Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.77 KB, 34 trang )

MC LC
Contents
Contents.......................................................................................................................................1
A/ PHN M U:....................................................................................................................1
I. Lý do chọn đề tài: ...............................................................................................................1
1- Lý do khỏch quan : ........................................................................................................1
2. Lý do ch quan: .............................................................................................................3
II/ Mục đích nghiên cứu:.........................................................................................................3
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:.......................................................................................................3
IV. Đối tợng nghiên cứu:.........................................................................................................4
V. Phơng pháp nghiên cứu:.....................................................................................................4
I. nội dung chơng trình:...............................................................................................................5
II. Quy Trình dạy tiết tập đọc :....................................................................................................5
III. Điều tra thực trạng:...............................................................................................................7
1. V phớa giỏo viờn:.............................................................................................................7
2. V phớa hc sinh: ..............................................................................................................8
IV. NHững biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh:...................................................9
1. Trong gi tp c:.............................................................................................................9
2. Ngoi gi tp c:..........................................................................................................27
3. Giỏo ỏn minh ho:............................................................................................................27
I. Kiểm tra bài cũ: .................................................................................................................28
I. KT QU:.............................................................................................................................32
II, Một số kiến nghị.................................................................................................................32

A/ PHN M U:
I.

Lý do chọn đề tài:

1- Lý do khỏch quan :
Mụn Ting Vit gi mt vai trũ quan trng trong chng trỡnh tiu


hc. Hc tt mụn Ting Vit l tin hc tt nhng mụn hc khỏc.
Núi v mc tiờu ca mụn Ting Vit bc tiu hc, vn bn d tho
Chng trỡnh mụn Ting vit bc tiu hc do tiu ban Ting Vit (B

-1-


giáo dục - Đào tạo) tổ chức soạn thảo năm 1996 (cho giai đoạn sau năm
2000) ghi rõ :
Mục tiêu của môn Tiếng việt bậc tiểu học là:
- Hình thành và phát triển kỹ năng đọc, viết, nghe, nói cho học sinh nhằm
giúp các em sử dụng Tiếng việt có hiệu quả trong việc học tập và giao tiếp
ở gia đình trường học và xã hội.
- Góp phần cùng môn học khác phát triển năng lực tư duy cho học sinh.
- Trang bị cho học sinh những hiểu biết ban đầu về văn học, văn hoá và
ngôn ngữ, văn hoá thông qua một số sáng tác văn học và một số loại văn
bản khác của Việt Nam và thế giới nhằm hình thành ở các em nhu cầu
thưởng thức cái đẹp, khả năng rung cảm trước cái đẹp trước những buồn
vui yêu ghét của con người.
- Góp phần hình thành nhận thức tình cảm, thái độ hành vi đúng đắn của
con người Việt Nam hiện đại trong quan hệ gia đình và xã hội.
Để đạt được mục tiêu trên giáo viên chỉ dạy đủ nội dung cho từng phân
môn thôi chưa đủ mà còn phải làm thế nào để dạy tốt dạy hay, phải đổi
mới phương pháp giảng dạy để cho mỗi giờ học thực sự “ Nhẹ nhàng hơn,
tự

nhiên

hơn




hiệu

quả

hơn”.

Môn Tiếng việt được chia làm nhiều phân môn nhỏ : Tập đọc, Chính tả,
Luyện từ và câu, Tập làm văn... Riêng với phân môn Tập đọc việc luyện
đọc nói chung và phương pháp luyện đọc diễn cảm nói riêng có một vai
trò

rất

lớn

đối

với

học

sinh

khi

luyện

đọc.


Đọc diễn cảm được thực hiện trong mọi giờ học của bậc tiểu học
nhưng đặc biệt nhất là ( lớp 4 + 5 ). Các em đã đọc thông viết thạo rồi
nhưng chưa đọc diễn cảm được. Chính vì vậy nên các em không cảm thụ
và tiếp xúc được với ngôn ngữ nghệ thuật, cảm thụ hết cái hay, cái đẹp
của văn chương. Do vậy các em cần sự giúp đỡ của người thầy, người cô
để giúp các em có kỹ năng đọc tốt, tạo điều kiện cho các em đọc để cảm
nhận được tốt môn Tiếng Việt cũng như những môn khác.

-2-


2. Lý do chủ quan:
- Nhiều người cho rằng học sinh tiểu học chỉ cần đọc thông viết thạo.
Chính vì lẽ đó hoạt động của các em chưa được coi trọng đúng mức
- Một số em còn mải chơi, chưa chăm chỉ học tập. Phần đa gia đình còn
khó khăn chưa có đủ đồ dùng sách vở khi đến lớp.
- Mặt khác do từ ở lớp 1 - 2 - 3 các em mới chỉ đọc thông viết thạo. Lên
lớp 4 các em còn nhiều bỡ ngỡ khi thể hiện giọng đọc của mình để người
nghe cảm nhận được ngay. Các em có đọc diễn cảm hay 1 đoạn thơ, 1
đoạn văn các em mới cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài thơ, bài văn
đó và qua đó các em mới áp dụng vốn kiến thức của mình để viết văn hay.
Làm bài tập luyện từ và câu tốt, học tốt các phân môn Tập đọc Luyện từ
và câu, Tập làm văn... chính là góp phần nâng cao chất lượng của bộ môn
Tiếng Việt.
Xuất phát từ mục tiêu trên tôi thấy thật cần thiết phải giúp các em
cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương góp phần nâng cao chất
lượng môn Tiếng Việt cho nên tôi đã tiến hành nghiên cứu: “ Một số biện
pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4”.
II/ Môc ®Ých nghiªn cøu:

- Rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh
- Giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm không chỉ trong phạm vi một văn
bản của tiết tập đọc mà biết đọc diễn cảm bất kì một bài văn nào.
- Biết vận dụng kiến thức, hiểu biết của mình trong giao tiếp hàng ngày để
nói hay, nói đúng, mạnh dạn, tự tin, bình tĩnh trước tập thể.
- Thông qua việc rèn luyện đọc diễn cảm, giáo viên còn bồi dưỡng thêm
năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.

III. NhiÖm vô nghiªn cøu:
Phân loại các dạng bài tập đọc trong sách giáo khoa tiếng việt 4 từ
đó đề ra những biện pháp để giúp học sinh đọc tốt hơn, diễn cảm hơn các
dạng bài trong sách giáo khoa.
-3-


IV. §èi tîng nghiªn cøu:
Học sinh lớp 4D trường Tiểu học Quảng An – Tây Hồ - Hà Nội
V. Ph¬ng ph¸p nghiªn cøu:
1.
Phương pháp nghiên cứu lý luận
2.

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

3.

Phương pháp thực nghiệm

4.


Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

-4-


B/ NỘI DUNG
I. néi dung ch¬ng tr×nh:
SGK Tiếng Việt 4 gồm 10 đơn vị học, mỗi đơn vị ứng với một chủ
điểm, học trong 3 tuần ( riêng chủ điểm Tiếng sáo diều học trong 4 tuần).
Nếu như ở các lớp dưới, chủ điểm học tập xoay quanh những lĩnh
vực rất gần gũi với học sinh thì ở lớp 4 chủ điểm là những vấn đề đời
sống tinh thần của con người như tính cách, đạo đức, năng lực, sở thích,..
cụ thể:
Tập I gồm 5 chủ điểm, học trong 18 tuần:
- Thương người như thể thương thân (tuần 1, 2, 3)
- Măng mọc thẳng (tuần 4, 5, 6)
- Trên đôi cánh ước mơ ( tuần 7, 8, 9)
- Có chí thì nên (tuần 11, 12, 13)
- Tiếng sáo diều ( tuần 14, 15, 16, 17)
Tuần 10 dùng để ôn tập giữa học kì I, tuần 18 ôn tập cuối học k ì I
Tập II gồm 5 chủ điểm, học trong 17 tuần
- Người ta là hoa đất ( tuần 19, 20, 21)
- Vẻ đẹp muôn màu ( tuần 22, 23, 24)
- Những người quả cảm (tuần 25, 26, 27)
- Khám phá thế giới ( tuần 29, 30, 31)
- Tình yêu cuộc sống ( tuần 32, 33, 34)
Tuần 28 dùng để ôn tập giữa học kì II, tuần 35 ôn tập cuối học kì II
Phân môn Tập đọc được dạy 2 tiết/ tuần.
II. Quy Tr×nh d¹y tiÕt tËp ®äc :
1. Kiểm tra bài cũ:

- GV cho 2 – 3 HS đọc thành tiếng hoặc đọc thuộc lòng bài tập đọc hoặc
bài học thuộc lòng trước đó, sau đó đặt một số câu hỏi về nội dung bài để
kiểm tra kĩ năng đọc - hiểu.
2. Dạy bài mới:
-5-


a, Giới thiệu bài:
- Nêu nhiệm vụ cần thực hiện trong tiết học. Đối với bài Tập đọc thuộc
chủ điểm mới, trước hết GV cần giới thiệu vài nét chính về chủ điểm.
b, Hướng dẫn luyện đọc và tìm hiểu bài:
- Luyện đọc:
+ HS đọc thành tiếng từng đoạn văn (khổ thơ)
Ě Đọc nối tiếp nhau trước lớp: mỗi HS đọc 1 đoạn theo trình tự các
đoạn trong bài

(lặp lại nhiều vòng sao cho mỗi HS trong lớp đều được

đọc ít nhất 1 đoạn)
Ě Đọc theo cặp hoặc đọc trong nhóm: mỗi HS đọc một đoạn theo trình tự
các đoạn trong bài (lặp lại nhiều vòng sao cho mỗi HS đều được đọc tất cả
các đoạn trong bài)
Ě 1 – 2 HS đọc lại toàn bài
+ GV đọc mẫu toàn bài
- Tìm hiểu bài:
GV hướng dẫn HS đọc và trả lời từng câu hỏi trong SGK theo các hình
thức dạy học thích hợp
- Đọc diễn cảm (với văn bản nghệ thuật) hoặc luyện đọc lại (với các văn
bản phi nghệ thuật)
+ Hướng dẫn HS đọc từng đoạn văn (khổ thơ):

Ě Một số HS đọc: mỗi em đọc 1 đoạn theo trình tự các đoạn trong bài
Ě GV hướng dẫn, điều chỉnh cách đọc cho các em sau mỗi đoạn
+ Hướng dẫn kĩ cách đọc 1 đoạn văn (khổ thơ)
Ě GV dùng lời nói hoặc lời nói kết hợp ghi bảng, sử dụng đồ dùng dạy
học để hướng dẫn HS cách đọc
Ě HS đọc đoạn văn (thơ) đã được GV hướng dẫn cách đọc
Ě GV sửa lỗi cho các em
+ HS thi đọc diễn cảm trước lớp
- Học thuộc lòng với những bài có yêu cầu thuộc lòng

-6-


+ HS tự nhẩm HTL các khổ thơ, bài thơ hay đoạn văn theo chỉ định trong
SGK.
+ GV tổ chức thi đọc thuộc lòng các khổ thơ, bài thơ hay đoạn văn vừa
học thuộc
c, Củng cố, dặn dò:
- Hướng dẫn HS chốt lại nội dung chính hoặc ý nghĩa của bài tập đọc
- Nêu nhận xét tiết học
- Nêu yêu cầu tiếp tục luyện tập và chuẩn bị bài sau
III. §iÒu tra thùc tr¹ng:
1. Về phía giáo viên:
Trước đây, phân môn Tập đọc của môn Tiếng Việt ở chương trình
cũ vẫn còn đề cao quá mức về cảm thụ văn học nên một số giáo viên đã
biến tiết Tập đọc thành giờ giảng văn. Trong tiết học, giáo viên quá lạm
dụng phần tìm hiểu bài, giảng giải là chính còn học sinh chỉ nghe, ít có
thời gian để luyện đọc; hậu quả là có một số em học hết chương trình Tiểu
học mà vẫn chưa đọc thông thạo. Song ở chương trình tiếng Việt Tiểu học
mới hiện nay, nội dung các bài đọc trong sách giáo khoa tương đối phù

hợp với nhận thức của học sinh, các bài đọc được sắp xếp khá lôgic, chặt
chẽ theo từng chủ điểm, đa dạng các thể loại và nội dung phong phú ; hơn
nữa giáo viên đã nắm được Chuẩn cần đạt về kĩ năng đọc và hiểu của học
sinh. Vì thế, trong quá trình dạy phân môn Tập đọc thì người giáo viên đã
hướng dẫn các em thực hiện khá nhịp nhàng giữa các hoạt động.
Mặt khác giáo viên còn chưa hiểu rõ được vai trò của đọc diễn cảm
trong phân môn tập đọc lớp 4. Chưa đổi mới phương pháp trong giảng
dạy còn quá lệ thuộc vào sách vở, giảng dạy dập khuôn máy móc không
có sự linh hoạt sáng tạo trong giảng dạy. Chưa biết phát huy tính tích cực
của học sinh trong giờ học từ đó hạn chế hiệu quả giảng dạy. Đa số các
bài đọc lớp 4 ; 5 tương đối dài mà thời gian một tiết học quá ít nên hầu
như giáo viên chỉ mới dừng lại ở luyện đọc đúng cho các em, bước hướng
-7-


