Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 24 trang )

SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

MỤC LỤC

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Thực trạng tình hình cơ sở vật chất, đổi mới phương pháp dạy học
của nhà trường:
* Thực trạng cơ sở vật chất, việc đổi mới phương pháp dạy học trên địa
bàn huyện:
Hầu hết các đơn vị trường học có cơ sở vật chất riêng cho các trường,
điểm trường. Từng bước xây dựng cơ sở vật chất kiên cố cho các vùng khó
khăn. Tuy nhiên, còn không ít trường cơ sở vật chất vẫn chưa thật sự đảm bảo
cho việc thực hiện đổi mới chương trình dạy học; thiếu khối phòng phục vụ học
tập: phòng thí nghiệm, phòng bộ môn, nhiều thư viện chưa đạt chuẩn.
Về thiết bị dạy học: các trường đều được trang bị, nhưng nhìn chung chất
lượng chưa cao, hầu hết đã hư hỏng, hiệu quả sử dụng thấp. Cá biệt có trường
được trang bị, nhưng không sử dụng vì cũ, chất lượng kém, không có cán bộ
phụ trách thí nghiệm thiết bị chuẩn bị cho giờ thực hành.
Khả năng tự làm thiết bị dạy học rất hạn chế do: một phần đội ngũ giáo
viên chưa năng động, sáng tạo; một phần hạn chế về thời gian, về kinh phí và
thực tế chưa được coi trọng đúng mức vấn đề tự làm và sử dụng đồ dùng dạy
học tự làm để áp dụng vào quá trình giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, góp phần đổi mới
phương pháp còn nhiều hạn chế, nguyên nhân: do thiếu điều kiện về cơ sở vật
chất, nhiều giáo viên còn e ngại, chưa thành thạo trong việc thiết kế, sử dụng
1


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”


Năm học 2014 – 2015

các phần mềm hỗ trợ giảng dạy trình chiếu, chỉ dụng sử nhiều khi tổ chức thao
giảng, hội giảng hay tham gia thi giáo viên dạy giỏi các cấp.
* Thực trạng cơ sở vật chất, việc đổi mới phương pháp dạy học tại trường
THCS thị trấn Ba Tơ:
Trường THCS TT Ba Tơ được xây dựng từ năm 2006 và đưa vào sử dụng
từ năm học 2007. Hiện trường có 01 nhà Hiệu bộ và 02 dãy phòng học gồm 14
phòng, trong đó có 01 phòng dạy học bộ môn tin, 01 phòng thực hành thí
nghiệm bộ môn lí, hóa, 01 phòng trưng dụng làm phòng thiết bị (chưa có cán bộ
chuyên môn phụ trách), 01 phòng trưng dụng làm phòng thư viện, 01 phòng
dùng để hội họp, 01 phòng sinh hoạt Đội, điểm truy cập Internet, còn lại 8
phòng học / 12 lớp, nhà trường tổ chức học 2 buổi (buổi sáng khối 6 và 8, buổi
chiều khối 7 và 9). Chính vì vậy nên việc sinh hoạt hội họp, hội giảng chỉ tổ
chức thực hiện vào ngày thứ 7 hàng tuần.
Về phương tiện, thiết bị dạy học: trang thiết bị dạy học cơ bản đảm bảo,
song nhiều thiết bị cung ứng đã lâu, đã hỏng; nhà trường có 02 màn hình LG 42
in dùng để dạy giáo án điện tử, dùng làm phương tiện trình chiếu trong một số
tiết dạy ứng dụng công nghệ thông tin, trường có điểm truy cập internet, có
mạng phát wifi tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên truy cập thông tin từ mạng
internet phục vụ cho nhu cầu dạy học.
Việc tổ chức hội thảo, hội giảng, dạy học có ứng dụng công nghệ thông
tin, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng
phát triển năng lực của học sinh được chuyên môn nhà trường quan tâm, giáo
viên tích cực hưởng ứng thực hiện.
II. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chương trình và sách
giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học,
thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc

lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học,
2


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niền tin và niềm vui trong học tập. Tiếp tục vận
dụng những ưu thế của phương pháp truyền thống và dần dần làm quen với
phương pháp dạy học mới.
Đổi mới phương pháp dạy học luôn luôn đặt trong mối quan hệ với đổi
mới mục tiêu, nội dung dạy học, đổi mới cơ sở vật chất và thiết bị dạy học; đổi
mới các hình thức tổ chức dạy học để phù hợp giữa dạy học cá nhân và các
nhóm nhỏ hoặc cả lớp, giữa dạy học trong phòng học và ngoài hiện trường; đổi
mới môi trường giáo dục để học tập gắn với thực hành và vận dụng; đổi mới
đánh giá kết quả học tập của học sinh qua đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra,
xây dựng các bộ công cụ đánh giá, phối hợp kiểu đánh giá truyền thống với
cách trắc nghiệm khách quan, đảm bảo đánh giá khách quan, trung thực mức độ
đạt được mục tiêu giáo dục của từng học sinh.
Một trong những phương pháp dạy học mới và hiện đại được đưa vào là
phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy (BĐTD) - một phương pháp dạy
học mới đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng, một phương pháp
dạy học thể hiện sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, thể hiện được khả
năng tư duy hệ thống giữa người dạy và cả người học thông qua việc sơ đồ
hóa kiến thức, sử dụng được phương pháp này một cách hiệu quả cũng thể hiện
được sự sáng tạo của giáo viên thông qua dụng cụ dạy học trực quan. Qua việc
tìm hiểu (từ việc tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng, qua việc dự giờ giáo
viên) và đã từng vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy trong bộ
môn Ngữ văn, tôi nhận thấy phương pháp dạy học này rất có hiệu quả trong
công tác giảng dạy và học tập của học sinh. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý

ngại học văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn học, đồng thời đem
đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về môn học Ngữ văn. Vậy thế nào là
phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy? Cần sử dụng bản đồ tư duy như thế
nào để nâng cao chất lượng trong các giờ học văn? Đó là những vấn đề tôi
muốn cùng được chia sẻ với quý đồng nghiệp qua sáng kiến kinh nghiệm: Sử
dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích ở bộ môn Ngữ văn Trung học cơ sở.
3


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

III. Thời gian, địa điểm nghiên cứu
1/ Thời gian:
- Bắt đầu nghiên cứu trong các năm học 2012 – 2013, 2013 - 2014.
- Hoàn thành tháng 10/2014.
2/ Địa điểm: Trường THCS thị trấn Ba Tơ, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng
Ngãi.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
BĐTD được bản thân áp dụng thực hiện có hiệu quả trong công tác
giảng dạy tại đơn vị Trường trung học cơ sở thị trấn Ba Tơ và cũng đã cùng
đồng nghiệp trao đổi (góp ý giờ dạy thông qua dự giờ, qua hội thảo ứng dụng
công nghệ thông tin trong Ngày hội công nghệ thông tin ngành giáo dục và đào
tạo huyện lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 12 năm 2012), và đồng nghiệp đã
đưa vào áp dụng có hiệu quả ở một số đơn vị trường trung học cơ sở trong địa
bàn huyện.
Để nghiên cứu, áp dụng sáng kiến kinh nghiệm “Sử dụng bản đồ tư duy
trong dạy và học tích ở bộ môn Ngữ văn Trung học cơ sở”, bản thân đã sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp quan sát: Hình thức chủ yếu của phương pháp này là dự

giờ đồng nghiệp từ đó tôi có thể phát hiện ra những ưu nhược điểm trong bài
dạy của các đồng nghiệp.
- Phương pháp so sánh: với phương pháp này tôi có thể phân loại, đối
chiếu kết quả nghiên cứu.
- Ngoài ra tôi còn sử dụng những phương pháp hỗ trợ khác như: đọc tài
liệu, thống kê, kiểm chứng, thăm dò ý kiến của học sinh, trao đổi kinh nghiệm
cùng đồng nghiệp.

4


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý luận
Nghị quyết số 40/2008/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội
khóa X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định mục tiêu của
việc đổi mới chương trình phổ thông: “Xây dựng nội dung chương trình,
phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và
truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát
triển trong khu vực và trên thế giới.” và “Việc đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục
của các bậc học, cấp học quy định trong Luật Giáo dục; khắc phục những mặt
hạn chế của chương trình, sách giáo khoa; tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng
thực hành, năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn;
bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng
tiếp thu của học sinh, đảm bảo sự thống nhất, kế thừa và phát triển của chương

trình giáo dục; tăng cường tính liên thông giữa giáo dục phổ thông với giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục đại học; thực hiện phân luồng trong hệ thống giáo
dục quốc dân để tạo nguồn cân đối về cơ cấu nguồn lực; đảm bảo sự thống
nhất về chuẩn kiến thức và kĩ năng, có phương án vận dụng chương trình, sách
giáo khoa phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các địa bàn khác nhau. Đổi
mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực
hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học, tổ chức đánh
giá, thi cử, chuẩn hóa trường sở, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản
lí giáo dục.”

