Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

giải quyết tranh chấp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.6 KB, 37 trang )

ĐỀ TÀI BÀI TẬP CÁ NHÂN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

Tên đề tài:

LIÊN HỢP QUỐC VỚI VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUỐC TẾ


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU………………………………………………………………..
1. Tính cấp thiết của đề tài:………………………………………………....
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài:…………………………………….…….
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:………………………………….……
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:……………………………....
5. Những đóng góp của đề tài:………………………….…………………..
6. Kết cấu của đề tài:……………………….……………………………….
B. NỘI DUNG……………….……………………………………………..
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUỐC TẾ:…………..……………………………..………………………..
1.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế:…………….……………….
1.1.1. Nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế:…….……..
1.1.2 Mối quan hệ giữa nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp
quốc tế với các nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế…….………..
1.2. Các phương pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế:….….………
1.2.1. Giải quyết trực tiếp tranh chấp:…………………….………………
1.2.2. Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba:……………………….
1.2.3. Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế:………
1.2.4. Giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan tài phán:…………….
CHƯƠNG 2. LIÊN HỢP QUỐC VỚI VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT CÁC
TRANH CHẤP QUỐC TẾ……….………………………………………...


2.1. Khái quát các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc về giải
quyết tranh chấp:…….……………………………………………………...
2.2. Giải quyết tranh chấp trong các cơ quan của Liên hợp quốc:…….……
2.2.1. Đại hội đồng Liên hợp quốc với việc giải quyết tranh chấp:……....
2.2.2. Hội đồng bảo an Liên hợp quốc với việc giải quyết tranh chấp:.......


2.2.3. Ban thư ký Liên hợp quốc với việc giải quyết tranh chấp:….….…..
2.2.4. Tòa án công lý Liên hợp quốc với việc giải quyết tranh chấp:….….
CHƯƠNG 3: VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH
CHẤP QUỐC TẾ…………….……………………………………………..
3.1. Quan điểm của Việt Nam về giải quyết các tranh chấp quốc tế………..
3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả giải quyết tranh chấp
quốc tế tại Việt Nam:………….…………………………………………….
3.3. Thực tiễn một số tranh chấp quốc tế của Việt Nam:………….………..
3.3.1. Tranh chấp trong phân định Vịnh Bắc Bộ:……….……….………..
3.3.2. Tranh chấp về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa:………..…
C. KẾT LUẬN:….…………………………………………………………
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:…….……………………….


A. MỞ ĐẦU.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Vấn đề giải quyết các tranh chấp quốc tế được ghi nhận trong Tuyên bố
về các nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị và hợp
tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc được Đại
hội đồng thông qua theo Nghị quyết số 2625 năm 1970. Các nước thành
viên Liên hợp quốc đều tuân theo nguyên tắc này để giải quyết các bất
đồng, xung đột hay tranh chấp có tính chất quốc tế. Tuy nhiên, trong thực
tiễn có nhiều trường hợp việc áp dụng các biện pháp để giải quyết các

tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia chưa được thật sự bình đẳng, chưa đạt
được sự nhất trí, bởi không ít trường hợp việc giải quyết các tranh chấp
dẫn đến việc ký kết các hiệp định ngừng bắn hoặc ký hiệp định hòa bình
một phần do sự thu xếp của một số thế lực quốc tế, khiến cho một bên hoặc
các bên tham gia tranh chấp đều phải chịu tổn thất hay không công bằng.
Ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hợp tác giữa các quốc gia ngày
càng mở rộng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến những
tranh chấp quốc tế. Để bảo đảm được lợi ích của các bên tranh chấp nói
riêng mà không làm phương hại đến hòa bình, an ninh quốc tế nói chung,
Hiến chương Liên hợp quốc đã liệt kê rất nhiều những biện pháp để tạo cơ
hội cho các chủ thể liên quan tự lựa chọn trong quá trình giải quyết tranh
chấp quốc tế. Vậy những phương thức giải quyết tranh chấp được ghi nhận
như thế nào trong luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, cũng
như cơ chế giải quyết tranh chấp trong pháo luật Việt Nam. Quan tâm đến
vấn đề này em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Liên hợp quốc với vấn đề giải
quyết tranh chấp quốc tế” làm đề tài bài tập cuối kỳ.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.


- Mục đích của đề tài:
+ Tìm hiểu về các phương thức trong việc giải quyết các tranh chấp
giữa các chủ thể luật quốc tế.
+ Tìm hiểu thẩm quyền, chức năng giải quyết các tranh chấp quốc tế
của các cơ quan Liên hợp quốc theo quy định của Hiến chương, hiểu rõ hơn
vị trí, vai trò của từng cơ quan trong quá trình giải quyết tranh chấp nhằm
thực hiện mục đích duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
+ Bước đầu tìm hiểu những quan điểm, đường lối của Chính phủ Việt
Nam trong vấn đề giải quyết tranh chấp quốc tế.
- Nhiệm vụ của đề tài: Để thực hiện các mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài
là:

+ Phân tích cơ sở lý luận về nguyên tắc giải quyết các tranh chấp
quốc tế được ghi nhận trong Tuyên bố Hiến chương Liên hợp quốc. Trong
đó tập trung đi vào nghiên cứu nguyên tắc hòa bình, các phương thức giải
quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình. Cũng như tìm hiểu mối quan
hệ giữa nguyên tắc hòa bình với các nguyên tắc cơ bản khác của Luật quốc
tế.
+ Phân tích các quy định về tổ chức và hoạt động, thực thi quyền lực
thẩm quyền, chức năng giải quyết các tranh chấp quốc tế của các cơ quan
Liên hợp quốc theo quy định của Hiến chương, hiểu rõ hơn vị trí, vai trò
của từng cơ quan trong quá trình giải quyết tranh chấp nhằm thực hiện mục
đích duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
+ Phân tích quan điểm của Đảng ta về các đường lối, chính sách
trong trong vấn đề giải quyết tranh chấp quốc tế. Thông qua đánh giá
khách quan về thực tiển giải quyết các tranh chấp quốc tế. Đề xuất và luận
chứng quan điểm, ý kiến, giải pháp, định hướng xây dựng các nguyên tắc
giải quyết các tranh chấp phù hợp


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiển về nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế trong khuôn
khổ các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc nhằm hoàn thiện các tư
tưởng chỉ đạo, mang tính định hướng trong quá trình giải quyết các tranh
chấp; cũng như thấy được vị trí, vai trò, quyền hạn của các cơ quan chuyên
môn của Liên hợp quốc trong giải quyết trng chấp quốc tế bằng hòa bình.
Từ đó, liên hệ với pháp luật Việt Nam, đánh giá thực trạng, và đề xuất giải
pháp.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các quy phạm pháp luật Quốc tế
và Việt Nam trực tiếp điều chỉnh việc giải quyết các tranh chấp quốc tế, cụ
thể là chú trọng đến nội dung lựa chọn, vận dụng nguyên tắc hòa bình.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của các quy định
trong pháp luật Quốc tế được quy định cụ thể trong Hiến chương của Liên
hợp quốc và các quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
cách thức giải quyết các tranh chấp quốc tế. Bên cạnh đó, đề tài cũng tiếp
cận những kết quả nghiên cứu khoa học pháp lý ở nước ngoài.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các
phương pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin, trong đó chú trọng các
phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch
sử và cụ thể. Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng một số phương pháp của các bộ
môn khoa học khác như luật học so sánh, xã hội học, lý thuyết hệ thống.
5. Những đóng góp và nghĩa của đề tài.


- Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về nguyên tắc chỉ đạo trong giải quyết
tranh chấp bằng con đường hòa bình trong quan hệ quốc tế hiện nay.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật nước ta về các quan điểm chỉ đạo của
Đảng, chính sách đối ngoại của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước
ta.
- Những kết quả của đề tài sẽ hi vọng sẽ góp một cái nhìn toàn diện, khách
quan về cách thức giải quyết tranh chấp quốc tế, chú trọng nguyên tắc hòa
bình, thỏa thuận giữa các quốc gia, tránh xung đột, giữ vững tình hình an
ninh khu vực và trên thế giới.
6. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần Mục lục, phần Mở đầu, và Kết luận, nội dung của đề tài được
bố cục thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương I. Lý luận chung về giải quyết tranh chấp quốc tế
Chương II. Liên hợp quốc với vấn đề giải quyết tranh chấp quốc tế.
Chương III. Việt Nam với vấn đề giải quyết tranh chấp quốc tế



CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUỐC TẾ
1.1 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế.
Hiện nay, hợp tác cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ là xu hướng tất yếu mà các quốc gia lựa chọn.
Nhưng sự gia tăng quan hệ hợp tác quốc tế lại tiềm ẩn nguy cơ nảy sinh
mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình chủ thể thiết lập các mối quan hệ hợp
tác quốc tế, thậm chí số lượng tranh chấp thường tỷ lệ thuận với tốc độ
phát triển của quan hệ quốc tế. Do đó, để các cuộc tranh chấp không diễn
biến theo chiều hướng xấu hơn gây ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh thế
giới, luật quốc tế và Khoản 3 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc đã ghi
nhận hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là nguyên tắc bắt buộc
chung đối với tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế.
1.1.1 Nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế
Việc sử dụng một số biện pháp hòa bình như ngoại giao, đàm phán,
trung gian, hòa giải…để giải quyết các tranh chấp nói chung và tranh chấp
quốc tế nói riêng đã được biết đến từ rất sớm trong quan hệ quốc tế.
Năm 1945 Hiến chương Liên hợp quốc ra đời đã trịnh trọng tuyên bố
“Tất cả các thành viên của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế
của họ bằng biện pháp hòa bình, sao cho không tổn hại đến hòa bình, an
ninh quốc tế và công lý”, khẳng định giải quyết các tranh chấp quốc tế là
một nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia.
Nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế nghiêm cấm các
quốc gia sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp với nhau, một mặt
xác lập nghĩa vụ của các bên trong tranh chấp giải quyết bằng các biện
pháp hòa bình, mặt khác cũng quy định các bên tham gia vào tranh chấp có
quyền lựa chọn các biện pháp hòa bình thích hợp để giải quyết. Pháp luật