dẫn các em đọc diễn cảm còn ít. Chính vì thế, việc yêu cầu các em tham
gia thể hiện đọc diễn cảm trước lớp chỉ thực hiện được ở một số học sinh
khá, giỏi.
2. Về phía học sinh:
- Thực tế, trong nhiều năm giảng dạy khối 4 tôi thấy kĩ năng đọc của học
sinh giữa các lớp chưa đồng đều. Đa số các em chỉ mới đọc đúng, số học
sinh biết đọc diễn cảm còn rất ít (thậm chí nhiều em chưa biết cách đọc
diễn cảm hoặc còn xem nhẹ hoạt động này); số học sinh đọc chưa lưu loát
và sai lỗi vẫn còn.
- Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của môn học chưa đúng, các
em thích học môn Toán hơn môn Tiếng Việt nên nhiều em còn ngại đọc
bài và chưa có ý thức tự rèn đọc diễn cảm mà chỉ mới mang tính chất
chiếu lệ, đối phó.
- Do vốn từ ngữ của các em còn quá ít ỏi, chưa hiểu hết nghĩa các từ, cụm
từ trong bài đọc nên dẫn đến khi đọc bài, các em ngắt nghỉ không đúng

chỗ, nhiều lúc gây hiểu sai ý nghĩa của câu văn hay bài thơ.
- Giọng đọc của học sinh còn nhỏ ; nhiều em chưa nắm được nội dung của
bài đọc nên khi đọc, tôi thấy các em chưa bộc lộ được cảm xúc của bài
đọc qua giọng đọc hoặc nếu có thì chỉ mang tính chất bắt chước giáo viên
hoặc bạn bè.
- Do ảnh hưởng của tiếng địa phương và cách phát âm của mỗi em khác
nhau nên các em đọc còn sai các từ ngữ, sai nội dung ý nghĩa của văn bản.
- Đối với học sinh khi luyện đọc diễn cảm đa số các em còn rất lúng túng
vì đây là hoạt động trí tuệ phức tạp các em rất lười đọc kỹ văn bản do đó
khi tìm và tự rút ra giọng đọc cho phù hợp với từng kiểu bài, từng nhân
vật (trong các bài có đối thoại) còn chậm, nhiều em còn ỷ lại không tự tìm
ra được cái hay, cần nhấn giọng để từ đó tìm rõ sắc thái biểu cảm của bài
mà chủ yếu chỉ dựa vào giáo viên và một số học sinh khá giỏi của lớp.
- Một điều đáng nói là phần lớn học sinh khi đọc một tác phẩm còn đọc
tuỳ tiện theo chủ quan không có thói quen ngắt giọng đúng chỗ, lựa chọn
-8-


ng iu c phự hp t ú bit cỏch phi hp t th, nột mt , c ch,
iu b trong khi c.
- Qua thc t ging dy nhng nm hc trc tụi nhn thy khi dy hc
sinh c din cm giỏo viờn v hc sinh gp rt nhiu khú khn.
IV. NHững biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh:
Xut phỏt t cỏc nguyờn nhõn trờn, hng nm trong quỏ trỡnh ging
dy, bn thõn tụi ó thc hin mt s gii phỏp nhm rốn k nng c din
cm cho cỏc em lp 4. C th : c vo u mi nm hc, sau khi nhn lp
v n nh t chc lp xong, tụi ó tin hnh kho sỏt cht lng hai mụn
Toỏn, Ting Vit nm c cht lng i tr tng mụn ca lp ; sau
ú tụi tip tc a ra mt on vn ngn yờu cu cỏc em c kho sỏt
k nng c ca tng hc sinh. Kt qu kho sỏt u nm hc 2011 2012

l :
Thi gian
kim tra
KSCL
unm

c cha lu loỏt
SL
13

%
42%

c ỳng
SL
15

%
48%

c hay
(cú din cm)
SL
%
3
10%

Da vo kt qu kho sỏt trờn, tụi ó phõn loi cỏc i tng c gm :
* i tng 1 : Nhng hc sinh c ỳng, c hay (c din cm).
* i tng 2 : Nhng hc sinh c ỳng song cha din cm.

* i tng 3 : Nhng hc sinh c cha lu loỏt v cũn chm.
Sau khi phõn loi hc sinh, tụi ó cú k hoch bi dng hc sinh gii,
kốm cp hc sinh yu v k nng c cho cỏc em trong cỏc tit hc, c
bit trong gi Tp c. Vy rốn cho cỏc em cú k nng c din cm
tt, tụi ó tin hnh cỏc bc nh sau
1. Trong gi tp c:
a, Rốn k nng c thm.

-9-


- Đọc thầm là hình thức đọc không thành tiếng, người đọc dùng mắt để
nhận biết văn bản và vận dụng năng lực tư duy để thông hiểu và tiếp nhận
nội dung thông tin của văn bản.
- Đọc thầm chỉ được thực hiện khi người đó đã biết đọc thành tiếng một
cách thành thạo. Khi đọc thầm, do không phải phát âm thành tiếng nên
người đọc đỡ hao tốn sức lực hơn so với đọc thành tiếng, tốc độ nhanh
hơn từ 1,5 đến 2 lần, người đọc có điều kiện tập trung tư tưởng để suy
ngẫm, tìm hiểu ý tứ nội dung văn bản đọc. Vì thế đọc thầm giúp người
đọc thông hiểu, tiếp nhận tốt hơn nội dung thông tin của văn bản.
- Chính vì thế mà để dạy đọc hiểu được cho học sinh thì giáo viên cần rèn
cho các em kỹ năng đọc thầm. Khi tổ chức cho học sinh đọc thầm, theo
chúng ta cần chú ý.
- Tư thế ngồi đọc của học sinh ngồi ngay ngắn khoảng cách giữa mắt và
sách từ 30 đến 50 cm
- Thường xuyên củng cố cho học sinh về cách đọc thầm, đọc hoàn toàn
bằng mắt, không mấp máy mắt, không phát ra tiếng. Lúc đầu có thể di
chuyển mắt theo que trỏ hoặc ngón tay, khi đạt thành thạo chỉ có mắt di
chuyển mà thôi, và quan trọng hơn là mắt đọc nhưng đầu phải suy nghĩ về
những điều mình đang đọc ( tránh tình trạng học sinh chỉ di chuyển mắt

theo chữ mà tâm lại hoàn toàn nghĩ về chuyện khác ).
- Cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh. Quy định thời gian đưa
ra câu hỏi (đơn giản) yêu cầu học sinh trả lời về hình thức về nội dung của
bài đọc.
b. Yêu cầu học sinh đọc đúng, lưu loát và nắm được nội dung, ý nghĩa
các bài đọc
Muốn đọc diễn cảm một tác phẩm trước hết đòi hỏi các em cần phải
biết đọc đúng, lưu loát và nắm được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm đó.
Vì khi đọc đúng, các em sẽ phát âm chính xác các từ ngữ, biết ngắt nghỉ
giọng đúng chỗ trong từng câu, từng đoạn để giúp người nghe hiểu đúng
nghĩa các từ ngữ cũng như các câu văn của bài đọc. Còn khi các em nắm
- 10 -


