Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.74 KB, 58 trang )

Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
LỜI NÓI ĐẦU
Tranh chấp kinh tế là một loại quan hệ phát sinh trong quá trình vận
động của nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động dưới sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế trong quá trình xây dựng và
phát triển đã xảy ra không Ýt những tranh chấp hợp đồng kinh tế giữa các đơn
vị với nhau, yêu cầu đặt ra là phải có một phương thức giải quyết tranh chấp
kinh tế mới phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ, việc giải
quyết kịp thời đúng pháp luật sẽ có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của
nền kinh tế.
Sù ra đời của toà kinh tế đánh dấu một phương thức mới trong giải quyết
tranh chấp kinh tế ở nước ta: Phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế ở
nước ta: phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án. Xuất phát từ
yêu cầu khách quan đổi mới phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế trong
nền kinh tế nước ta, lý giải những vấn đề đang đặt ra đối với việc hoàn thiện
tổ chức hoạt động của các toà kinh tế ở nước ta trong khuôn khổ đường lối
chính sách của Đảng pháp luật của Nhà nước. Việc nghiên cứu nhằm tiến tới
hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Toà án
ở Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết. Luận văn này nhằm mục đích làm rõ
hơn những vấn đề liên quan đến chức năng, thẩm quyền, tình hình hoạt động
của toà án kinh tế hiện nay, làm rõ những điểm bất cập của pháp luật hiện
hành liên quan đến hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế của toà án kinh tế
trong hệ thống toà án nhân dân. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật, giúp cho toà kinh tế hoạt động ngày càng có hiệu quả
hơn trên thực tế.
Đây là đề tài mà em vô cùng tâm đắc, tuy nhiên trong phạm vi luận văn
tốt nghiệp chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của
các thầy cô.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
CHƯƠNG I.


TRANH CHẤP KINH TẾ VÀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH TẾ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN.
I. Tranh chấp kinh tế và sự ra đời của toà án kinh tế trong hệ thống toà án nhân
dân.
1. Khái niệm tranh chấp kinh tế.
Tranh chấp kinh tế là những tranh chấp phát sinh từ những quan hệ pháp
luật kinh tế, hay nói cách khác là các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều
chỉnh của pháp luật kinh tế, mà nội dung của nó chính là những quyền và
nghĩa vụ kinh tế. Các bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ những quyền và
nghĩa vụ đó. Tuy nhiên trên thực tế, không phải lúc nào các chủ thể cũng thực
hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó các tranh chấp về việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ kinh tế "tranh chấp kinh tế" khó có thể tránh khỏi
để bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của các bên có tranh chấp cũng như tạo
điều kiện hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền kinh tế, các tranh chấp đó cần
được giải quyết một cách kịp thời, đúng đắn. Trong khoa học pháp lý trước
đây, trong cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, khái niệm pháp luật
kinh tế đã được định nghĩa khá thống nhất dễ được chấp nhận. Ngày nay xung
quanh khái niệm này đang có nhiều tranh luận sôi nổi để có thể đi đến thống
nhất.
2. Sự cần thiết phải thành lập toà kinh tế.
a. Sù ra đời của toà án kinh tế.
Trong một khoảng thời gian dài trước đây, cả trong lý luận và thực tiễn,
nói đến tranh chấp kinh tế thường chỉ được thừa nhận thuần tuý là tranh chấp
về vi phạm hợp đồng kinh tế. Vì vậy nhà nước ta đã tổ chức giải quyết tranh
chấp hợp đồng kinh tế bằng hai phương thức khác nhau.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
Từ 1950 đến 1960 các tranh chấp về hợp đồng kinh tế được giải quyết tại
toà án nhân dân, tức là được giải quyết theo trình tự tư pháp. Quy định này
được ghi nhận trong nghị định 735 - TTg ngày 10 - 4 - 1956 ban hành điều lệ

tạm thời về hợp đồng kinh tế.
Từ năm 1960 đến nay (cụ thể là từ nghị định số 20 - TTg ngày 14 - 1 -
1960), các tranh chấp hợp đồng kinh tế do trọng tài kinh tế, với tư cách là một
cơ quan trong bộ máy hành chính Nhà nước giải quyết. Định chế hoạt động
kinh tế, với tư cách là một cơ quan của chính phủ, được ra đời cùng với sự
phát triển của chế độ hợp đồng kinh tế. Do đó nét đặc thù của hoạt động trọng
tài kinh tế thể hiện ở chỗ hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm hợp
đồng kinh tế cũng chính là phương tiện để đạt được mục đích là trực tiếp
tham gia việc điều hành tổ chức quan hệ kinh tế.
Cơ chế kinh tế mới phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường có định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình đổi mới cải cách kinh tế, sự bình đẳng và cùng có lợi
giữa các thành phần kinh tế trong hợp tác và cạnh tranh. Yêu cầu đặt ra là
Nhà nước không được can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của các đơn vị kinh tế mà bằng các chính sách lớn mà pháp luật tạo lập một
môi trường pháp lý lành mạnh. Một hành lang vững chắc trong quan hệ hợp
tác kinh tế giữa các doanh nghiệp được thực hiện trên nguyên tắc tự do bình
đẳng và cùng có lợi trên khuôn khổ pháp luật của nhà nước.
Cơ chế kinh tế mới có sự tồn tại của trọng tài kinh tế, với tư cách là một
cơ quan quản lý như cũ không còn phù hợp với thực thiễn cuộc sống bởi lý do
sau:
Thứ nhất: về mặt lý luận khoa học quản lý việc thành lập hay xoá bỏ một
cơ quan nhà nước không phải do ý chí chủ quan của một ai đó quyết định.
Khoa học quản lý khẳng định đối tượng quản lý quy định hình thức tổ chức và
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
nội dung hoạt động của chủ thể quản lý. Điều đó đặt ra yêu cầu bức xúc là
phải đổi mới tổ chức và phương thức của trọng tài kinh tế nhà nước.
Thứ hai: sự tồn tại của trọng tài kinh tế được thể hiện thông qua các
hình thức hoạt động như thanh tra hợp đồng kinh tế quan hệ kinh doanh giữa