quốc tế không quy định một công thức giải quyết bắt buộc, cứng nhắc cho
mỗi loại hình tranh chấp nhất định, việc sử dụng một phương thức cụ thể
nào hoàn toàn do các bên liên quan thỏa thuận lựa chọn, chỉ với điều kiện
đó phải là những biện pháp hòa bình. Tại Điều 33 Khoản 2 Hiến chương
Liên hợp quốc đã quy định cụ thể các biện pháp hòa bình mà các bên tranh
chấp có thể lựa chọn như: đàm phán, trung gian, hòa giải, trọng tài, bằng
con đường tư pháp, sử dụng những cơ quan hoặc những hiệp định khu vực,
hay các biện pháp hòa bình khác do họ lựa chọn. Hòa bình giải quyết tranh
chấp quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi quốc gia, cần phải nỗ lực
giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và công bằng nhằm duy trì
hòa bình và an ninh quốc tế. Thực tiễn cho thấy, phương pháp đàm phán là
phương pháp thường được các quốc gia sử dụng để giải quyết các tranh
chấp hoặc bất đồng, đây là phương pháp tốt để giải quyết nhanh chóng
tranh chấp quốc tế, bảo đảm quyền bình đẳng của các bên, dễ đi đến thỏa
thuận nhượng bộ lẫn nhau. Ngoài ra, biện pháp thông qua tổ chức quốc tế,
tổ chức khu vực để giải quyết tranh chấp cũng được cộng đồng quốc tế
quan tâm trong những năm gần đây như WTO, EU, ASEAN.
Hành vi tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế sẽ làm hạn
chế đáng kể sự xuất hiện của những tranh chấp. Mặt khác, điều này cũng
góp phần giải quyết nhanh chóng, hiệu quả tranh chấp nếu chúng nảy sinh
trong đời sống quốc tế. Việc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa
bình chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng góp phần ổn định quan
hệ quốc tế, duy trì và bảo vệ hòa bình, an ninh thế giới, tạo điều kiện cho
quan hệ quốc tế phát triển.
1.1.2 Mối quan hệ giữa nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp
quốc tế với các nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế.
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có giá trị bắt buộc chung,
chúng thực hiện hai chức năng quan trọng là ổn định quan hệ quốc tế và ấn



định khuôn khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hệ quốc tế, qua đó tạo
điều kiện cho quan hệ quốc tế phát triển.
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có mối quan hệ qua lại với nhau
trong một chỉnh thể thống nhất, chỉ khi tồn tại trong sự tác động qua lại
chúng mới có khả năng hoàn thành các chức năng của mình. Vì thế khi giải
thích và áp dụng từng nguyên tắc, các chủ thể phải đối chiếu, so sánh và
xem xét nó trong mối quan hệ với tất cả các nguyên tắc khác, điều này đã
được khẳng định trong Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm
1970 về các nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị
và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, mọi
nguyên tắc đều phải nhằm mục đích đảm bảo cho việc gìn giữ hòa bình.
Giải quyết tranh chấp không chỉ tuân thủ đúng nguyên tắc giải quyết hòa
bình các tranh chấp quốc tế còn phải bảo đảm và phù hợp với tất cả các
nguyên tắc cơ bản khác theo quy định của Hiến chương và luật pháp quốc
tế, các bên không chỉ không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực mà
còn phải tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc
nội bộ của các quốc gia. Mặt khác, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế nói riêng và pháp luật quốc tế nói chung sẽ góp phần đáng kể hạn
chế các tranh chấp phát sinh.
Trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, nguyên
tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế có mối quan hệ đặc biệt với
nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, hai
nguyên tắc vẫn tồn tại song song như là hệ quả tất yếu của nhau vì giải
quyết hòa bình nghĩa là không được dùng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực, nhưng nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực
lại không loại trừ việc sử dụng vũ lực một cách hợp pháp hay nói cách
khác là nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực có
tồn tại những ngoại lệ được chấp nhận, ví dụ như khi một quốc gia tiến



hành quyền tự vệ hợp pháp, hoặc sử dụng các biện pháp vũ trang và phi vũ
trang của Hội đồng bảo an theo Điều 39, Điều 42 đến Điều 47 Hiến
chương Liên hợp quốc.
Tóm lại giữa các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế không có sự phân
chia theo nghĩa cao thấp mà chúng phụ thuộc nhau, tồn tại trong mối quan
hệ tác động qua lại, trong một chỉnh thể thống nhất. Mọi tranh chấp quốc tế
phải được tiến hành giải quyết trên cơ sở những cam kết không sử dụng vũ
lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tôn trọng độc lập, chủ quyền cũng như
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

1.2 Các phương pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
Luật quốc tế đã ghi nhận nhiều phương pháp hòa bình để giải quyết
các tranh chấp quốc tế, việc lựa chọn phương pháp nào, hay sự kết hợp các
phương pháp phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp, vào tính chất của
từng tranh chấp, xung đột và thiện chí giải quyết của các bên. Từ thực tiễn
giải quyết tranh chấp quốc tế có các phương thức giải quyết cơ bản sau:
• Giải quyết trực tiếp tranh chấp
• Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba
• Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế
• Giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan tài phán.
1.2.1 Giải quyết trực tiếp tranh chấp
Đây là phương thức được thực hiện thông qua việc đàm phán giữa các
bên tranh chấp để giải quyết những vấn đề mà các bên quan tâm. Đàm
phán có vị trí hết sức quan trọng và thường được các bên ưu tiên lựa chọn
áp dụng trong tiến trình tìm kiếm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp.
Khi tranh chấp xảy ra, các bên có thể gặp gỡ, trao đổi, thảo luận, thương
lượng, để tìm ra giải pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, tiến hành đàm
phán về bất cứ vấn đề gì mà các bên quan tâm.