5


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

Môn học Ngữ văn, là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là
môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy
của con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục
quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học
thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các
môn học khác trong nhà trường phổ thông. Học tốt môn văn sẽ tác động tích
cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt
môn văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn
học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc
sống.
II. Cơ sở thực tiễn
Lâu nay, trong quá trình dạy học, người giáo viên vẫn thường dùng các
mô hình, sơ đồ, biểu đồ,… để khái quát, cô đọng kiến thức cho học sinh, nhất
là các bài tổng kết, bài ôn tập. Cách làm này có thể nói đã đem lại những hiệu

quả thiết thực nhất định trong việc ôn tập, củng cố, hệ thống kiến thức cho học
sinh, bởi cách trình bày ngắn gọn, lo-gic. Song, bên cạnh những ưu điểm ấy,
nó vẫn còn có những hạn chế nhất định, bởi trước hết cả lớp cùng chung cách
trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do
học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình, chưa phát huy được tính tư duy,
sáng tạo, tính tích cực, chủ động, tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh tri thức của
bài học.
Trong thời gian gần đây, Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Ngãi có tổ
chức nhiều lớp tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học, về ứng dụng công
nghệ thông tin trong giảng dạy (trên cở các lớp tập huấn từ Bộ Giáo dục),
trong đó có sử dụng BĐTD. BĐTD (Mind Map) hay còn gọi là sơ đồ tư duy,
lược đồ tư duy là phương pháp dạy học chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách
học, cách tự học, là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng
và đào sâu các ý tưởng, một dạng sơ đồ mở. BĐTD, một công cụ tổ chức tư
duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ
6


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức
năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Tuy
cùng một chủ đề nhưng mỗi em có thể có những cách sáng tạo, thể hiện khác
nhau, rất riêng, mang tính cá nhân tư duy của bản thân.
BĐTD giúp học sinh (HS) có được phương pháp học hiệu quả hơn: Việc
rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học
sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài
đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với

nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau.
Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự
ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử
dụng thành thạo BĐTD trong dạy học sẽ gúp học sinh có được phương pháp
học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
BĐTD sẽ giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả
nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái
mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy
việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa
tiềm năng của bộ não.
III. Thực trạng của việc dạy học môn Ngữ văn hiện nay
Thực tế hiện nay, môn Ngữ văn đang dần dần mất vị trí là một môn học
chính, quan trọng mà bị xếp sau một số môn học được coi là thực tế hơn để thi
tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng như Toán, Hóa, Lý, Anh, Tin…
Môn Ngữ văn là một môn học khó với học sinh bởi dung lượng kiến thức rất
nhiều. Học sinh phải học văn học Việt Nam (Văn học dân gian, văn học Việt
Nam trung đại, cận đại, hiện đại), và văn học Thế giới (Văn học Trung Quốc,
Ấn Độ, Phương Tây). Các kiến thức về tiếng Việt, Tập làm văn cũng không hề
đơn giản. Có rất nhiều văn bản mới được đưa thêm vào trong sách giáo khoa.
Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện chương trình giảm tải, lược bỏ đi
7


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

một số bài học hoặc đưa một số bài học chính vào phần đọc thêm. Song không
vì thế mà chương trình đã thật sự nhẹ nhàng.
Qua thực tế giảng dạy ở trường, bản thân nhận thấy rằng có rất nhiều
biểu hiện tâm lý chán học văn của học sinh, cụ thể là:

- Học sinh thờ ơ với Văn: Đa phần các em xem thường và không muốn
học Văn. Các em thường chỉ quan tâm đến các môn tự nhiên và phần lớn dành
thời gian cho các môn này. Và nếu có học thì đó cũng chỉ là đối phó, qua loa.
Mặt khác, chính vì môn văn có khối lượng kiến thức nhiều và khó, tâm lí thực
dụng nặng nề nên nhiều em học sinh thấy học văn là một công việc nặng nhọc,
mệt mỏi, khó khăn! Đôi khi giờ học văn đối với các em thật vất vả…
- Khả năng trình bày: Khi học sinh tạo lập một văn bản giáo viên có thể
dễ dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai,
viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có
những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa, lủng củng ...Đây là một tình trạng
đã trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong bậc học THCS.
Điều đó, một phần thể hiện rõ qua kết quả khảo sát đầu năm học 20132014:
Lớp



dạy

số

Dự
khảo

Giỏi
SL

sát
9B 36 35
4
*Nguyên nhân:


Khá

TB

Yếu

Kém

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

11.4

7


20

9

25.7

9

25.7

6

17.2

- Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận
tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn
những mặt hạn chế sau:
+ Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không
nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.

8


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

+ Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương
pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của
học sinh.

+ Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được
mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
- Đối với học sinh:
+ Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên
không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn.
+ Địa phương xã Ba Cung và một phần học sinh thị trấn Ba Tơ, kinh tế
còn khó khăn, hầu hết phụ huynh đều đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm
cặp con em mình. Bản thân các em còn phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên
lớp, ít dành thời gian cho việc tự học ở nhà.
+ Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí
như xem ti vi, chơi game, sử dụng các trò chơi từ điện thoại di động, . . . ngày
càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn dẫn đến sao
nhãng việc học tập.
IV. Giải pháp sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học tích cực ở bộ
môn Ngữ văn Trung học cơ sở
IV.1. Bản chất phương pháp dạy học bằng BĐTD:
BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người học
chuyển tải thông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ
dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng, đào sâu
và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu rộng.
Sử dụng bản đồ tư duy giúp người học có được:
1. Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để hình dung về kiến thức
cần nhớ.