các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được xây dựng trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi.
Thứ ba: Trọng tài kinh tế có chức năng xét xử các tranh chấp kinh tế
nhanh, thuận lợi có trách nhiệm bảo đảm các bí mật trong kinh doanh cũng
như uy tín của các bên trên thương trường nhằm đạt hiệu quả cao.
Cùng với sự ra đời của toà kinh tế pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế năm 1994 quy định toà kinh tế có thẩm quyền giải quyết các vụ án
kinh tế. Các tranh cháp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân, các tranh chấp
liên quan đến việc mua bán cổ phiếu trái phiếu.
Tóm lại: trong điều kiện kinh tế thị trường với cơ chế giải quyết tranh
chấp như cũ không còn đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay.
b) Toà kinh tế trong hệ thống toà án nhân dân.
giải quyết tranh chấp kinh tế là một yêu cầu khách quan. Song mô hình
tổ chức toà kinh tế như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh của nước ta hiện
nay. Nhiều nhà nghiên cứu chính trị luật gia đã để tâm nghiên cứu tìm ra
phương án tối ưu nhất góp phần hoàn thiện và đổi mới các cơ quan tài phán
kinh tế và cải cách tư pháp nói chung. Có ý kiến cho rằng xây dựng toà kinh
tế độc lập với hệ thống toà án nhân dân theo mô hình này sẽ có một số thuận
lợi như đảm bảo tính độc lập khách quan trong hiện đại xét xử.
Toà kinh tế nằm trong hệ thống toà án nhân dân với vai trò như toà hình
sự, toà dân sự, toà kinh tế, toà lao động mô hình này có ưu điểm là thống nhất
cơ quan xét xử có cơ sở vật chất để hoàn thiện toà kinh tế.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
Hiện nay, toà kinh tế đã chính thức thành lập và đi vào hoạt động theo
đường lối xây dựng toà kinh tế là một toà chuyên trách riêng và được ghi
nhận trong luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân
được Quốc hội thông qua ngày 28-12-1993 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1994.
Cùng với việc thành lập toà kinh tế, uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua
pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16-3-1994 và có hiệu lực ngày

17-4-1994. Đây là cơ sở pháp lý quá trình tạo sự đồng bộ cho hoạt động giải
quyết mọi tranh chấp kinh tế trong đời sống.
Tiếp đó ở trung ương toà kinh tế thuộc toà án nhân dân tối cao ở cấp tỉnh
và cấp huyện cũng thành lập toà kinh tế việc lùa chọn mô hình kinh tế là một
toà chuyên trách trong hệ thống toà án nhân dân. Về cơ cấu tổ chức của hệ
thống toà án nhân dân nước ta luôn đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm gọn nhẹ và
có hiệu quả trong tổ chức bộ máy nhà nước.
II.Tổ chức và thẩm quyền của toà án nhân dân trong việc giải quyết các vụ án
kinh tế
1. Về tổ chức.
Để đạt được nhiện vụ giải quyết các vụ án kinh tế theo quy định của
pháp luật. Trong ngành toà án Việt Nam một hệ thống tổ chức mới tương ứng
cũng được thành lập. Mục đích của sự hình thành hệ thống toà án nhân dân
trong việc giải quyết các vụ án kinh tế phát sinh trong chế độ mới.
a. Đối với việc bổ sung thêm nhiệm vụ quyền hạn
theo quy định tại điểm 1 điều 1 luật sửa đổi bổ sung một số điều về luật
tổ chức toà án nhân dân trong đó Hội đồng thẩm phán có nhiệm vụ và quyền
hạn như: Giám đốc tái thẩm những vụ án và quy định đã có hiệu lực pháp
luật.
Điều 78,85 khoản 4 pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế của
toà án nhân dân tối cao. Như vậy, nhiệm vụ thẩm quyền của hội đồng thẩm
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
phán toà án nhân dân tối cao đã được xác định theo quy định của luật sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà án nhân dân tối cao và pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế.
Đối với toà án nhân dân quận, huyện, thị xã thành phố trực thuộc tỉnh
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp kinh tế có giá trị tranh chấp
dưới 50 triệu trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài(khoản 1 điều 13 pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ).

Ngoài ra còn có các toà quân sự cấp quân khu và toà án quân sự cấp khu
vực. Như vậy về cơ bản sau khi tổ chức thành lập toà kinh tế trong toà án
nhân dân năm 1992, với thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của toà án
nhân dân cấp huyện được quy định trong pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án kinh tế năm 1994 thì ta thấy rằng toà án nhân dân cấp huyện như một khâu
của hệ thống toà án trong việc giải quyết các vụ án nói chung.
b. Về việc thành lập toà chuyên trách.
Theo quy định tại điều 4 điểm 1 luật sửa đổi bổ sung một số điều của
luật tổ chức toà án nhân dân thì khoản 2 điều 17 luật tổ chức toà án được bổ
sung như sau:
Cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân tối cao gồm :
- Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao.
- Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao.
- Toà quân sự trung ương, toà hình sự toà dân sự, toà kinh tế và các toà
phóc thẩm toà án nhân dân tối cao.
Theo điểm 2 điều 1 luật sửa đổibổ sung một số điều của luật tổ chức toà
án nhân dân thì khoản 1 điều 27 luật tổ chức toà án nhân dân được bổ sung
như sau:
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
Cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương gồm:
- Uỷ ban thẩm phán.
- Toà hình sự, dân sự kinh tế.
Xét về mặt tổ chức của toà án trong việc giải quyết các vụ án kinh tế nói
riêng về nhiệm vụ thẩm quyền gồm:
- Toà án nhân dân cấp huyện.
- Toà kinh tế, toà án nhân dân cấp tỉnh.
- Toà phóc thẩm toà nhân dân tối cao.
- Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao.