Các cuộc đàm phán đều phải được tiến hành trên cơ sở bình đẳng, tôn
trọng, và thiện chí giải quyết tranh chấp, có tính đến sự nhượng bộ lẫn
nhau bởi một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là các bên tham
gia có những quan điểm trái ngược nhau dẫn đến những mâu thuẫn, bất
đồng không thỏa thuận được, chính vì vậy để giải quyết được vấn đề
không thể tránh khỏi cần có sự nhượng bộ nhất định nào đó từ các bên.
Về hình thức, đàm phán có thể được tiến hành ở hội nghị quốc tế hoặc
đàm phán thông qua trung gian. Đàm phán ở hội nghị được áp dụng đối
với tranh chấp hai bên hoặc nhiều bên, đàm phán ở hội nghị đảm bảo cho
các bên tham dự thể hiện được quan điểm của mình, đảm bảo quyền lợi
của các bên trực tiếp tham gia tranh chấp và các bên có lợi ích liên quan
khác. Hình thức này thường được các nước chưa đủ mạnh về tiềm lực quân
sự, kinh tế sử dụng để tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của các nước, các tổ
chức quốc tế và dư luận tiến bộ trên thế giới. Đàm phán thông qua trung
gian là việc các bên tham gia tranh chấp không trực tiếp trao đổi quan
điểm, lập trường, ý chí của mình mà thông qua trung gian, thường là Tổng
thư ký Liên hợp quốc hay đại diện đặc biệt của Liên hợp quốc cùng tham
dự
Đàm phán giúp các bên có thể nắm bắt được tâm lý và phản ứng của
nhau một cách trực tiếp, qua đó các bên có thể tác động đến quan điểm và
mong muốn của nhau bằng cách thức cụ thể để từ đó đi đến sự thống nhất
chung, tìm ra giải pháp dung hòa lợi ích của các bên, đẩy nhanh tiến độ
giải quyết tranh chấp, thúc đẩy sự phát triển của luật quốc tế thông qua
việc ký kết các hiệp định song phương và đa phương. Nhưng bên cạnh đó,
muốn đạt được kết quả thì khi tiến hành phương thức đàm phán đòi hỏi các
bên có một kế hoạch đàm phán linh hoạt trong giải quyết các tình huống,
đặc biệt trong các cuộc đàm phán đa phương tại các tổ chức quốc tế, hội
nghị quốc tế có nhiều đại diện tham dự. Đàm phán khó có thể sớm đạt



được kết quả, bị kéo dài về mặt thời gian vì những lý do như mâu thuẫn về
quyền, lợi ích, quan điểm của khối hay quan điểm của nhóm nước… Tuy
vẫn tồn tại hạn chế, nhưng có thể khẳng định đây là một trong những biện
pháp hữu hiệu và thông dụng nhất. Giải quyết tranh chấp bằng đàm phán
có thể giải quyết triệt để tranh chấp, duy trì được quan hệ hợp tác tốt đẹp
giữa các quốc gia, nhưng cũng có thể dừng lại ở sự thỏa thuận của các bên
mở ra khả năng áp dụng biện pháp hòa bình khác để giải quyết tranh chấp
như trung gian, hòa giải, lập ra các ủy ban điều tra, hay quyết định đưa
tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hoặc tòa án.
1.2.2 Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba
Khác với giải quyết trực tiếp tranh chấp, phương thức giải quyết thông
qua bên thứ ba ngoài các bên tranh chấp còn có sự tham gia của bên thứ ba
- bên không tham gia tranh chấp. Bên thứ ba có thể là: các quốc gia, tổ
chức quốc tế hay cá nhân nổi tiếng như Tổng thư ký Liên hợp quốc, các
nguyên thủ quốc gia, nhà ngoại giao quốc tế... bên thứ ba này sẽ tham gia
tích cực để dàn xếp các bên tranh chấp gặp gỡ, tiến hành đàm phán, nhưng
tùy vào từng giải pháp cụ thể mà mức độ tham dự vào tiến trình giải quyết
các tranh chấp của bên thứ ba cũng khác nhau. Giải quyết thông qua bên
thứ ba bao gồm các phương thức sau:
 Trung gian :

Trung gian là phương thức giải quyết tranh chấp mà ở đó, bên thứ ba
dàn xếp các bên tranh chấp gặp gỡ, ngồi vào bàn đàm phán và cùng tham
gia vào quá trình đàm phán với các bên tranh chấp với mục đích dung hòa
lợi ích các bên, đưa ra những giải pháp cụ thể khuyến nghị các bên áp dụng
nhưng trách nhiệm lựa chọn giải pháp cuối cùng thuộc về các bên tham gia
tranh chấp. Khi thực hiện vai trò trung gian, bên thứ ba phải tuân thủ
nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội
bộ của các bên tranh chấp.



Có thể thấy, trung gian là phương pháp quan trọng và hữu hiệu trong
việc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình, là mô hình
giải quyết các vấn đề mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn để giải quyết
tranh chấp trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
 Hòa giải
Cùng với trung gian, hòa giải được tiến hành với sự tham gia của bên
thứ ba. Với tư cách là bên thứ ba tham gia tích cực vào quá trình giải quyết
tranh chấp, bên hòa giải có phạm vi quyền hạn và nghĩa vụ rộng hơn, thể
hiện ở việc tham gia vào đàm phán từ đầu cho đến khi kết thúc, thậm chí
có thể điều khiển cả cuộc đàm phán, đưa ra kiến nghị hoặc đưa ra đề nghị
thay đổi yêu sách của các bên tranh chấp nhằm làm cho các bên xích lại
gần nhau hơn.
Nhiệm vụ của bên hòa giải là dung hòa yêu sách của các bên tranh chấp
và hòa giải giữa các bên, nhưng kiến nghị của họ cũng không có tính chất
bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Trong thực tế khác với bên trung gian,
vai trò của bên hòa giải thể hiện qua việc tham gia tích cực trong cuộc đàm
phán, có thể đưa ra các kiến nghị cùng cách giải quyết của mình và soạn
các dự thảo để các bên thảo luận chứ không thuần túy chỉ đứng ra như một
bên cùng tham dự đàm phán.
 Ủy ban điều tra và Ủy ban hòa giải