được nội dung, ý nghĩa bài đọc sẽ giúp các em biết nhấn giọng các từ ngữ
biểu cảm và tự xác định được giọng đọc phù hợp cho từng đoạn hay cả
bài đọc đó. Hơn nữa, có hiểu thấu đáo nội dung và ý nghĩa của bài đọc thì
các em mới có những cảm xúc thực để truyền đạt được những tâm tư tình
cảm hay ý đồ của tác giả được ẩn chứa trong từng câu, từng chữ của bài
đọc đến với người nghe. Vì thế, đây là một yếu tố rất quan trọng, là cơ sở
ban đầu của việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho các em.
* Luyện đọc đúng:
Việc giúp các em luyện đọc đúng, lưu loát tôi thực hiện chủ yếu ở
bước luyện đọc. Trong quá trình đọc, tôi thường gọi các em thuộc đối
tượng 1 và 2 đọc trước; sau đó yêu cầu các em tiếp tục giúp đỡ, kèm cặp
các bạn đọc còn chậm, chưa lưu loát tiến đến đọc đúng và lưu loát hơn.
Đối với học sinh lớp 4 thì việc rèn luyện đọc đúng được rèn luyện
như sau:
- Trước khi tiến hành luyện đọc, chia văn bản thành các đoạn đọc. Tôi căn
cứ vào trình độ đọc của học sinh trong lớp để chia văn bản thành các

đoạn, sao cho các đoạn không quá dài hoặc quá chênh lệch nhau về chữ
số, cách ngắt đoạn không quá chi li, gây khó khăn cho học sinh theo dõi
và đọc nối tiếp.
- Dựa vào số đoạn tôi chỉ định trước số học sinh tham gia đọc nối tiếp ở
mỗi vòng đọc. Học sinh có thể đứng hoặc ngồi tại chỗ với tâm thế sẵn
sàng đọc nối tiếp.
- Để củng cố kĩ năng đọc trơn đã được rèn ở các lớp dưới, tôi hướng dẫn
học sinh đọc nối tiếp qua 3 vòng:
+ Vòng 1: Qua những học sinh đọc nối tiếp, giáo viên nghe và phát hiện
những hạn chế về cách phát âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu câu, từ đó có biện
pháp hướng dẫn đối với cá nhân hoặc nhắc nhở chung đối với cả lớp để
học sinh đạt yêu cầu đọc đúng và rành mạch.
+ Vòng 2: Học sinh đọc nối tiếp kết hợp nắm nghĩa của từ được chú giải
trong SGK, nó có tác dụng góp phần nâng cao kĩ năng đọc hiểu ( việc tìm
- 11 -


hiểu nghĩa từ có thể xen kẽ trong quá trình đọc nối tiếp hoặc sau khi đọc
hết bài). Nếu học sinh đọc sai giáo viên vẫn tiếp tục hướng dẫn, sửa chữa.
+ Vòng 3: Học sinh đọc nối tiếp để giáo viên đánh giá sự tiến bộ, tiếp tục
hướng dẫn hoặc nhắc nhở.Việc luyện đọc từng đoạn nối tiếp tạo điều kiện
cho nhiều học sinh được thực hành đọc. Qua thực hành mà học sinh được
giáo viên hướng dẫn, uốn nắn hay động viên, khích lệ để đạt được vững
chắc kĩ năng đọc, chuẩn bị luyện tập kĩ năng mới: Đọc diễn cảm.
Với những học sinh phát âm chưa đúng, giáo viên cần sửa phát âm cho
học sinh. Cụ thể:
Ví dụ: Khi dạy bài Hoa học trò học sinh phát âm sai từ “ nỗi niềm”, “lá
me non”, “lúc nào”, “làm sao” thành các từ “ lỗi liềm”, “ná me lon”, “núc
lào”, “nàm sao”… Đây là lỗi sai khi nói lẫn lộn phụ âm đầu l/n do cách
phát âm của địa phương. Đối với những lỗi như thế này tôi gọi một hoặc

hai học sinh đọc chuẩn đọc lại hoặc tôi đọc lại từ đó và yêu cầu học sinh
phát âm theo. Nếu học sinh không sửa được tôi dùng cách trực quan mô tả
âm vị và hướng dẫn học sinh quan sát, tự kiểm tra. Vì âm “ n ” là âm mũi
khi phát âm sờ tay vào mũi thấy rung. Tôi yêu cầu học sinh đọc lại các từ
“ nỗi niềm”, “lá me non”, “lúc nào” một cách chính xác. Ngược lại, khi
bịt mũi học sinh không thể đọc được “ nỗi niềm”.
Đối với những học sinh đọc sai dấu thanh: thanh “ hỏi” thành thanh “
nặng”, thanh “ngã” thành thanh “sắc”.
Ví dụ: Khi đọc “ đỏ rực” thành “đọ rực”, “xã hội” thành “ xá hội”, “ đưa
đẩy” thành “đưa đậy”, “mạnh mẽ” thành “mạnh mé”.
Đây là những lỗi sai rất khó sửa nên tôi đã rất kiên trì đồng thời phải có sự
phối hợp tích cực giữa học sinh, phụ huynh. Tôi hướng dẫn học sinh cách
đặt vị trí của đầu lưỡi khi phát âm “ đỏ”, “đẩy” đầu lưỡi đặt lên vị trí hàm
trên hai môi khép kín khi đọc lưỡi bật xuống và phát âm. Còn nếu học
sinh phát âm sai “đọ”, “đậy” trong khi phát âm nếu khép hai môi như trên
thì không thể phát âm được. Tôi cũng hướng dẫn cho phụ huynh cách

- 12 -


luyện thêm ở nhà cho các em. Đối với từng bài tôi tìm ra những tiếng khó,
từ khó để các em luyện đọc.
Ví dụ:
+ Trong bài “ Đường đi Sa Pa” ( TV 4- tập 2 trang 102 ) các em cần đọc
đúng các từ: chênh vênh, lướt thướt, Hmông, Tu Dí, Phù Lá, khoảnh khắc

+ Với những truyện đọc nước ngoài giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh
cách đọc các danh từ riêng, như trong bài “Dù sao trái đất vẫn quay”
( TV4 tập2) :Cô-péc-ních, Ga- li- lê …
Các hình thức luyện đọc:

Để hướng dẫn học sinh luyện đọc thành tiếng, tôi tổ chức cho học sinh
hoạt động theo các hình thức sau:
- Đọc cá nhân (đọc riêng lẻ hoặc nối tiếp từng đoạn, đọc trước lớp hoặc
đọc theo cặp, theo nhóm).
- Đọc đồng thanh ( theo nhóm hoặc tổ, lớp) khi cần: Ví dụ: Đọc đồng
thanh để khắc sâu ấn tượng về nhịp điệu của đoạn văn, bài thơ; giúp học
sinh dễ dàng ghi nhớ đoạn, bài cần thuộc lòng, thay đổi hoạt động, tạo
không khí hào hứng cho lớp học.
- Đọc theo phân vai ( nhiều học sinh hợp tác đọc theo lời nhân vật mình
đóng vai, tham gia các trò chơi luyện đọc).
+ Việc giúp các em nắm nội dung, ý nghĩa của bài đọc được tiến hành chủ
yếu ở bước tìm hiểu bài. Sau khi hướng dẫn các em khai thác nội dung
các câu hỏi trong sách giáo khoa, tôi đã nêu thêm một vài câu hỏi mở để
giúp các em hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của bài đọc đó.
* Khai thác giọng đọc của học sinh thông qua việc tìm hiểu nội dung
bài:
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài nhằm trao đổi kĩ năng đọc- hiểu, góp
phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho luyện đọc diễn
cảm.