2. Về thẩm quyền
Theo điều 12 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì toà án chỉ
giải quyết các vụ án thuộc các dạng sau:
- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập hoạt động , giải
thể của công ty.
- Các tranh chấp liên quan tới việc mua bán trái phiếu.
Theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân
và luật phá sản doanh nghiệp thẩm quyền của toà kinh tế bao gồm:
- Xét xử những vụ án kinh tế.
- Giải quyết các vụ án phá sản doanh nghiệp.
ngoài ra toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc khác theo quy định
của pháp luật.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
a. Thẩm quyền giải quyết các vụ án theo cấp xét xử.
Với tư cách là bộ phận của toà án nhân dân hoạt động của mình. toà
kinh tế có những nhiệm vụ, quyền hạn của toà án Việt Nam trong việc giải
quyết các vụ án kinh tế. Toà án kinh tế bao gồm:
* Toà án nhân dân cấp huyện:
Điều 32 luật sửa đổi, bổ sung của luật tổ chức toà án nhân dân, khoản 1
điều 13 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định:
Tại các toà án nhân dân cấp huyện không có tổ chức toà kinh tế, nhưng
toà án này vẫn được giao thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ tranh chấp hợp
đồng kinh tế có giá trị tranh chấp nhỏ, tình tiết đơn giản dưới 50 triệu đồng và
không có yếu tố nước ngoài. Các tranh chấp về chứng khoán, cạnh tranh,
quảng cáo có giá trị tranh chấp hơn 50 triệu vẫn không thuộc thẩm quyền sơ
thẩm của toà án nhân dân cấp huyện. Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết

theo trình tự sơ thẩm nếu có kháng cáo kháng nghị, phóc thẩm thì toà kinh tế,
toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo trình tự phóc thẩm theo quy định tại
khoản 3 điều 30 luật sửa đổi tổ chức toà án nhân dân 1992.
Nếu có kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án
có hiệu lực pháp luật thì việc xét xử giám đốc thẩm tái thẩm do uỷ ban thẩm
phán toà án nhân dân cấp tỉnh thực hiện.
Nếu có kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm của toà kinh tế
toà án nhân dân tối cao thì việc xét xử tái thẩm giám độc thẩm do uỷ ban thẩm
phán toà án nhân dân tối cao thực hiện (theo quy định tại khoản 3 điều 85)
pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
Nếu có kháng nghị trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quyết định
giám đốc thẩm của uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao thì hội đồng
thẩm phán toà án nhân dân tối cao xét xử (theo quy định tại khoản 1 điều 21
luật tổ chức toà án nước ngoài).
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
(sơ đồ minh hoạ số 1 phần mục lục)
* Toà án nhân dân cấp Tỉnh.
Theo quy định của luật sửa đổi bổ sung luật tổ chức toà án nhân dân tại
khoản 2 điều 13 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định:
Thẩm quyền của toà án kinh tế toà án nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc
trung ương. Sơ thẩm những vụ án kinh tế theo quy định tại điều 12 pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế trừ những tranh chấp kinh tế mà giá trị
tranh chấp dưới 50 triệu đồng và không có yếu tố nước ngoài.
Như vậy về phân cấp thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân cấp tỉnh thì
có một hệ thống toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết tranh chấp theo trình tự
sơ thẩm.
Nếu có kháng cáo kháng nghị phóc thẩm thì toà án nhân dân tối cao sẽ
giải quyết theo trình tự phóc thẩm (theo quy định tại khoản 2 điều 24 luật tổ
chức toà án nhân dân tối cao).

Nếu có kháng cáo kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm tái thẩm đối
với bản án sơ thẩm của toàkinh tế toà án nhân dân cấp tỉnh đã có hiệu lực
pháp luật được ghi nhận tại khoản 3 điều 23 luật tổ chức toà án nhân dân.
Toà án nhân dân cấp tỉnh sơ thẩm những vụ án kinh tế tại điều 12 pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty.
- Các tranh chấp liên quan đến cổ phiếu trái phiếu.
- Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật.
Nếu có kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án
phóc thẩm của toà phóc thẩm toà án nhân dân tối cao thì do uỷ ban thẩm phán
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định tại điều
2 khoản 3 luật tổ chức toà án nhân dân.
Nếu có kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quyết
định giám đốc thẩm, tái thẩm của uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao sẽ
xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với những vụ án và bản án mà quyết định
đã có hiệu lực pháp luật theo điều 21 khoản 1 luật tổ chức toà án nhân dân.
(Xem sơ đồ minh hoạ số 2 phần phụ lục).
b. Thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế theo lãnh thổ và những
trường hợp nguyên đơn được lùa chọn toà án.
Việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ nhằm xác định toà án nào sẽ giải
quyết vụ án kinh tế.
Điều 14 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994 quy định:
- Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế là toà án nơi bị
đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú.
- Trong trường hợp vụ án có liên quan đến bất động sản thì toà án nơi có
bất động sản giải quyết.