Ủy ban điều tra có nhiệm vụ xác định các yếu tố, sự kiện dẫn tới tranh
chấp. Ủy ban hòa giải có nhiệm vụ lớn hơn, xác định các yếu tố, sự kiện
dẫn tới tranh chấp đồng thời nêu ra giải pháp cho việc giải quyết tranh
chấp, nhưng giải pháp của Ủy ban hòa giải chỉ có tính chất khuyến nghị,
không có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Thực tiễn hoạt
động của Ủy ban điều tra không chỉ làm sáng tỏ và xác định các sự kiện,
các yếu tố liên quan đến vụ việc mà còn đánh giá và đưa ra những sáng
kiến hay đề nghị nhằm tìm được giải pháp để chấm dứt xung đột, đề cập



đến nguyên nhân, hậu quả của tranh chấp, bình luận về yêu sách đòi hỏi
của các bên.
Như vậy giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba bao gồm
những phương thức quan trọng và hữu hiệu trong việc giải quyết tranh
chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình, là mô hình giải quyết các vấn
đề một cách hiệu quả mà các bên có thể lựa chọn để giải quyết tranh
chấp.
1.2.3 Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế
Hiện nay trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế, việc giải quyết tranh
chấp quốc tế không chỉ là quyền hạn mà còn là chức năng của các tổ chức
đó. Mặc dù, các quốc gia trên tinh thần hợp tác nhằm hướng tới lợi ích
chung và đảm bảo lợi ích quốc gia, nhưng tranh chấp vẫn xảy ra là điều
khó tránh khỏi, vì vậy để bảo đảm cho sự hợp tác, phát triển ổn định và hài
hòa trong khuôn khổ tổ chức thì việc xây dựng các cơ chế giải quyết tranh
chấp là cần thiết. Các tổ chức quốc tế khác nhau cũng có những quy định
và hình thức giải quyết tranh chấp khác nhau, nhưng điển hình là 3 hình
thức:
Thứ nhất: trong cơ cấu các tổ chức quốc tế có thành lập các cơ quan
chuyên trách giải quyết tranh chấp như Tòa án công lý quốc tế của Liên
hợp quốc là cơ quan tài phán quốc tế trong khuôn khổ hoạt động của tổ
chức này, có chức năng giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia.
Thứ hai: tổ chức quốc tế không thành lập một cơ quan giải quyết
tranh chấp hoàn toàn độc lập, chuyên trách mà một số cơ quan của tổ chức
quốc tế đó sẽ có chức năng giải quyết khi tranh chấp xảy ra như Tổ chức
thương mại thế giới WTO (Đại hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm
trách nhiệm của cơ quan giải quyết tranh chấp).
Thứ ba: có sự kết hợp của cả hai hình thức trên như tổ chức quốc tế
Liên hợp quốc, mặc dù có riêng một cơ quan tài phán với chức năng giải



quyết tranh chấp là Tòa án công lý quốc tế, nhưng các cơ quan chính khác
của Liên hợp quốc là Hội đồng bảo an, Đại hội đồng, Ban thư ký vẫn tham
gia vào quá trình giải quyết tranh chấp với những phạm vi và mức độ khác
nhau.
- Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các thành viên của WTO
được giải quyết trên cơ sở các nguyên tắc công bằng, nhanh chóng, hiệu
quả và chấp nhận được đối với các bên tranh chấp. Căn cứ vào Thỏa thuận
về giải quyết tranh chấp (DSU), các thành viên có thể lựa chọn cho mình
các biện pháp giải quyết tranh chấp khác nhau như: tham vấn, môi giới,
hòa giải, trung gian, kể cả việc lựa chọn thiết chế tài phán quốc tế khác như
tài phán trọng tài quốc tế
- Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)
Theo Hiến chương ASEAN, khi có tranh chấp xảy ra, các bên tranh
chấp có quyền lựa chọn tất cả các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh
chấp, dù đó là biện pháp ngoại giao hay tài phán, trao đổi quan điểm trực
tiếp hay thông qua bên thứ ba, được quy định hay không quy định trong
Hiến chương.
- Tổ chức thống nhất Châu Phi (OAU) nay là Liên minh Châu
Phi (AU)
Trong khuôn khổ của tổ chức này, việc giải quyết tranh chấp giữa
các nước thành viên bằng biện pháp đàm phán, trung gian, hòa giải và
trọng tài là một nguyên tắc bắt buộc. Hiến chương của OAU có quy định
về môi giới, trung gian, hòa giải và trọng tài nhằm can thiệp kịp thời những
tranh chấp trong khu vực. Các cơ quan chính của OAU như Hội đồng
thường trực, Hội nghị tham vấn các bộ trưởng ngoại giao, Hội nghị thường
kỳ những người đứng đầu quốc gia và chính phủ - cơ quan cao nhất của