`
- 13 -


Nắm được nội dung chính của bài sẽ giúp các em xác định giọng đọc
chung của đoạn,
của bài. Ví dụ: Bài đọc với giọng nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, mạnh
mẽ...
- Giáo viên nêu câu hỏi để định hướng cho học sinh đọc thầm ( đoạn, bài)
và trả lời đúng nội dung. Có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng,

những học sinh khác đọc thầm thảo luận vấn đề do giáo viên đưa ra. Ví
dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm khổ thơ 3 trong bài thơ "Mẹ
ốm"( lớp 4) để trả lời câu hỏi: Sự quan tâm chăm sóc của xóm làng đối
với mẹ bạn nhỏ được thể hiện qua những câu thơ nào?
- Với trình độ học sinh trong lớp, tôi chia câu hỏi thành các ý nhỏ để học
sinh dễ thực hiện hoặc bổ sung câu hỏi phụ có tác dụng dẫn dắt học sinh
trả lời câu hỏi.
Ví dụ: Câu hỏi 1 trong bài "Tre Việt Nam"(lớp 4) tôi tách thành 3 ý nhỏ
để học sinh dễ trả lời.
+ Những hình ảnh nào của tre gợi lên phẩm chất cần cù của người Việt
Nam?
+ Những hình ảnh nào gợi lên phẩm chất đoàn kết của người Việt Nam?
+ Những hình ảnh nào gợi lên phẩm chất ngay thẳng của người Việt
Nam?
- Bằng nhiều hình thức khác nhau ( làm việc cá nhân, theo cặp hoặc theo
nhóm..), tôi tạo điều kiện cho học sinh luyện tập một cách tích cực. Trong
quá trình tìm hiểu bài, tôi rèn luyện cho học sinh cách trả lời câu hỏi, trao
đổi ý kiến.
- Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ
điệu phù hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc
điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và
nội dung, ý nghĩa bài đọc. Tôi yêu cầu học sinh đọc thật tốt một đoạn văn
nhằm "thăm dò" khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc
của học sinh. Qua kết quả đọc của học sinh, tôi dẫn dắt, gợi ý để học sinh
- 14 -


phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế và tìm ra cách đọc
hợp lí. Ví dụ: Đoạn vừa rồi đọc với giọng như thế nào? Để nêu đặc điểm
của nhân vật, em cần chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào?

Hoặc: Qua nội dung bài, em hãy xác định giọng đọc chung của toàn bài?
Học sinh thảo luận và trả lời - sau đó giáo viên rút ra kết luận chung
- Muốn tìm hiểu được ngữ điệu đọc phải bắt đầu từ hiểu và cảm thụ nội
dung bài.
- Trong mỗi tiết học, giáo viên là người giúp các em nắm vững nội dung
bài, những từ ngữ gợi tả bằng cách đặt câu hỏi, gợi mở, dẫn dắt, từ đó các
em sẽ cảm thụ và rung động trước cái hay, cái đẹp của bài văn. Có có thụ
sâu sắc nội dung bài mới chuyền được ngữ điệu, cảm xúc của tác phẩm
đến người nghe.
- Trong các bài thơ bài văn miêu tả trữ tình tôi giúp học sinh tìm ra các từ
“chìa khoá” những từ tạo nên giá trị nghệ thuật của bài. Vậy làm thế nào
để học sinh có thể nhận ra được những từ có tín hiệu nghệ thuật ấy? Theo
tôi, chúng ta nên bắt đầu bằng những ví dụ thật cụ thể để làm sao cho học
sinh thấy được rằng: Những từ có tín hiệu nghệ thuật thường là những từ
giầu mầu sắc biểu cảm như các từ láy, những từ đa nghĩa, những từ mang
nghĩa bóng có sự chuyển nghĩa văn chương, những từ có kết hợp bất
thường, những từ bộc lộ cảm xúc.
Ví dụ các từ : long lanh, phân vân, thung thăng của bài Con chuồn chuồn
nước (Tiếng Việt 4 ).
- Đối với các bài văn, bài thơ có thể yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ, hình
ảnh có giá trị nghệ thuật trong bài. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh
giải nghĩa các từ đó bằng các biện pháp: định nghĩa, bằng trực quan
(tranh, ảnh…), bằng ngữ cảnh cụ thể…
Ví dụ: bài ( Con chuồn chuồn nước – Tiếng việt 4 )
+ Khi giải nghĩa từ phân vân giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu với từ đó.
+ Với từ thung thăng tôi phải đặt từ đó vào câu để giải thích. (Rồi những
cảnh tuyệt đẹp của đất nước hiện ra: cánh đồng với những đàn trâu thung
- 15 -



thăng đang gặm cỏ ; dòng sông với những đoàn thuyền ngược xuôi).
Ngoài ra trong giảng dạy tôi giúp các em học sinh hiểu được các nghĩa
của câu từ ( nghĩa đen và nghĩa bóng)
- Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu rõ nghĩa của từ, chúng ta cần giúp học
sinh hiểu rõ cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh nghệ thuật, cảm nhận
được những giá trị nổi bật, những điều tế nhị sâu sắc, đẹp đẽ của từ ngữ,
câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ, câu chuyện…
- Việc phát hiện ra các biện pháp nghệ thuật là một trong những phần
quan trọng trong việc cảm thụ bài văn. Vì vậy, ngay từ đầu giáo viên cần
bổ sung cho các em hiểu biết thêm về các biện pháp tu từ như: biện pháp
so sánh , nhân hoá và dấu hiệu nhận biết, tác dụng của các biện pháp đó.
Đồng thời, các em cần tìm ra sự tinh tế trong cách sử dụng ngôn từ. Ta
cần đọc kỹ, lắng nghe xem bài văn gây cho ta cảm xúc gì? ( cảm xúc về
âm thanh, giai điệu? về đường nét, mầu sắc ? về nhịp điệu cuộc sống? về
tâm tư, suy nghĩ của tác giả? về con người cảnh vật được miêu tả?... ).
- Muốn có được những cảm nhận đó, các em cần có một trí tưởng tượng
phong phú, một khả năng nhận diện cảm xúc nhậy bén … giáo viên chính
là người phát hiện và bồi dưỡng những khả năng này ở các em.
Ví dụ: Khi dậy bài “ Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” – Tiếng việt 4 tập
2 trang 71.
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng
……
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”
Phạm Tiến Duật