Theo quy định điều 184 mục 1 Bộ luật dân sự thì bất động sảnlà những
tài sản không di dời được bao gồm: đất đai, nhà ở, công trình xây dựng gắn
liền với đất đai, công trình xây dựng và các tài sản khác theo quy định của
pháp luật. Như vậy nguyên tắc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của toà án
trong tố tụng kinh tế. Vì đó theo quy định điều 14 pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế cho ta thấy rằng đối với toà án kinh tế không phải đơn kiện
nào cũng được toà án thụ lý giải quyết, mà đơn kiện chỉ được thụ lý khi nó
được chuyển đến toà án nơi có thẩm quyền giải quyết.
* Trường hợp nguyên đơn được lùa chọn toà án.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
Để tạo điều kiện thuận lợi giúp cho nguyên đơn có thể thực hiện được
quyền khởi kiện dễ dàng, trong pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế tại điều
15 quy định một số trường hợp nguyên đơn được lùa chọn toà án để giải
quyết tranh chấp kinh tế. Nguyên đơn có quyền lùa chọn trong các trường hợp
sau:
- Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn thì nguyên đơn có
thể yêu cầu toà án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của
bị đơn giải quyết vụ án.
- Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp thì
nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi
nhánh đó giải quyết.
- Nếu vụ án phát sinh do có vi phạm hợp đồng kinh tế thì nguyên đơn có
thể yêu cầu toà án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết vụ án.
- Nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau thì nguyên đơn có
thể có yêu cầu toà án nơi có trụ sở hoặc bất động sản ở nơi cư trú của bị đơn
giải quyết vụ án.
- Nếu vụ án không liên quan đến bất động sản thì nguyên đơn có thể yêu
cầu toà án nơi có bất động sản của bị đơn để giải quyết vụ án.
- Nếu vụ án liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên

đơn có thể yêu cầu toà án ở một trong các nơi đó giải quyết vụ án.
c. Thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế có
yếu tố nước ngoài.
Các quy định của pháp lệnh trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế
có nhân tố nước ngoài điều 87 pháp lệnh giải quyết tranh chấp kinh tế bằng
toà án. những tranh chấp kinh tế trong đó có một bên chủ thổ là pháp nhân, cá
nhân nước ngoài với một bên là pháp nhân cá nhân Việt Nam có đăng ký kinh
doanh. Trừ trường hợp điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.Vì vậy, tất cả những tranh chấp
kinh tế có yếu tố nước ngoài kể trên do toà kinh tế toà án nhân dân cấp tỉnh có
thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm (trừ những tranh chấp hợp đồng
kinh tế mà giá trị tranh chấp không quá 50 triệu và không có nhân tố nước
ngoài thì mới thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp huyện giải quyết ).
Như vậy các tranh chấp kinh tế có nhân tố nước ngoài được toà án cấp
tỉnh thụ lý và giải quyết sơ thẩm. Vì thế ta có mô hình hệ thống tổ chức được
xác định như sau:
- Toà kinh tế, toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết các tranh chấp kinh tế
theo trình tự sơ thẩm.
- Nếu có kháng nghị, kháng cáo phóc thẩm thì toà phóc thẩm toà án nhân
dân tối cao giải quyết theo trình tự phóc thẩm theo quy định tại khoản 2 điều
24 luật tổ chức toà án nhân dân.
- Nếu có kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án
sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của toà kinh tế toà án nhân dân cấp tỉnh thì
do toà kinh tế toà án nhân dân tối cao xét xử theo quy định tại điều 23 khoản
3 luật tổ chức toà án nhân dân.
- Nếu có kháng nghị trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án
phóc thẩm của toà kinh tế toà án nhân dân tối cao thì do uỷ ban thẩm phán toà
án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định tại điều 22

khoản 3 luật tổ chức toà án nhân dân.
- Nếu có kháng nghị trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quy định
giám đốc thẩm, tái thẩm thì uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao thì do
hội đồng thảm phán toà án nhân dân tối cao xét xử theo quy định tại khoản 1
điều 21 luật tổ chức toà án nhân dân.
(Xem sơ đồ minh hoạ số 3 phần phụ lục)
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
Tóm lại: khi nghiên cứu về tổ chức cũng như thẩm quyền của toà án kinh
tế được quy định trong văn bản pháp luật hiện hành là tương đối phù hợp với
tình hình thực tiễn của hoạt động tư pháp ở nước ta. Xuất phát từ thực tế đó
toà án kinh tế nhân danh quyền lực nhà nước đã xem xét, xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật, bảo vệ được trật tự công cộng và giữ ổn định các quan hệ
kinh tế trong xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
Chương II
Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế tại toà án
nhân dân .
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
TẾ BẰNG CON ĐƯỜNG TOÀ ÁN.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các đơn vị kinh tế nảy sinh
các quan hệ kinh tế mà nội dung và mục đích của nó chính là quyền và nghĩa
vụ kinh tế của các bên. Tuy nhiên trên thực tế không phải lúc nào các chủ thể
cùng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. do đó các tranh chấp
về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ kinh tế tranh chấp kinh tế là điều khó có
thể tránh khỏi. Để bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp giữa các bên có tranh
chấp và tạo điều kiện cho hoạt động đồng bộ nền kinh tế, có các tranh chấp
kinh tế đó được giải quyết một cách nhanh chóng kịp thời bằng con đường toà
án.