AU có quyền thông qua các quyết định về các vấn đề quan trọng của Châu
Phi, trong đó có các tranh chấp về lãnh thổ và các xung đột về biên giới.
1.2.4 Giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan tài phán
Về bản chất, tài phán quốc tế là cách thức hòa bình để giải quyết
tranh chấp bằng các phương pháp, thủ tục tư pháp, do các quốc gia tự lựa
chọn, nhìn chung các cơ quan tài phán quốc tế tồn tại chủ yếu dưới hai
dạng là tòa án và trọng tài quốc tế.
 Trọng tài quốc tế
- Quyết định của trọng tài có giá trị pháp lí bắt buộc với các bên
tranh chấp. Đối với các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng
điều ước quốc tế thì tòa trọng tài được đánh giá là biện pháp hữu hiệu,
công bằng và hợp lý trong trường hợp các biện pháp ngoại giao áp dụng
không thành công.
- Quyết định của trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực pháp lí bắt
buộc đối với các bên tranh chấp, quyết định của trọng tài chỉ được xét lại
trong trường hợp có những sự kiện mới có ảnh hưởng cơ bản đến nội dung
quyết định mà trước đó trọng tài chưa được biết đến.
 Tòa án công lý quốc tế
- Cũng như với trọng tài, các bên tham gia tranh chấp có thể lựa
chọn đưa tranh chấp ra giải quyết tại Tòa. Tòa án công lý quốc tế là cơ
quan tư pháp chính của Liên hợp quốc nhằm giải quyết tranh chấp giữa các
quốc gia. Quyết định của Tòa án công lý quốc tế được thông qua theo
nguyên tắc đa số. Cùng với chức năng giải quyết tranh chấp giữa các quốc
gia, Tòa án công lý quốc tế còn đưa ra kết luận tư vấn cho các cơ quan, tổ
chức của Liên hợp quốc.
 Tòa án quốc tế Luật biển (thành lập ngày 1/8/1996)


Tòa án quốc tế về Luật biển có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp

giữa các quốc gia thành viên, cũng như tất cả các thực thể khác không phải
là quốc gia thành viên của Công ước trong các trường hợp liên quan tới
việc quản lý và khai thác vùng - di sản chung của toàn thể loài người.
Ngoài ra, Tòa án về Luật biển còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước trong lĩnh vực thực hiện
các quyền chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với các
quyền tự do của các quốc gia khác về hàng hải, hàng không, đặt dây cáp,
và ống dẫn ngầm, đối với việc nghiên cứu khoa học biển, đối với các tài
nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế.
Ngoài ra, còn phải kể đến một số tòa án khu vực như Tòa án Liên
minh Châu âu, Tòa án nhân quyền Châu Âu…
Như vậy, để giải quyết tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa
bình, các bên tranh chấp có thể áp dụng các phương pháp khác nhau. Tuy
nhiên, tiến độ giải quyết tranh chấp, hiệu quả giải quyết tranh chấp… bị
chi phối rất nhiều bởi thiện chí của chính các bên tranh chấp.


CHƯƠNG 2. LIÊN HỢP QUỐC VỚI VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT CÁC
TRANH CHẤP QUỐC TẾ
2.1 Khái quát các quy định của Hiến chương Liên
hợp quốc về giải quyết tranh chấp
Theo Điều 2 Khoản 3 Hiến chương Liên hợp quốc, tất cả các nước thành
viên Liên hợp quốc phải giải quyết các tranh chấp của họ bằng phương
pháp hòa bình, sao cho không tổn hại đến hòa bình, an ninh quốc tế và
công lý. Mọi hành động cưỡng ép, đe dọa, sử dụng vũ lực đều bị nghiêm
cấm, tiến hành giải quyết tranh chấp phù hợp với công lý, trên cơ sở cân
nhắc các yêu cầu, lợi ích của các bên tranh chấp cũng như lợi ích của các
quốc gia thứ ba liên quan tới tranh chấp.
Điều 33 Hiến chương nêu lên một số phương pháp hòa bình giải quyết
các tranh chấp quốc tế như: đàm phán, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa

án, thông qua các tổ chức hay hiệp định khu vực hoặc những phương pháp
khác mà các bên lựa chọn.
Theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, các cơ quan chính của
Liên hợp quốc đều tham gia vào quá trình giải quyết các tranh chấp. Tuy
nhiên, mức độ tham gia cũng như thẩm quyền của mỗi cơ quan trong quá
trình giải quyết tranh chấp quốc tế là khác nhau. Tòa án công lý quốc tế là
cơ quan tư pháp chính của Liên hợp quốc giải quyết tranh chấp giữa các
quốc gia. Ngoài ra, còn có sự tham gia của các cơ quan chính khác như Hội
đồng bảo an thực hiện các chức năng trung gian (Điều 36), hòa giải (Điều
37), ủy ban điều tra (Điều 34), ủy ban hòa giải (Điều 38) để giải quyết
tranh chấp; Đại hội đồng có thể thực hiện các chức năng hòa giải nếu tranh
chấp không được chuyển giao cho Hội đồng bảo an (Điều11, Điều12,
Điều14, Điều 35 Hiến chương). Vai trò của Tổng thư ký Liên hợp quốc
cũng rất quan trọng, theo yêu cầu của Hội đồng bảo an và Đại hội đồng có
thể đóng vai trò trung gian, hòa giải, trong thực tế đã có nhiều trường hợp


các Tổng thư ký Liên hợp quốc đứng ra làm môi giới, trung gian cho các
bên tranh chấp để tìm ra những giải pháp hòa bình chấm dứt xung đột
nhằm mục đích duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Như vậy, các cơ quan
chính của Liên hợp quốc ở mức độ nhất định đều tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp vào quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế.
2.2 Giải quyết tranh chấp trong các cơ quan của Liên hợp quốc
2.2.1 Đại hội đồng Liên hợp quốc với việc giải quyết tranh chấp
• Chức năng và thẩm quyền giải quyết các tranh chấp quốc tế của
Đại hội đồng
- Trong Chương IV, từ Điều 9 đến Điều 22 quy định về chức năng
và thẩm quyền của Đại hội đồng. Đại hội đồng có thể xem xét, thảo luận
những vấn đề cơ bản, trọng yếu nhất trong đời sống chính trị quốc tế như
vấn đề làm dịu tình hình căng thẳng trên thế giới, vấn đề hạn chế vũ trang,