9


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015


2. Sự liên tưởng, tưởng tượng: BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý
tưởng một cách rất rõ ràng.
3. Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, khi thể
được thể hiện trên màn hình máy chiếu, hay được vẽ ra giấy, BĐTD cho phép
giáo viên và học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử dụng
những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. Hơn nữa, việc BĐTD dùng rất nhiều
màu sắc khiến giáo viên và học sinh phải vận dụng trí tưởng tượng sáng tạo đầy
phong phú của mình. Nhưng đây không chỉ là một bức tranh đầy màu sắc sặc sỡ
thông thường, BĐTD giúp tạo ra một bức tranh mang tính lý luận, liên kết chặt
chẽ về những gì được học.
IV.2. Yêu cầu đối với giáo viên và học sinh
1. Đối với giáo viên
Để vận dụng phương pháp dạy học thông qua BĐTD, người dạy cần:
- Biết cách sử dụng phần mềm Imindmap (phần mềm vẽ BĐTD trên máy
tính):
+ Tải và cài đặt phần mềm Imindmap vào máy tính (bằng cách vào trang
web www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap có thể tải về
bản miễn phí ConceptDraw MINDMAP 5 Professional hoặc từ địa chỉ web:
www.mind-map.com - trang web chính thức của Tony Buzan).
+ Tham khảo tài liệu, video clip về cách sử dụng Imindmap.
+ Liên kết, thực hiện trình chiếu qua PowerPoint.
- Khái quát hóa kiến thức bài học thông qua sơ đồ (phát thảo trên giấy).
Lưu ý: việc sử dụng BĐTD không phải bài học, đơn vị kiến thức nào cũng tùy
tiện sử dụng, dễ gây ra hiện tượng nhàm chán. BĐTD không được sử dụng khi
lượng kiến thức cần hệ thống quá đơn giản (chẳng hạn vấn đề chỉ có 2 ý - 2
nhánh kiến thức) hoặc quá dài dòng, rờm rà.
- Hướng dẫn HS khái quát hóa kiến thức bằng BĐTD (bài mới, hệ thống
kiến thức đã học) khi được gọi lên bảng, hay thực hiện trên giấy, hoặc thực hiện
trước ở nhà.
10



SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

2. Đối với học sinh
Biết cách vẽ, thiết kế BĐTD, thể hiện ý tưởng, trang trí thêm sinh động.
IV.3. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học tích cực ở bộ môn
Ngữ văn
1. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp
- Hoạt động 1: Cho HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi
ý của giáo viên (qua một chủ đề, từ khóa cho trước).
- Hoạt động 2: HS hoặc đại diện các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết
trình về BĐTD mà nhóm đã thiết lập.
- Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện, chia sẻ
kinh nghiệm. Giáo viên đóng vai trò cố vấn, định hướng, dẫn dắt HS thực hiện.
- Hoạt động 4: Củng cố, tiểu kết (hay tổng kết) lại nội dung vấn đề bằng
một BĐTD đã chuẩn bị sẵn (trình chiếu hoặc qua đồ dùng trực quan khác).
2. Sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học:
Trong quá trình dạy học, tùy vào đơn vị kiến thức bài học, tùy vào điều
kiện không gian, thời gian hay phương tiện, người giáo viên có thể sử dụng
BĐTD để: dạy kiến thức bài mới; củng cố, hệ thống hóa kiến thức cuối mỗi bài
học hay cuối chương, cuối kỳ, hoặc có thể dùng để ra đề kiểm tra (kiểm tra
miệng, kiểm tra viết từ 15 phút trở lên), hay dùng trong tiết ngoại khóa,….
Nhưng cơ bản đều có cách tiến hành giống nhau, đó là: giáo viên đưa ra một
vấn đề (từ khóa) và yêu cầu học sinh vẽ hệ thống kiến thức liên quan, chẳng hạn
như:
- Khi dạy bài Từ và cấu tạo của từ tiếng Việt (Tiết 3, Ngữ văn lớp 6), giáo
viên cho từ khóa “Từ (xét về mặt cấu tạo)” gồm có những loại nào? Em hãy vẽ
BĐTD giới thiệu chi tiết về chúng.