- 16 -


- Để giúp các em hiểu rõ nội dung và cảm thụ được bài thơ giáo viên cần
đặt câu hỏi:
+ Những hình ảnh nào trong bài thơ nói nên tinh thần dũng cảm và lòng
hăng hái của những chiến sỹ lái xe?
+ Tình đồng chí, đồng đội của những người chiến sỹ được thể hiện trong
câu thơ nào?
+ Hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng băng ra trận giữa bom
đạn của kẻ thù gợi cho em cảm nghĩ gì?
- Qua hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính vì bom giật bom
rung sẽ giúp các em hiểu rõ hơn những khó khăn, nguy hiểm trên đường
ra trận và tinh thần dũng cảm lạc quan của các chiến sỹ lái xe trong những
năm tháng chống mỹ cứu nước. Đó cũng là khí thế quyết chiến, quyết
thắng Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước của hậu phương lớn miền Bắc
trong thời kỳ chiến tranh chống đế quốc Mỹ.
- Hiểu và cảm thụ được vẻ đẹp cái hay của bài thơ ( thể hiện qua những
hình ảnh gợi tả, biện pháp tu từ …) các em sẽ có được niềm cảm thông
sâu sắc bởi đã hoà mình được vào dòng cảm xúc của tác giả. Từ đó các
em không chỉ đọc đúng mà còn có thể truyền tải được cả tình cảm của tác
giả trên cơ sở mình cảm nhận được.
Khi đọc những câu thơ trong bài “ Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ
”, Tiếng việt 4 tập 2 trang 49 của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.
Ta cảm thấy thật xúc động bởi tình yêu của mẹ đối với con, đối với cách
mạng thật lớn lao, cao cả. Chính vì ,vậy, giáo viên cần giúp cho các em
- 17 -


tìm ra các yếu tố gây xúc động trong những câu thơ ấy. Trên cơ sở đó, các
em sẽ đọc tốt.
Tóm lại: Tìm được cái gì đó làm mình cảm xúc, tức là các em đã
cảm thụ được bài văn.
Kết luận: Việc hiểu, đặc biệt là cảm thụ được bài văn là việc làm
hết sức quan trọng trong việc học sinh có thể đọc diễn cảm. Đặc biệt với
học sinh lớp 4 thì việc hiểu và cảm thụ bài văn lại càng quan trọng vì đó
là cơ sở giúp các em học tốt hơn môn Tiếng việt. Tuy nhiên, giáo viên
cũng cần chú ý ở bậc Tiểu học việc giảng giúp các em hiểu và cảm thụ bài
văn nhằm mục đích lớn nhất là để các em đọc diễn cảm được tốt hơn do
đó không nên biến một giờ lên lớp thành một giờ giảng văn.
c. Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm (còn gọi là đọc hay) là một hình thức bộc lộ cảm thụ văn
bản. Qua đọc diễn cảm, người giáo viên sẽ đo được mức độ cảm thụ của
học sinh. Vì thế có thể nói: “Đọc diễn cảm là một kĩ xảo của quá trình
đọc.”
Luyện đọc diễn cảm cho học sinh tức là hướng dẫn cho các em khi đọc
biết cách thể hiện ngữ điệu, trường độ, cao độ qua giọng đọc của mình.
Muốn thể hiện tốt giọng đọc diễn cảm cho một bài đọc hay một đoạn
trong bài đọc thì người giáo viên cần căn cứ vào nội dung, phong cách bài
đọc để dẫn dắt, gợi mở học sinh tìm ra cách đọc và tập thể hiện bằng
giọng đọc của chính mình.
Thông thường, ở lớp 4, bước đọc diễn cảm được thực hiện sau bước tìm
hiểu bài và không đòi hỏi học sinh phải thực hiện đọc cả bài mà chỉ yêu

cầu đọc diễn cảm 1- 2 đoạn trong bài đọc. Vì thế, sau khi các em tìm hiểu
bài xong, tôi đã tiến hành luyện đọc diễn cảm cho các em theo quy trình :
+ Đọc nối tiếp từng đoạn trong bài.
+ Giới thiệu đoạn đọc diễn cảm (thường là những đoạn tiêu biểu và khó
đọc nhất trong bài đọc)
+ Đọc mẫu (giáo viên hoặc học sinh giỏi, khá)
- 18 -


+ Yêu cầu học sinh nêu giọng đọc phù hợp cho đoạn trên.
+ Luyện đọc diễn cảm theo nhóm.
+ Tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp.
Với quy trình trên, tôi thường giao việc cụ thể cho từng đối tượng HS như
sau :
- Với các em thuộc đối tượng 1 (những HS đọc hay) : Tự đọc để phát
hiện cách đọc; nêu giọng đọc phù hợp nhất và tiến hành đọc diễn cảm
đoạn đó.
- Với các em thuộc đối tượng 2 (những HS đọc đúng) : Nêu chỗ ngắt nghỉ
giọng cho câu văn (đặc biệt trong câu văn dài) hay nhịp điệu của dòng
thơ, câu thơ ; nêu các từ ngữ cần nhấn giọng để bước đầu biết đọc diễn
cảm.
- Với các em thuộc đối tượng 3 (những HS đọc chưa lưu loát, còn chậm) :
Đọc đúng các từ ngữ thường phát âm sai, nêu được một số từ ngữ cần
nhấn giọng để luyện đọc trôi chảy (trường hợp này chỉ dừng lại ở luyện
đọc đúng, không yêu cầu đọc diễn cảm).
Thực tế, không phải bài nào tìm hiểu bài xong mới tiến hành luyện đọc
diễn cảm mà tùy theo từng bài và tùy từng đối tượng học sinh, tôi có thể
hướng dẫn các em thể hiện đọc diễn cảm ngay từ bắt đầu luyện đọc đoạn.
Điều này rất tốt, tạo hứng thú trong quá trình học tập của học sinh.
Ví dụ:

+ Khi dạy bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Tiếng Việt 4- tập
2, trang 71)
Trước hết tôi gọi một em đọc toàn bài thơ, yêu cầu các em dưới lớp theo
dõi và nhận xét nhịp điệu, sắc thái của bài thơ này (nhanh hay chậm, vui
tươi hay buồn rầu, hóm hỉnh hay gay gắt), rồi yêu cầu các em dựa vào nội
dung của bài thơ để xác định giọng đọc phù hợp. Sau khi học sinh nêu, tôi
bổ sung thêm và hướng dẫn các em nhấn giọng ở các từ gợi tả trong bài.
Qua đó, tôi thấy đa số các em biết thể hiện giọng đọc diễn cảm cho toàn
bài thơ ngay từ lúc bắt đầu bước vào phần luyện đọc đúng với giọng vui,
- 19 -