giải trừ quân bị… nhưng những quy định trực tiếp về việc tham gia giải
quyết tranh chấp có thể nói là khá khiêm tốn.
• Giá trị các nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc
- Thực chất, đây là những khuyến nghị của Đại hội đồng thể hiện
mong muốn của Liên hợp quốc về những vấn đề, sự việc trong đời sống
quốc tế. Các quốc gia thành viên Liên hợp quốc có quyền tự xác định thái
độ của mình đối với mỗi nghị quyết loại này. Sự thừa nhận đơn phương từ
một phía quốc gia nào đó đối với nghị quyết của Đại hội đồng không kéo
theo hiệu lực bắt buộc của nghị quyết này đối với các quốc gia khác. Một
thực tế là về mặt pháp lí, các nghị quyết cũng như các kiến nghị giải quyết
tranh chấp của Đại hội đồng có thể diễn ra theo hai chiều hướng tích cực
và tiêu cực:
Thứ nhất: những nghị quyết có tác động tích cực được đông đảo các
quốc gia ủng hộ, phù hợp với xu thế chung thúc đẩy được sự hợp tác hữu


nghị giữa các quốc gia, thực hiện quyền con người và đáp ứng được
nguyện vọng của đại đa số dân tộc trên thế giới.
Thứ hai: bên cạnh những Nghị quyết có chiều hướng tích cực, cũng
tồn tại một số những nghị quyết đi ngược lại nguyện vọng của các dân tộc,
không được sự ủng hộ của các nước, những Nghị quyết này đã phần nào
gây ra những khó khăn, thiệt hại cho các nước là “đối tượng” của những
Nghị quyết
Hiện nay với chức năng và quyền hạn của mình, cùng với sự ủng hộ
của các nước thành viên nhất là các nước đang phát triển, Đại hội đồng
cùng với các cơ quan khác của Liên hợp quốc đã có những hoạt động ngày
càng phong phú và hiệu quả hơn trong việc duy trì hòa bình và an ninh
quốc tế.
2.2.2 Hội đồng bảo an Liên hợp quốc với việc giải quyết tranh chấp.
Trong số sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc, Hội đồng bảo an là cơ

quan hoạt động thường xuyên với thẩm quyền rộng lớn, đồng thời có vai
trò đặc biệt quan trọng trong duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
• Chức năng và thẩm quyền giải quyết các tranh chấp quốc tế
Giải quyết hòa bình tranh chấp giữa các quốc gia là một trong những
chức năng cơ bản của Hội đồng bảo an nhằm gìn giữ hòa bình và an ninh
quốc tế. Trong thực tiễn, tranh chấp chính là mặt trái của các hoạt động
hợp tác quốc tế, nhất là khi quan hệ hợp tác giữa các quốc gia ngày càng
được mở rộng thì tranh chấp càng có xu hướng gia tăng. Chính vì vậy,
tham gia vào quá trình giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế là một
trong những hoạt động giúp Hội đồng bảo an thực hiện hiệu quả được chức
năng duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bởi mức độ ổn định của hòa bình
và an ninh quốc tế, hiệu quả hợp tác quốc tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố
trong đó có vấn đề tranh chấp và giải quyết tranh chấp quốc tế.


• Giá trị các nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
Trong hoạt động của mình, Hội đồng bảo an hành động nhân danh toàn
thể các thành viên Liên hợp quốc. Những kiến nghị hoặc những quyết định
sau khi được thông qua đều mang tính chất ràng buộc, các thành viên Liên
hợp quốc phải chấp thuận và thi hành. Khi tiến hành giải quyết tranh chấp
Hội đồng bảo an trước hết dành quyền chủ động, tích cực cho chính các
bên tranh chấp. Các bên có quyền lựa chọn bất kỳ biện pháp hòa bình nào
để giải quyết tranh chấp, nhưng Hội đồng bảo an vẫn có thẩm quyền đưa ra
các kiến nghị, các kiến nghị này không đặt nghĩa vụ pháp lí đối với các
nước, không buộc thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, xuất
phát từ quy chế pháp lí, chức năng, quyền hạn của Hội đồng bảo an thì các
kiến nghị đó không thể coi như là những “nhắc nhở thông thường”. Trong
trường hợp các nước do không thực hiện những kiến nghị của Hội đồng
bảo an mà gây ra những hậu quả nghiêm trọng thì Hội đồng bảo an có thể
thông qua hành động “cứng rắn” hơn.

Tóm lại Hội đồng bảo an là cơ quan duy nhất của Liên hợp quốc có
quyền quyết định đánh giá tình hình thực tế của các cuộc tranh chấp có là
mối đe dọa đối với hòa bình, phá hoại hòa bình và sẽ khuyến nghị hoặc
quyết định các biện pháp cần thiết được tiến hành, phù hợp với quy định
của Hiến chương để nhằm thực hiện chức năng duy trì hoặc khôi phục hòa
bình và an ninh quốc tế.
2.2.3 Ban thư ký Liên hợp quốc với việc giải quyết tranh chấp
Khi xuất hiện tranh chấp Tổng thư ký phải tìm biện pháp để làm dịu tình
hình căng thẳng giữa các quốc gia và xem xét thấy cần thiết, có quyền
thông báo cho Hội đồng bảo an biết về bất cứ tranh chấp nào có thể làm
hại nền hòa bình và an ninh quốc tế. Trong phạm vi thẩm quyền, Tổng thư
ký đóng vai trò to lớn trong việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia,
nhất là vai trò môi giới và trung gian.