Như vậy, khi tranh chấp kinh tế xảy ra để đảm bảo nguyên tắc trong kinh
doanh, pháp luật cho phép các bên thương lượng với nhau đi đến thống nhất.
Trong trường hợp mà các bên không tự thoả thuận được với nhau thì tranh
chấp kinh tế sẽ được giải quyết theo một thủ tục nhất định trước cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là toà kinh tế. Với tư cách là một chế định của Luật kinh
tế, tố tụng kinh tế được hiểu là các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối
quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế giữa toà kinh tế
với các bên tham gia tố tụng kinh tế.
Quan hệ pháp luật tố tụng kinh tế có một loại dấu hiệu riêng của nó đó
là:
- Chóng phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế tại toà
kinh tế.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
Mét trong các chủ thể bắt buộc của quan hệ tè tụng kinh tế là cơ quan
toà án kinh tế.
Các chủ thể khác của quan hệ tè tụng kinh tế phải là các nhà kinh
doanh.
Căn cứ pháp lý làm phát sinh các vụ khiếu nại ở cơ quan toà kinh tế
đồng thời làm phát sinh quan hệ tè tụng kinh tế và các tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ giữa các nhà kinh doanh.
Mục đích của việc giải quyết các tranh chấp kinh tế ở cơ quan toà án
kinh tế nhằm mang lại quyền và lợi Ých hợp pháp của các bên khi tham gia tố
tụng kinh tế.
Các văn bản pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp kinh tế bằng
con đường toà án hiện nay bao gồm:
- Luật tổ chức toà án nhân dân năm 1992 được sửa đổi bổ sung một số
điều của luật tổ chức toà án nhân dân 2 –12-1993.
- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 6-3-94 từ ngày 1-7-
1994 toà án nhân dân được giao thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế

theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân ngày 2-
12-1993 và thành lập toà án kinh tế trong toà án nhân dân. như vậy ở nước ta
có sự phân biệt giữa toà kinh tế và toà dân sự trong việc giải quyết các tranh
chấp về tài sản. toà kinh tế được tổ chức ở toà án nhân dân tối cao và toà án
nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương.
(xem sơ đồ minh hoạ số 4 phần phụ lục)
Qua việc tham khảo kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cho thấy có rất
Ýt nước có văn bản pháp luật riêng biệt về thủ tục tố tụng kinh tế, vì phân lớn
các nước không có phân biệt giữa toà dân sự và toà kinh tế. Một số nước có
toà thương mại thì cũng áp dụng thủ tục tố tụng dân sự khi giải quyết tranh
chấp kinh tế như: cộng hoà Pháp, cộng hoà liên bang Đức. Vì vậy trong quá
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
trình nghiên cứu về tổ chức toà kinh tế và tố tụng kinh tế có không Ýt ý kiến
cho rằng không cần thiết phải ban hành một văn bản pháp luật riêng về tố
tụng kinh tế mà chỉ nên áp dụng pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
29-11-1989 trong việc giải quyết các vụ án kinh tế.
Thực tế ở nước ta cho thấy cần phải quy định thủ tục tố tụng kinh tế
riêng chứ không nên áp dụng thủ tục tố tụng dân sự khi giải quyết các vụ án
kinh tế vì các lÝ do sau:
Thứ nhất: pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sụ có một số quy định
không phù hợp với yêu cầu giải quyết tranh chấp kinh tế. Trong đó về hội
đồng xét xử, thời hiệu thời hạn xét xử quá dài. Vì vậy, nên áp dụng các thủ
tục tố tụng mà công cuộc đổi mới nền kinh tế đặt ra. Mặt khác việc sửa đổi
pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự chưa được đặt ra do đó pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế là các văn bản cho thời kỳ cải cách tư
pháp. thời kỳ chuyển giao giai đoạn để tiến tới hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp.
Thứ hai: Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 4 đã quyết định giao cho toà án
nhân dân thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế và thông qua luật sửa đổi bổ

sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân. Trong đó quyết định việc
thành lập các toà chuyên trách trong toà án nhân dân tỉnh thành phố trực
thuộc trung ương và toà án nhân dân tối cao xét để thực hiện, các tranh chấp
kinh tế được toà kinh tế trong toà án nhân dân xét xử. Về mặt tính chất thì
đây là các quan hệ tài sản, nhưng so với quan hệ dân sự thì nó mang tính đặc
thù riêng.
Đặc điểm của hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường là năng động
linh hoạt, việc giải quyết tranh chấp kinh tế cần phải nhanh chóng đơn giản
đúng pháp luật. Trọng tài kinh tế nhà nước trước đây đã được thay thế bằng
toà kinh tế trong toà án nhân dân, vừa phù hợp với cơ chế thị trường mới ,vừa
đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của quan hệ kinh tế thị trường, cũng là yêu cầu
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc uỷ ban thường
vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sù, kinh
tế có thể coi đây là các văn bản trong thời kỳ cải cách tư pháp, thời kỳ chuyển
giao giai đoạn để tiến tới hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan tư
pháp.
II.Những nguuyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án
nhân dân.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn hoạt động của toà kinh tế trong thời gian
qua, trong bối cảnh công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta đã và đang đi vào
chiều rộng, việc hoàn thiện và bổ sung các quy định về tố tụng kinh tế cần
phải được xác định trong chủ trương chung về cải cách tư pháp tạo điều kiện
cho toà kinh tế tiến hành tố tụng một cách nhanh chóng đồng thời bảo đảm
cho các đương sự có điều kiện thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ. Trên
cơ sở đó ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, những biểu hiện tiêu
cực trong quá trình giải quyết thì hoạt động của toà kinh tế phải dùa trên
nguyên tắc của tố tụng kinh tế. Nguyên tắc của thủ tục tố tụng kinh tế là
những tư tưởng pháp lý chỉ đạo chi phối toàn bộ hệ thống chế định pháp luật