hóm hỉnh nhằm toát lên được tinh thần dũng cảm, lạc quan, coi thường
khó khăn, gian khổ của các chiến sĩ lái xe trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước. Với cách làm như trên, khi chuyển sang bước luyện đọc diễn
cảm, các em sẽ chủ động hơn trong việc đọc diễn cảm từng đoạn của bài
thơ và không chỉ những học sinh giỏi, khá biết đọc diễn cảm mà một số
em học sinh trung bình cũng có thể bước đầu biết đọc diễn cảm.
Trong chương trình Tập đọc, yếu tố đọc diễn cảm đối với lớp 4 chỉ
yêu cầu ở mức độ vừa phải (tức là chỉ bước đầu biết đọc diễn cảm) ; còn
đối với lớp 5 thì yếu tố này đòi hỏi ở mức độ cao hơn như : biết đọc diễn
cảm đoạn văn, đoạn thơ dễ nhớ trong bài ; biết đọc diễn cảm bài văn phù
hợp với nội dung và tính cách nhân vật ; biết đọc diễn cảm bài thơ, ngắt
giọng đúng nhịp thơ.
Vậy: Có phải bài đọc nào cũng hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm
không ? Giọng đọc mẫu của giáo viên có ảnh hưởng gì đến việc hướng
dẫn học sinh đọc diễn cảm ?
Theo tôi, không phải bài đọc nào cũng thực hiện đọc diễn cảm. Đối
với văn bản nghệ thuật thì mới hướng dẫn đọc diễn cảm, còn đối với các
văn bản khác thì chỉ hướng dẫn luyện đọc lại. Đồng thời, trong thực tế,

không phải giáo viên nào cũng biết đọc diễn cảm nên giọng đọc mẫu của
giáo viên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hướng dẫn học sinh đọc
diễn cảm, nó không những giúp các em cảm nhận được ngay từ đầu cái
hay, cái đẹp của tác phẩm mà còn tạo hứng thú trong suốt giờ học của các
em. Chính vì thế, khi dạy, tôi yêu cầu các em xác định bài đọc đó có phải
là văn bản nghệ thuật hay không ? Còn khi tiến hành đọc diễn cảm, tôi
luôn nhắc các em phải biết thể hiện rõ ngữ điệu, trường độ, cao độ của
giọng đọc trong từng bài. Đối với mỗi bài đọc, tôi luôn khuyến khích các
em tự trình bày giọng đọc hay nhất thông qua ngữ điệu, độ to nhỏ, trầm
bổng hay nhanh chậm của âm thanh, câu, từ.
- Trong quá trình soạn bài, tôi đã phân loại các văn bản nghê thuật trong
chương trình Tập đọc lớp 4 thành 3 thể loại cơ bản sau :
- 20 -


(1) Văn xuôi.
(2) Thơ.
(3) Truyện ; kịch.
Ở mỗi thể loại, tôi hướng dẫn cách đọc diễn cảm khác nhau. Cụ thể :
* Đối với văn xuôi
Hướng dẫn các em xác định về sắc thái giọng đọc, biết lựa chọn cách ngắt
nghỉ giọng và nêu được những chỗ cần nhấn giọng phù hợp trong từng
câu của đoạn. Tuỳ theo nội dung từng câu hay của cả đoạn để lựa chọn
các yếu tố trên sao cho phù hợp, từ đó các em sẽ tự điều chỉnh được giọng
đọc của bản thân khi đọc. Ngoài việc khai thác các câu hỏi trong sách giáo
khoa, tôi còn cho các em tìm hiểu thêm về giá trị nghệ thuật trong đoạn
cần đọc diễn cảm để các em dễ dàng tìm đúng giọng đọc cho đoạn đó.
Ví dụ: Khi dạy bài “Hoa học trò” ( Tiếng Việt 4 - tập 2, trang 43)
Ở bước tìm hiểu bài, tôi đặt các câu hỏi:
+ Vẻ đẹp của hoa phượng có gì đặc biệt? (câu hỏi 2 SGK)

+ Màu hoa phượng thay đổi như thế nào theo thời gian? (câu hỏi 3 SGK)
Sau đó, tôi mới đặt câu hỏi: Tại sao tác giả lại gọi hoa phượng là “hoa
học trò” (câu hỏi 1 SGK). Tiếp đó, tôi nêu thêm một số câu hỏi dành cho
HS khá, giỏi giúp các em tìm hiểu về giá trị nghệ thuật có trong đoạn đầu
để thấy hết vẻ đẹp đặc biệt của hoa phượng.
+ Đoạn đầu, tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả
vẻ đẹp của hoa phượng? ( so sánh, điệp ngữ)
+ Hãy nêu những hình ảnh so sánh (So sánh là những tán hoa lớn xoè ra
như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau)
+ Tác giả sử dụng điệp ngữ nào? (Điệp ngữ: không phải, cả một loạt, cả
một vùng, cả một góc trời đỏ rực)
+ Những biện pháp đó có tác dụng gì? (giúp người đọc hình dung và nhấn
mạnh rõ hơn vẻ đẹp của cả chùm hoa phượng, cả cây phượng)
+ Để nhấn mạnh được vẻ đẹp ấy, đoạn này, ta cần đọc như thế nào?
(giọng nhẹ nhàng, nhấn giọng những từ được dùng một cách ấn tượng
- 21 -


để tả vẻ đẹp của hoa phượng: không phải, cả một loạt, cả một vùng, cả
một góc trời đỏ rực, muôn ngàn con bướm thắm)
Tôi chọn đoạn 1 để hướng dẫn các em đọc diễn cảm. Tôi tiến hành như
sau :
- Gọi 3 HS đọc nối tiếp toàn bài văn.

- 3 HS đọc nối tiếp ; Cả lớp đọc thầm

- Giới thiệu đoạn đọc diễn cảm (đoạn - 1 HS đọc to (HS khá, giỏi); Lớp theo dõi

1) Treo bảng phụ và gọi HS đọc mẫu.
+ Để đọc hay đoạn này, em cần đọc - Nêu các từ cần nhấn giọng, chỗ n

với giọng như thế nào ?

hơi sau các cụm từ (ĐT2 + 3) ; nêu

- Thống nhất giọng đọc cho đoạn giọng đọc phù hợp nhất cho đoạn (ĐT1).
này : đọc với giọng nhẹ nhàng, cảm - Chú ý lắng nghe.
hứng ca ngợi và nhấn giọng các từ - Đọc theo nhóm đôi (2’)
gợi tả, gợi cảm. (có thể đọc mẫu lại )
- Luyện đọc diễn cảm theo nhóm

- 3- 4 HS thi đọc ( theo từng cặp cùng nhó

đối tượng đọc); Dưới lớp nhận xét

- Tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp bình chọn bạn đọc hay nhất
Nhận xét, ghi điểm ; Tuyên dương HS.
Cụ thể đoạn này đọc như sau :
Phượng không phải một đoá, không phải vài cành; phượng đây là
cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. Mỗi hoa chi là một
phần tử của cả xã hội thắm tươi; người ta quên đoá hoa, chỉ nghĩ đến
cây, đến hàng, đến n ững tán hoa lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm
thắm/ đậu khít nhau.
b, Đối với thơ
Ngoài sắc thái giọng đọc và cách nhấn giọng, tôi thường hướng dẫn các
em biết lựa chọn nhịp điệu cho từng dòng thơ, câu thơ trong các khổ thơ.
Tuỳ theo nội dung của từng bài để tôi hướng dẫn các em đọc diễn cảm.
Ngoài việc chọn một đoạn tiêu biểu để hướng dẫn các em đọc diễn cảm,
tôi còn cho các em tự chọn và luyện đọc đoạn thơ mà các em yêu thích để
tạo hứng thú, sự thoải mái và tránh bị gò ép khi học tập ; đồng thời phát
huy tính tích cực, sáng tạo trong học sinh.