- Khi dạy bài Đức tính giản dị của Bác Hồ (Tiết 93, Ngữ văn lớp 7), giáo
viên cho từ khóa “Đức tính giản dị của Bác Hồ” và yêu cầu học sinh vẽ BĐTD
chi tiết về đức tính giản dị của Bác Hồ thể hiện qua những phương diện nào
trong văn bản.
11


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

- Khi dạy bài Ôn tập truyện kí Việt Nam (Tiết 38, Ngữ văn lớp 8), giáo
viên cho từ khóa “Truyện kí Việt Nam” và yêu cầu học sinh vẽ BĐTD: kể tên
các truyện kí đã học, khái quát về nội dung, nghệ thuật chủ yếu của mỗi tác
phẩm.
- Để dạy tốt bài Luyện tập sự phát triển của từ vựng (Tiết 25, Ngữ văn
lớp 9), giáo viên có thể cho từ khóa “Các cách phát triển của từ vựng tiếng
Việt”, yêu cầu học sinh vẽ BĐTD cụ thể về các cách ấy.
Như vậy, rõ ràng có rất nhiều đơn vị bài học, giáo viên có thể sử dụng
phương pháp BĐTD để cung cấp kiến thức mới, hoặc củng cố lại kiến thức cho
học sinh, và điều quan trọng là giáo viên biết cách đặt vấn đề, dẫn dắt, hướng
dẫn để học sinh phát huy khả năng sáng tạo, tư duy lo-gic của mình trong quá
trình chủ động chiếm lĩnh tri thức.
Sau đây là một số cách sử dụng BĐTD đã thực hiện hiệu quả:
a. Sử dụng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu
kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi
ý cho các em để các em tìm ra kiến thức liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện
BĐTD. Qua BĐTD đó học sinh sẽ ghi nhớ kiến thức bài học một cách dễ dàng.
*Ví dụ: Với văn bản: Thầy bói xem voi (Tiết 40, Ngữ văn lớp 6), sau
phần đọc và tìm hiểu chung, giáo viên ghi từ khóa “Thầy bói xem voi” (có một
số từ khóa có thể là tên văn bản) lên trung tâm bảng đen (có thể minh họa bằng

hình ảnh vui nhộn, nếu giáo viên có khiếu vẽ), sau đó giáo viên đặt câu hỏi dẫn
dắt học sinh cùng tìm hiểu, khám phá kiến thức mới:
- Câu hỏi tạo nhánh cấp 1 thứ nhất: Năm ông thầy bói xem voi trong hoàn
cảnh như thế nào? (lúc này, giáo viên vẽ lên bảng nhánh cấp 1 thứ nhất từ
“Hoàn cảnh”), sau khi học sinh trả lời, cùng thống nhất vấn đề, giáo viên vẽ các
nhánh cấp 2 sinh ra từ nhánh cấp 1 thứ nhất để minh họa cho “hoàn cảnh xem
voi của những ông thầy bói”, cụ thể có 3 nhánh cấp 2 (phát sinh từ nhánh cấp 1
thứ nhất) như sau: ế hàng, chưa biết hình thù voi, các thầy mù mắt.

12


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

- Tương tự, giáo viên đặt hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh tìm hiểu đến
nhánh cấp 1 thứ 5 và các ý minh họa cho các nhánh cấp 1 này, kiến thức tương
ứng với mỗi nhánh như sau:
+ Nhánh cấp 1 thứ 2: “Cách xem”, có các nhánh cấp 2 thể hiện những ý
sau: sờ bằng tay; xem một bộ phận.
+ Nhánh cấp 1 thứ 3: “Phán về voi”, có các nhánh cấp 2 thể hiện những ý
sau: như con đĩa; như cái đòn càn; như cái quạt thóc; như cái cột đình; như cái
chổi sể.
+ Nhánh cấp 1 thứ 4: “Kết quả”, có các nhánh cấp 2 thể hiện những ý
sau: không ai chịu ai; xô xát, đánh nhau.
+ Nhánh cấp 1 thứ 5: “Bài học”, có các nhánh cấp 2 thể hiện những ý sau:
chế giễu, phê phán; xem xét đánh giá.
(Nội dung các nhánh được vẽ, nêu ngắn gọn, trong quá trình giảng dạy,
giáo viên giải thích rõ ràng để học sinh hiểu).
Sơ đồ minh hoạ, thông qua Imind Map (Nếu giáo viên sử dụng phương

tiện trình chiếu – mỗi lần kích chuột sẽ làm xuất hiện một nhánh mang nội dung
kiến thức đã soạn sẵn):

Mô hình Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi – Tiết 40, Ngữ văn 6

Hình 1- Bản đồ tư duy: Thầy bói xem voi
b. Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến
thức sau mỗi phần (bài ôn tập- thường ở chương trình lớp 9):
13