trong pháp lệnh tố tụng giải quyết các vụ án kinh tế làm kim chỉ nam định
hướng xuyên suốt cho toàn bộ quá trình hoạt động, giải quyết tranh chấp kinh
tế của toà kinh tế.
Tất cả các hành vi vi phạm pháp luật đều được xem xét và xử lý theo quá
trình tố tụng như: khởi kiện, ra quyết định, ra bản án… đều phải thực hiện
trên cơ sở quán triệt các nguyên tắc đã đề ra. Bất cứ hành vi vi phạm nào đến
nguyên tắc tè tụng kinh tế đều được coi là bất hợp pháp và phải được loại bỏ
do đó khi nghiên cứu pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế trong hoạt
động tè tụng kinh tế cũng như các hoạt động tè tụng khác nhằm giải quyết
tranh chấp kinh tế thì toà kinh tế đều phải tuân theo nguyên tắc chung về tố
tụng được quy định trong hiến pháp và luật tổ chức toà án nhân dân. Toà án
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số, toà án đảm bảo cho
đương sự được dùng tiếng nói chữ viết của dân téc mình trước toà. Tuy nhiên
ở đây toà án vẫn là người có thẩm quyền cuối cùng trong việc giải quyết đưa
ra vụ án ra xét xử công khai hoặc xử kín. Vì vậy, một số nguyên tắc cơ bản
của tố tụng kinh tế có một vài nguyên tắc được xem xét từ góc độ riêng đó là:
1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự.
Nguyên tắc này được ghi nhận tại điều 1,2 pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế ngày 16-03-1994. Đây là nguyên tắc cơ bản của tố tụng kinh
tế nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tù do hợp đồng theo pháp
luật( được ghi nhận trong hién pháp năm 1992), khi công dân được tự do kinh
doanh, tù do hợp đồng theo pháp luật. Do đó khi tranh chấp kinh tế họ cũng
phải được quyền tự do định đoạt việc giải quyết tranh chấp kinh tế đó. Nhà
nước không can thiệp vào hoạt động kinh doanh đúng pháp luật, khi xảy ra
tranh chấp toà án chỉ tham gia giải quyết nếu các đương sự yêu cầu. Việc yêu
cầu toà án giải quyết tranh chấp là quyền của các chủ thể kinh doanh. Các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội không có quyền khởi kiện khởi tố các tranh
chấp kinh tế. Quyền tự định đoạt của đương sự được thể hiên ở những quyền

sau:
- Quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện.
- Quyền tự hoà giải trước toà.
- Quyền thay đổi nội dung vụ kiện.
- Quyền đề xuất, bổ sung chứng cứ.
- Quyền rót đơn kiện trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng.
Trong toàn bộ các quyền kể trên thì quyền khởi kiện hoặc không khởi
kiện là quan trọng nhất. Bởi vì toà án chỉ giải quyết trên cơ sở có đơn kiện của
các bên (nếu sự việc không được các bên thoả thuận trước là phải giải quyết
theo thủ tục trọng tài) và chỉ đưa ra phán quyết nếu các bên không thể hoà
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
giải, thương lượng với nhau. Ngoài ra đương sự cũng có quyền thay đổi, bổ
sung phạm vi nội dung yêu cầu toà án giải quyết, đề xuất, bổ sung chứng cứ,
có quyền hoà giải ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng toà kinh tế.
Mặc dù vậy, kinh doanh vẫn là một công việc có tính chất riêng tư, các
tranh chấp kinh tế phát sinh trong quan hệ kinh doanh phải do chính các nhà
doanh nghiệp tự quyết định. Trong nền kinh tế thị trường, các bên tham gia
vào quan hệ kinh tế nhằm mục đích là làm sao kiếm được nhiều lợi nhuận
cao nhất trên cơ sở phát huy mối quan hệ kinh doanh tốt đối với các bạn hàng,
mở rộng thị trường và tạo uy tín lớn. Do đó khi phát sinh tranh chấp xảy ra
việc đưa ra toà án giải quyết phải được các bên cân nhắc kỹ lưỡng. Bởi vì khi
công khai các tranh chấp kinh tế ra trước toà thì đồng nghĩa với việc làm giảm
uy tín của họ trên thương trường. Mặt khác sẽ kéo hàng loạt các hậu quả đó
đã không Ýt doanh nghiệp thương gia sẵn sàng hy sinh một số quyền lợi của
mình để lấy lại bạn hàng và lợi nhuận.
Trong pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp vụ án dân sự có quy định
một số trường hợp Viện kiểm soát, tổ chức xã hội được quyền khởi tố vì lợi
Ých chung. Đó là những trường hợp:
- Vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc bảo