Ví dụ: Dạy bài “Tre Việt Nam” (TV4- tập 1, trang 41)
- 22 -


Vì bài này độ dài của các đoạn gần bằng nhau nên sau khi tìm hiểu bài
xong, tôi hỏi:
+ Bài thơ này có mấy đoạn ?

+ 4 đoạn

- Gọi HS đọc nối tiếp bài thơ.

- 4 HS đọc, mỗi em 1 đoạn.

+ Em thích nhất là đoạn nào ? Vì sao ?

+ 3- 4 HS nêu kết hợp giải

thích.
- Tổ chức luyện đọc diễn cảm.

- Đọc diễn cảm đoạn đã chọn

theo một
( nhắc HS chú ý chỗ nhấn giọng, nhịp
thơ, giọng đọc phù hợp với đoạn đã chọn)

trong các hình thức sau :
. Đọc cá nhân.
. Đọc theo nhóm ngẫu nhiên


trong tổ.
. Đọc theo nhóm ngẫu nhiên
trong lớp.
- Tổ chức thi đọc diễn cảm kết hợp đọc

+ 2 - 3 HS (hoặc nhóm) thi

đọc đoạn.
thuộc lòng trước lớp.

+ 1- 2 em đọc thuộc lòng cả

bài.
- Dưới lớp bình chọn bạn
đọc hay nhất.
=> NX, ghi điểm; Tuyên dương.
(VD : Đoạn 4 của bài thơ cần đọc với giọng ca ngợi ; nhấn giọng ở các từ
khẳng định và những từ mang rõ sắc thái cảm xúc như sau :
... Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông / lạ thường.
Lưng trần phơi nắng / phơi sương
Có manh áo cộc, tre nhường cho con.
Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng / thân tròn của tre.
- 23 -


Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc / có gì lạ đâu.

Mai sau,
Mai sau,
Mai sau,
Đất xanh/ tre mãi xanh màu tre xanh.)
- Đối với các bài thơ thuộc thể thơ tự do, nhịp thơ không ổn định nên tôi
luôn nhắc các em phải dựa vào ý thơ giữa các dòng để ngắt đúng nhịp
từng dòng thơ hoặc đọc theo cách vắt dòng (tức là đọc liền mạch với các
dòng sau)
c, Đối với truyện- kịch
- Với thể loại này, khi hướng dẫn đọc diễn cảm thì trước hết tôi giúp các
em phân biệt rõ giữa lời kể và lời các nhân vật, giữa lời các nhân vật với
nhau; phân biệt nhân vật chính - phụ để các em thể hiện tốt lời nói, ngữ
điệu theo từng tuyến nhân vật nhằm tăng giá trị biểu cảm của tác phẩm.
Đồng thời, tổ chức đọc diễn cảm theo cách phân vai kết hợp với sự phụ
trợ của nét mặt, ánh mắt, điệu bộ, cử chỉ,…cho từng nhân vật. Vì vậy,
trong quá trình rèn đọc, tôi yêu cầu các em nhấn giọng các từ ngữ biểu
cảm, nhận biết được tính cách của từng nhân vật,…để xác định giọng đọc
phù hợp với từng nhân vật trong câu chuyện hay đoạn kịch.
- Khi tổ chức đọc diễn cảm loại bài này, tôi đã kết hợp gọi cả ba đối tượng
học sinh cùng tham gia đọc, như:
+ Đối tượng 1 và 2 (những HS đọc đúng, đọc hay) : các em nhập vai
những nhân vật có tính cách mạnh mẽ ; vai người dẫn chuyện hay những
vai có lời thoại dài, cần thể hiện nhiều cảm xúc.
+ Đối tượng 3 (những HS đọc chưa lưu loát và còn chậm): các em nhập
vai một số nhân vật có tính cách trầm, nhẹ nhàng hoặc những vai có lời
thoại ngắn, đơn giản nhằm tạo hứng thú học tập cho các em và giúp các
em có cơ hội được bộc lộ, từ đó các em sẽ cố gắng rèn đọc dần dần ở
những bài sau.
- 24 -



Ví dụ: Dạy bài “Người ăn xin” (Tiếng Việt 4- tập 1)
* Luyện đọc :
- Tổ chức cho các em đọc nối tiếp từng đoạn hay toàn bộ đoạn kịch theo
phân vai. Khi các em đọc lời đối thoại các nhân vật trong đoạn kịch thì tôi
nhắc các em cần phải:
+ Phân biệt tên nhân vật với lời nói của nhân vật và lời chú thích về thái
độ, hành động của nhân vật.
+ Thể hiện đúng tình cảm, thái độ của các nhân vật qua lời nói và tình
huống truyện.
-

Yêu cầu các em nêu giọng đọc phù hợp với nội dung từng đoạn.

(Đoạn kể và tả hình dáng của ông lão ăn xn đọc với giọng chậm rãi,
thương cảm). Nhấn giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
-

Yêu cầu các em nêu giọng đọc phù hợp với từng nhân vật. Cụ thể :

. Lời cậu bé: giọng xót thương ông lão
Lời ông lão : xúc động trước tình cảm chân thành của cậu bé
- Hướng dẫn các em cách đọc diễn cảm đoạn kịch theo phân vai.
* Đọc diễn cảm :
+ Đọc từng đoạn.
– 3 HS nối tiếp đọc 3 đoạn của bài
+ Đọc diễn cảm đoạn : Tôi chẳng - 3 HS đối tượng 1, 2 đọc theo cách
biết làm cách nào……… nhận

phân vai


được chút gì cuả ông lão

- HS luyện đọc diễn cảm theo cách
phân vai
- HS thi đọc diễn cảm
Lớp NX và bình chọn bạn thể hiện

hay nhất.
Như vậy, để rèn cho các em đọc diễn cảm có hiệu quả, trong các
giờ Tập đọc tôi luôn cho các em xác định bài đọc đó thuộc thể loại nào, từ
đó các em sẽ định dạng cho mình về cách thể hiện cảm xúc đối với bài
đọc đó một cách tốt nhất, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học
cho các em. Hơn nữa, vì thời gian luyện đọc diễn cảm trong giờ Tập đọc
rất ít nên để đáp ứng cho nhiều đối tượng học sinh được đọc diễn cảm, tôi
- 25 -


×