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến
thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Giáo viên
có thể hướng dẫn cho học sinh vẽ vào vở sau mỗi bài học (hay phần, chương),
hoặc có thể vẽ vào một quyển tập riêng hay vẽ từng bản rời, sau đó kẹp (đóng)
thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một
cách nhanh chóng, dễ dàng và có hệ thống.
Ví dụ 1: Trước khi dạy bài Tổng kết từ vựng (Tiết 50, Ngữ văn lớp 9),
giáo viên có thể yêu cầu học sinh vẽ BĐTD khái quát hóa lại hệ thống kiến thức
theo yêu cầu của bài ôn tập này.
Như vậy, BĐTD của học sinh khi vẽ phải đáp ứng nội dung như sau: phải
vẽ đầy đủ 5 nhánh cấp 1, tương ứng với 5 đơn vị kiến thức, trong mỗi nhánh cấp
1 có các nhánh cấp 2 với lượng kiến thức tương ứng. Sơ đồ vẽ minh họa như
sau:

Hình 2-Bản đồ tư duy: Tổng kết từ vựng
*Ví dụ 2: Sau khi dạy xong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du (Tiết 26,

Ngữ văn lớp 9), giáo viên yêu cầu học sinh về nhà vẽ lại BĐTD hệ thống kiến
thức lại đã học (hoặc có thể tổ chức vào cuối giờ học để giáo viên củng cố tiết
14


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

học). Đối với bài học này, có hai nội dung lớn: về tác giả Nguyễn Du và về tác
phẩm Truyện Kiều. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh vẽ 2 BĐTD riêng biệt về
2 nội dung trên, hoặc các em có vẽ gọp thành 1 BĐTD (yêu cầu khổ gấy vẽ phải
lớn, cỡ từ khổ A4 trở lên).
Hình vẽ minh họa như sau:

Hình 3-Bản đồ tư duy: Truyện Kiều
c. Sử dụng BĐTD trong kiểm tra
Phương pháp dạy học thông qua BĐTD còn có thể sử dụng trong kiểm
tra: kiểm tra bài cũ, kiểm tra từ 15 phút trở lên nhằm tăng cường việc rèn luyện
thói quen tư duy lô-gic, tư duy hệ thống góp phần phát triển năng lực tư duy
15


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

sáng tạo của học sinh. Riêng đối với kiểm tra bài cũ, có thể phải mất nhiều thời
gian, cách này ít sử dụng. Đối với việc kiểm tra thông qua bài làm trên giấy,
giáo viên vẫn thực hiện theo cách: cho “từ khóa” và yêu cầu học sinh vẽ BĐTD
về nội dung kiến thức liên quan đến “từ khóa” đã cho.
Lưu ý, việc kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ BĐTD chỉ là một

hình thức kiểm tra nhằm giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất
lí thuyết. Do đó, giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống,
xâu chuỗi, những kiến thức mà học sinh có thể dễ dàng hệ thống bằng BĐTD.
Ví dụ: lập BĐTD về Từ loại (xét về cấu tạo từ, xét về ngữ pháp), về các phương
châm hội thoại, về nghĩa của từ… trong phân môn Tiếng Việt; lập BĐTD về hệ
thống luận điểm, luận cứ trong một văn bản nghị luận, về dàn ý của một kiểu
văn bản nào đó… trong phân môn Tập làm văn; hay lập BĐTD để khái quát hóa
kiến thức về tác giả, tác phẩm nào đó, về quá trình phát triển, diễn biến tâm lí
nhân vật, … trong phân môn Văn bản. Mặt khác, yêu cầu “từ khóa” giáo viên
đưa ra phải ngắn gọn, cụ thể, dễ hiểu.
Một số ví dụ:
* Ví dụ 1: Cho từ khóa Truyện Kiều. Em hãy vẽ bản đồ tư duy giới thiệu
nguồn gốc, thể loại và giá trị “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

16


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

Hình 4- Bản đồ tư duy: Truyện Kiều
* Ví dụ 2: Bài thơ “Viếng lăng Bác” ghi lại diễn biến tâm trạng cảm xúc
của nhà thơ Viễn Phương theo trình tự không gian và thời gian của chuyến ra
thăm lăng Bác Hồ. Với cụm từ khóa “Viếng lăng Bác”, em hãy lập bản đồ tư
duy ghi lại diễn biến tâm trạng cảm xúc ấy của tác giả qua mỗi khổ thơ.

Hình 5- Bản đồ tư duy: Văn bản Viếng lăng Bác

17



SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

*Ví dụ 3: Có mấy cách phát triển của từ vựng? Em hãy lập bản đồ tư duy
minh họa với cụm từ khóa sau: “Sự phát triển của từ vựng”

Hình 6- Bản đồ tư duy: Sự phát triển của từ vựng
*Ví dụ 4: Em hãy lập bản đồ tư duy trình bày những hiểu biết của em về
nhà thơ Nguyễn Du (Tên hiệu, xuất thân, thời đại, cuộc đời, sự nghiệp văn
học?)