vệ quyền lợi người lao động, kết hôn trái pháp luật xác định cha mẹ cho con
chưa thành niên ngoài giá thó.
- Xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi người chưa thành niên hoặc người
có nhược điểm về thể chất và tinh thần.
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế không quy định quyền
khởi kiện của tổ chức xã hội, quyền khởi tố của Viện kiểm soát vì lợi Ých
chung. Bởi vì tranh chấp kinh tế khởi kiện hoặc không khởi kiện là do doanh
nghiệp. Ngoài ra vi phạm trong tranh chấp kinh tế chủ yếu liên quan đế tài sản
có giá trị lớn mà Ýt liên quan đến các vấn đề nhân thân của doanh nghiệp.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
Nguyên tắc tự định đoạt trong tố tụng toà án kinh tế có phạm vi rộng
hơn. Trong khi việc rút đơn kiện của đương sự trong tố tụng dân sự không
làm ảnh hưởng tới quyết định cuối cùng của toà án thì tố tụng toà án kinh tế
lại cho phép đương sự tự quyết định tất cả. Lý giải được sự khác biệt này ta
thấy các tổ chức kinh tế chủ yếu liên quan đến vấn đề tài sản yếu tố hoàn toàn
mang tính chất cá nhân, trong khi tranh chấp dân sự liên quan tới các yếu tố
về nhân thân. Do đó điều tất yếu là quyền tự định đoạt trong tố tụng toà án
kinh tế phải rộng hơn.
2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền cơ bản của công dân
được ghi nhận trong điều 52 của hiến pháp 1992. Quyền này được cụ thể hoá
trong nhiều văn bản pháp luật trong đó có Bộ luật tố tụng hình sự và pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Việc cụ thể hoá quyền bình đẳng
trước pháp luật trong tố tụng kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ,vì nó còn
thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Khi các doanh nghiệp, người kinh doanh tham gia tố tụng kinh tế thì
không có sự phân biệt đó là doanh nghiệp nhà nước, công ty, hợp tác xã,
doanh nghiệp tư nhân, người kinh doanh nhỏ các bên đều có quyền và nghĩa
vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.

Sự bình đẳng này là sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ không chỉ đơn
thuần trong phạm vi hợp pháp giữa các chủ thể tranh chấp mà phải hiểu trong
phạm vi rộng là giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
với nhau không một cá nhân, một cơ sở sản xuất kinh doanh nào có đặc quyền
đặc lợi trước toà án. Họ đều ở vị trí bình đẳng về tố tụng, họ đều phải tuân
theo pháp luật và nếu có hoặc vi phạm thì xã hội bị sử lý theo pháp luật.
Nguyên tắc bình đẳng trong tố tụng kinh tế đảm bảo cho việc xét xử của
toà kinh tế được công bằng, đúng pháp luật nhằm khuyến khích các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng và mọi thành phần kinh tế nói chung
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
mạnh dạn đầu tư vào hoạt động sản xuất ,kinh doanh. Vì vậy, nó có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường ở
nước ta mà thời kỳ bao cấp trước đây chưa bao giê có.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
3. Nguyên tắc xét xử công khai(trừ trường hợp cần giữ bí mật nhà
nước hoặc giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ).
Xuất phát từ nguyên tắc hiến định đối với hoạt động của toà án là xét xử
công khai ghi nhận tại điều 131 hiến pháp 1992 xét xư công khai là nguyên
tắc của toà hình sự, dân sự, vì việc xét xử của toà án. Ngoài mục đích bảo vệ
quyền và lợi Ých hợp pháp của đương sự nó còn có ý nghĩa giáo dục việc
tuân theo pháp luật.
Điều 7 pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế quy định: Trừ trường hợp
cần thiết để giữ bí mật nhà nước hoặc đương sự theo yêu cầu của họ, còn xét
xử công khai là nguyên tắc của toà án.
Bí mật của đương sự ở đây được hiểu là bí mật kinh doanh như phát
minh, sáng chế, bí quyết về kinh doanh… có liên quan trực tiếp đến hiệu quả
hoạt động của người kinh doanh . Nếu các bí quyết đó bị tiết lé có thể làm
doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh hoặc có thể bị phá sản. Vì vậy,

họ yêu cầu toà án xét xử kín. Đây là một nguyên tắc thể hiện tính mềm dẻo,
linh hoạt của tố tụng kinh tế, phù hợp với nhu cầu và tâm lý của các bên
đương sự.
Tuy nhiên, ở đây toà án vẫn là người có thẩm quyền cuối cùng trong việc
quyết định đưa ra vụ án xét xử công khai hoặc xét xử kín.
4. Nguyên tắc toà án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu
thập chứng cứ.
Khi giải quyết các vụ án kinh tế, toà án chủ yếu căn cứ vào các chứng cứ
mà đương sự đưa ra, các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong trường hợp quyền lợi bị vi phạm
mà đương sự không yêu cầu toà án giải quyết thì toà án không có trách nhiệm
giải quyết.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
Toà án sẽ tiến hành theo các bên trình bày và xác minh các chứng cứ.
Toà án không tiến hành xét hỏi như tố tụng hình sự. Các bên có quyền và
nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là cần thiết, toà án không bắt buộc
phải thu thập thêm chứng cứ trừ khi thấy cần thiết để làm rõ thêm yêu cầu của
các bên để giải quyết vụ án được chính xác.
5. Nguyên tắc hoà giải.
Nguyên tắc này là một nguyên tắc xuất phát từ quyền tự định đoạt của
các đương sự. Vì họ có quyền tự định đoạt mọi vấn đề có liên quan đến việc
bảo vệ lợi Ých hợp pháp của mình từ việc yêu cầu toà án xét xử đến việc
quyết định nội dung yêu cầu toà án giải quyết. Do đó hơn ai hết họ phải được
quyền tự quyết định thương lượng, hoà giải với nhau để cùng tìm một biện
pháp giải quyết. Hoà giải là việc các bên tự thương lượng giải quyết với nhau
về tranh chấp mà không cần có phán quyết của toà án. Nguyên tắc này còn
xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án kinh tế. Tuy nhiên, khi đã yêu cầu cơ
quan toà án can thiệp rồi, các đương sự vẫn có thể tiến hành hoà giải với sự
hướng dẫn, công nhận của toà án. Chỉ khi hoà giải không thành công toà án