Thực tế các Tổng thư ký đã góp một phần không nhỏ vào những thành
công trong hoạt động giải quyết tranh chấp thông qua thực hiện vai trò
trung gian, hòa giải, trong việc lưu ý Hội đồng bảo an những vấn đề có
nguy cơ đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế. Bên cạnh đó, trong một số
trường hợp sự tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp của Tổng thư
ký Liên hợp quốc dẫn đến một số ảnh hưởng không tốt tới hoạt động cũng
như uy tín của Liên hợp quốc.
2.2.4 Tòa án công lý Liên hợp quốc với việc giải quyết tranh chấp
• Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án công lý quốc tế
Liên hợp quốc
- Ngoài chức năng chính là giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia,
Tòa án công lý quốc tế còn đưa ra kết luận tư vấn những vấn đề pháp lí.
- Tòa án quốc tế được ủy quyền xem xét giải quyết các tranh chấp có
tính chất pháp lí phát sinh giữa các quốc gia.
Khi đưa tranh chấp ra giải quyết tại Tòa, các bên trong tranh chấp

thừa nhận thẩm quyền giải quyết của Tòa theo ba phương thức: chấp nhận
thẩm quyền của Tòa theo từng vụ việc; chấp nhận trước thẩm quyền của
Tòa trong các điều ước quốc tế; hoặc tuyên bố đơn phương chấp nhận
trước thẩm quyền của Tòa.
Giá trị các phán quyết của Tòa án công lý quốc tế Liên hợp quốc
- Các phán quyết của Tòa án công lý quốc tế có giá trị chung thẩm,
các bên trong tranh chấp không được quyền kháng cáo, các bên có nghĩa
vụ chấp hành nghiêm chỉnh các phán quyết, nếu một trong các bên không
chấp hành thì bên kia có thể yêu cầu Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đưa
ra kiến nghị hoặc quyết định những biện pháp cần thiết buộc thi hành
phán . Tuy nhiên, các phán quyết do Tòa đưa ra cũng có thể được xét lại
trong một số trường hợp đặc biệt, đó là có sự xuất hiện những tình tiết mới


và những tình tiết này phải đáp ứng đủ các điều kiện ở Khoản 1 - Điều 61
Quy chế. Các đơn yêu cầu xét lại phán quyết phải được gửi ngay cho Tòa
trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày phát hiện các tình tiết mới.
- Ngoài các phán quyết, Tòa án công lý quốc tế còn đưa ra các kết
luận tư vấn. Các kết luận tư vấn của Tòa về mặt pháp lí là sự thể hiện ý
kiến của các thẩm phán về một vấn đề pháp luật, chỉ mang tính chất
khuyến nghị, không có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các cơ quan, các
tổ chức chuyên môn đã yêu cầu Tòa án công lý quốc tế đưa ra các kết luận
tư vấn, nhưng lại có ý nghĩa nhất định trong việc xây dựng các quy phạm
luật quốc tế hiện đại và có tác động mạnh mẽ trong dư luận thế giới ảnh
hưởng nhất định đến hành vi của các quốc gia.
• Hiệu quả giải quyết tranh chấp quốc tế tại Tòa án công lý quốc tế
Liên hợp quốc.
- Trong phạm vi chức năng của mình, từ năm 1946 đến năm 2009
Tòa đã tiếp nhận 118 vụ kiện liên quan đến nhiều vấn đề như biên giới đất
liền, phân định biển, quy thuộc chủ quyền lãnh thổ, không sử dụng vũ lực,

không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, quan hệ ngoại giao,
lãnh sự, quyền tị nạn, quyền qua lại trong Luật biển và các quyền lợi kinh
tế...
- Nếu xét trên khía cạnh số lượng các tranh chấp được giải quyết tại
Tòa án công lý quốc tế, có thể thấy hoạt động của Tòa chưa tương xứng
với vai trò của một cơ quan tư pháp mang tính toàn cầu.
- Tuy còn tồn tại một số hạn chế, nhưng trong những năm qua, Tòa
án công lý quốc tế đã khẳng định được vai trò là cơ quan tài phán toàn cầu
trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp giữa các quốc gia, có nhiều
đóng góp cho việc thực thi sứ mệnh gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế
của Liên hợp quốc.


CHƯƠNG 3 VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH
CHẤP QUỐC TẾ
3.1 Quan điểm của Việt Nam về giải quyết các tranh chấp quốc tế
Việt Nam luôn thể hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác.
Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và
các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không
dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thông qua thương lượng hòa bình, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và
cùng có lợi
Có thể thấy trong quan hệ ngoại giao, chủ trương nhất quán của Việt
Nam thúc đẩy giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình, phù
hợp với các nguyên tắc cơ bản của Luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên
hợp quốc.

Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, Việt Nam luôn chọn đàm phán là
một phương thức chủ đạo để tiến hành giải quyết tranh chấp một cách hòa
bình. Đây là một phương pháp hữu hiệu bởi kết quả của đàm phán có thể
đạt được do có sự nhượng bộ, hiểu biết lẫn nhau và có thể một bên tự rút
bỏ yêu sách của mình, công nhận đòi hỏi đúng đắn của phía bên kia.
3.2 Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả giải quyết tranh chấp
quốc tế tại Việt Nam.
Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng
nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia,
nhất là các nước đang phát triển, sự gia tăng các quan hệ hợp tác là một
trong những nguyên nhân dẫn tới phát sinh tranh chấp, không chỉ tranh


×