Hình 7- Bản đồ tư duy: Nhà thơ Nguyễn Du
18


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

* Lưu ý:
- Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập bản
đồ tư duy ở khâu kiểm tra bài cũ và kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết) hoán đổi cho
nhau đều được.
- Đối với kiểm tra miệng, 15 phút ta lấy thang điểm 10; còn đối với kiểm
tra 1 tiết thì tùy theo mức độ của từng câu hỏi, ta có thể cho từ 2-3 điểm. (xem
như câu hỏi yêu cầu lập bản đồ tư duy là một phần trong đề kiểm tra)
IV.4. Kết quả nghiên cứu
Qua thời gian thực tế công tác và tham khảo kết quả giảng dạy của quý
đồng nghiệp, việc áp dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học bước đầu
đã nhận được những kết quả khả quan.

Đối với người dạy, giúp rèn luyện thành thạo kỹ năng sử dụng BĐTD
một cách hiệu quả trong hầu hết các khâu lên lớp, từ việc kiểm tra bài cũ, dạy
bài mới cho đến các bài mang tính khái quát, ôn tập, hệ thống hóa kiến thức.
Với học sinh, qua tìm hiểu, bản thân và quý đồng nghiệp nhận thấy: đa số
các em biết cách sử dụng BĐTD để ghi chép bài học, tổng hợp kiến thức môn
học, vận dụng thành thạo các thao tác trong việc hệ thống kiến thức đã học, giúp
học sinh có được phương pháp học hiệu quả, ý thức học tập tích cực.
Việc sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học còn giúp học sinh:
1. Tăng cường sự hứng thú trong học tập.
2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của học sinh.
3. Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
5. Ghi nhớ tốt hơn.
6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
Tóm lại, với những ưu điểm của mình, BĐTD trở thành một công cụ gợi
mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Việc sử dụng BĐTD
trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ động, tích cực và huy
19


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

động tất cả học sinh cùng tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học
này còn phát triển được năng lực riêng của từng em không chỉ về trí tuệ, hệ
thống hóa kiến thức, khả năng hội họa, sự vận dụng kiến thức được học qua
sách vở vào cuộc sống. BĐTD còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong
hoạt động nhóm. Mỗi thành viên đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng
thuyết trình và làm việc khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp
dạy học khác như: dạy học nhóm,vấn đáp, gợi mở, thuyết trình, đặt vấn đề,… có

khả thi cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
Việc áp dụng BĐTD trong dạy học đã góp phần nâng cao chất lượng dạy
học môn Ngữ văn, thể hiện ở kết quả khảo sát sau khi triển khai đề tài:
Lớp



dạy

số

9B

36

Dự
khảo

Giỏi

Khá

SL

%

SL

9


25

10

TB

%

SL

Yếu
%

Kém

SL

%

SL

%

3

8.3

0

0


sát
36

27.
8

14 38.9

Đồng thời góp phần nâng cao kết quả tham gia bồi dưỡng thi học sinh
giỏi lớp 9 các cấp:
Năm
học
20122013
20132014

Tham
gia dự

Cấp trường

Cấp huyện

Nhất

Nhì

Ba

KK


15

2

7

4

2

15

2

7

4

2

Nhất

Nhì

Ba

KK

4


4

5

5

2

3

thi

PHẦN III: KẾT LUẬN
20

2


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

I. Ý nghĩa sáng kiến kinh nghiệm
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 29 -NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa XI, được cụ thể qua
Chương trình hành động số 39-CTr/HU ngày 25/2/2014 của Huyện ủy Ba Tơ,
Kế hoạch số 20/KH-UBND ngày 19/3/2014 của UBND huyện Ba Tơ “Về đổi
mới toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế”, trong đó có nội dung “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo

dục, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và hiệu quả giáo dục,
đào tạo.”, thì việc áp dụng phương pháp BĐTD vào dạy học tích cực một cách
rộng rãi, thường xuyên là một việc làm cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng,
giữ chuẩn phổ cập giáo dục, góp phần thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Sau một thời gian ứng dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp
dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi
thấy bước đầu có những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích
cực của ứng dụng bản đồ tư duy trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học.
Biết sử dụng bản đồ tư duy để dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp
kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các
em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng bản đồ tư duy để ghi chép bài, tổng hợp
kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng bản đồ tư duy để
củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất
hào hứng trong việc ứng dụng bản đồ tư duy để ghi chép bài nhanh, hiệu quả,
đặc biệt là trong học tiếng Việt.
Như vậy, qua kết quả giảng dạy trên tôi nhận thấy rằng những giải pháp
tôi đưa ra trong đề tài hoàn toàn có thể thực hiện được đối với học sinh trường ở
các xã khó khăn khác trong huyện. Kết quả thực nghiệm cho thấy học sinh có sự
hào hứng với giờ học, gắn bài học với thực tiễn nhanh và hiệu quả. Giờ học trở
21