mới đưa vụ án ra xét xử và ngay cả trong phiên toà, thẩm phán cũng cố gắng
để hai bên đạt được sự hoà giải với nhau.
Với nội dung này, nguyên tắc hoà giải trong tố tụng kinh tế rông hơn
nguyên tắc hoà giải trong dân sự. Sở dĩ có hiện tượng này là do quyền tự định
đoạt của đương sự nên kéo theo nguyên tắc hoà giải cũng được áp dụng rộng
hơn nhằm mục đích làm giảm đi những mâu thuẫn căng thẳng, giảm phí tổn
thời gian trong quá trình tè tụng giữa các bên tranh chấp.
6. Nguyên tắc giải quyết các vụ án kinh tế nhanh chóng kịp thời
Xuất phát từ nhu cầu của kinh doanh không thể kéo dài trong môi
trơường kinh tế năng động, thời gian đối với các nhà kinh doanh có ý nghĩa
sống còn và nói chung các nhà kinh doanh hầu hết là những người có trình độ
hiểu biết. Vì vậy, khi có tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, các
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
nhà kinh doanh cần ở các cơ quan giải quyết tranh chấp không những giải
quyết phải đúng pháp luật, thấu tình đạt lý mà còn phải đảm bảo nhanh chónh
kịp thời và dứt điểm tránh dây dưa kéo dài và gây lãng phí thời gian tiền của.
Do đó pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế được quy định đơn giản
hơn là pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự cũng chính là quá trình giải
quyết nhanh chóng các vụ án kinh tế. Toà án không cần giai đoạn điều tra thu
thập xác minh chứng cứ, hạn chế thấp nhất việc quay vòng vụ án đã xét xử
nhiều lần việc giải quyết nhanh chóng còn thể hiện trong các quy định khác
như: rút ngắn các thời hiệu thời hạn, hạn chế việc giao vụ án bị kháng cáo,
kháng nghị để xem xét lại.
Như vậy, với quy như trên thì nguyên tắc toà án xét xử nhanh chóng, kịp
thời các vụ án kinh tế là một nguyên tắc tiến bộ nếu được toà án quán triệt sâu
sắc trong hoạt động xét xử thì nó sẽ góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ
quyền lợi của các nhà kinh doanh, hạn chế những hậu quả không tốt có thể
xảy ra với họ.
Tóm lại: qua sự phân tích 6 nguyên tắc của tố tụng kinh tế trên ta có thể

nhận thấy rằng đó chính là những nguyên tắc rất cơ bản nhằm chi phối và
xuyên suốt toàn bộ quá trình hoạt động tè tụng của toà kinh tế từ cấp trung
ương, đến địa phương cho hoạt động xét xử được thống nhất và có hiệu quả
trong điều kiện kinh tế xã hội của nước ta hiện nay.
III. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ.
Quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế trước toà án gọi là tố tụng kinh tế.
Tố tụng kinh tế là tất cả các hình thức và thủ tục được pháp luật quy định về
việc giải quyết các tranh chấp kinh tế trước toà.
Về trình tự giải quyết các vụ án kinh tế chính là các bước các khâu pháp
luật quy định cho các đương sự và cơ quan toà án phải thực hiện như: khởi
kiện, điều tra xác minh tài liệu chứng cứ tiến hành hoà giải tại phiên toà, mở
phiên toà sơ thẩm nếu các bên đồng ý với bản án đó thì bước sang giai đoạn
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án
Luận văn tốt nghiệp Không được cóplớp K36 Luật
thi hành án, nếu còn kháng cáo kháng nghị bản án sơ thẩm thì phải tiến hành
các thủ tục để xét xử phóc thẩm.
Khi vụ án kinh tế đã có hiệu lực mà các bên vẫn chưa thoả mãn thì có
quyền khiếu nại đề nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong trường hợp phát
hiện ra những tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án thì những
người có thẩm quyền có thể kháng nghị để xét xử theo thủ tục tái thẩm để
đảm bảo các nguyên tắc khách quan công bằng trong quá trình giải quyết các
tranh chấp kinh tế.
Trên đây điểm qua các giai đoạn hoạt động tè tụng của toà án nhằm giải
quyết các vụ án kinh tế, tranh chấp kinh tế phát sinh tại toà kinh tế được Quốc
hội thông qua ngày 16-3-1994 và có hiệu lực pháp luật 17-4-1994.
1.Những quy định về khởi kiện và thụ lý vụ án kinh tế.
a.Quyền khởi kiện vụ án kinh tế.
Khi quyền và lợi Ých hợp pháp của người kinh doanh có tranh chấp hay
bị vi phạm, người kinh doanh có quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi
Ých hợp pháp do pháp luật quy định. Theo quy định tại điều 1 pháp lệnh thủ

tục giải quyết các vụ án kinh tế 16-3-1994: cá nhân, pháp nhân do pháp luật
quy định có quyền khởi kiện vụ án kinh tế để yêu cầu toà án bảo vệ quyền và
lựi Ých hợp pháp của mình. Như vậy, quyền khởi kiện một vụ án kinh tế là
quyền của cá nhân hoặc pháp nhân có đủ tư cách của một chủ thể kinh doanh
và có quyền và lợi Ých hợp pháp bị tranh chấp hoặc bị xâm phạm.
Quyền khởi kiện vụ án kinh tế là quyền tố tụng của các nhà kinh doanh
họ yêu cầu toà kinh tế bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp trong kinh doanh.
Khi có vụ án kinh tế phát sinh thì không thể thiếu điều kiện khởi kiện của cá
nhân hay pháp nhân với tư cách là chủ thể của quyền khởi kiện được quy định
trong pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
Giải quyết tranh chấp bằng con đường toà án

×