kim Tiến

15



×