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015

nên sôi nổi hơn, tạo tâm lý nhẹ nhàng thoải mái cho học sinh ở những tiết học
sau.
Hơn nữa, thực tế cho thấy BĐTD không chỉ áp dụng cho riêng môn Ngữ
văn mà có thể sử dụng ở tất cả các môn học khác, tích hợp với môn Mỹ thuật,

không chỉ trong việc học chính khóa mà có thể trong các buổi ngoại khóa, các
bài thu hoạch chuyên đề, không những vậy BĐTD có thể áp dụng trong công
tác quản lý của nhà trường (cấp tổ, khối, Ban Giám hiệu) trong việc lập kế
hoạch công tác, quản lý thực hiện tốt các khâu: lập kế hoạch – chỉ đạo tổ chức
thực hiện – kiểm tra giám sát – đánh giá kết quả thực hiện (tháng, kỳ, năm).
Ngoài ra, sử dụng BĐTD có tính khả thi cao, không chỉ thực hiện ở các
đơn vị trường học có điều kiện về công nghệ thông tin, hay giáo viên thực sự
thành thạo về vi tính mới sử dụng được mà ta có thể vận dụng được với bất kì
điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì
người thiết kế (giáo viên, học sinh) có thể thực hiện BĐTD trên giấy, bìa, tờ lịch
cũ (lịch treo tường), bảng phụ, trong giờ học thực hiện trực tiếp trên bảng thông
qua phấn màu,...
II. Một số kiến nghị, đề xuất
1. Đối với giáo viên
- Không ngừng học hỏi, bồi dưỡng thường xuyên bồi dưỡng, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường dự giờ đồng nghiệp, mạnh dạn đổi mới
phương pháp dạy học, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
- Nghiên cứu kỹ tài liệu liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng BĐTD và
phần mềm vẽ BĐTD Mind Map (của Tony Buzan) để có những kiến thức cơ
bản về nó (Hiểu biết về BĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập,
thiết kế, sử dụng trong quá trình dạy học,…), đồng thời, giáo viên cần đầu tư
thời gian vào việc tập vẽ (trên giấy, trên máy tính).
- Trong khi sử dụng BĐTD, giáo viên cần cân nhắc sử dụng ở những đơn
vị kiến thức phù hợp, từ ngữ chọn lọc, ngắn gọn, hàm súc, giàu hình ảnh.
- Hướng dẫn học sinh nắm rõ các bước thiết kế một BĐTD.
22


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015


2. Đối với học sinh
- Tích cực tham gia học tập, thể hiện tinh thần phối hợp thực hiện, năng
động, sáng tạo.
- Phát huy tính tự học, tư duy lo–gic, đức tính khiêm tốn.
- Nắm rõ quy trình thực hiện một BĐTD.
3. Đối với cấp quản lý
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, dạy học
nâng cao chất lượng giáo dục.
- Tăng cường thực hiện công tác kiểm tra nội bộ trường học, dự giờ giáo
viên, tổ chức các buổi sinh hoạt, hội thảo chuyên đề về ứng dụng BĐTD trong
công tác dạy học, công tác quản lý.
Trên đây là nội dung sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng bản đồ tư duy
trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn Trung học cơ sở, mà bản thân đã
từng sử dụng hiệu quả. Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong sự góp ý của quý cấp quản lý và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Thị trấn Ba Tơ, ngày 24 tháng 10 năm 2014
Người thực hiện

Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu SGK, SGV Ngữ văn THCS.
2. Phim tài liệu khoa học giáo dục “Bản đồ tư duy - hành trình kết nối” nói về
hiệu ứng tích cực của Phương pháp dạy học bằng Bản đồ tư duy do TS. Trần
Đình Châu và Nhà giáo Ưu tú-TS. Đặng Thị Thu Thủy nghiên cứu trên cơ sở
23


SKKN “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học tích cực ở bộ môn Ngữ văn THCS”
Năm học 2014 – 2015


tiếp thu phát triển ý tưởng tiên tiến của quốc tế và kinh nghiệm giáo dục trong
nước (đạo diễn: NSND Nguyễn Thước, tại Liên hoan phim tài liệu Âu – Việt
lần 5).
3. Tài liệu tập huấn chuyên môn về đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học do Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức.
4.Tài liệu: Nghị quyết số 29 -NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa XI, được cụ thể qua Chương trình hành
động số 39-CTr/HU ngày 25/2/2014 của Huyện ủy Ba Tơ, Kế hoạch số 20/KHUBND ngày 19/3/2014 của UBND huyện Ba Tơ “Về đổi mới toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

24



×