Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Những vấn đề cơ bản về quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.25 KB, 39 trang )

Chuyên đề 1: NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Câu 2: Phân tích cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”?
Trả lời:
Cơ chế là sự vận hành tổng hợp của các yếu tố trong một sự vật theo một nguyên tắc
nhất định, để sự vật đó tồn tại và phát triển đúng như bản chất vốn có của nó. Sự vận hành
cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là bảo đảm mở rộng và thực
thi có hiệu quả nền dân chủ XHCN, làm cho mọi quyền lực xã hội đều thuộc về nhân dân.

Hệ thống chính trị nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong đó, Đảng Nhà nước - nhân dân là ba bộ phận cơ bản, ba chủ thể chủ yếu tạo nên chế độ xã hội và hệ
thống chính trị ở Việt Nam. Được gắn kết với nhau theo những quan hệ, cơ chế và nguyên tắc
nhất định trong một môi trường văn hóa chính trị đặc thù. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân luôn được Đảng ta quan tâm xây dựng phát triển và củng cố.
Đảng lãnh đạo - yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự vận hành cơ chế có hiệu quả.
Vai trò lãnh đạo của Đảng không tự nhiên mà có và không phải cứ tự nhận mà được. Vai
trò đó đã được thử thách, kiểm nghiệm trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước
trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhân dân
Việt Nam thừa nhận, tin tưởng trao cho Đảng vai trò lãnh đạo toàn xã hội và dân tộc.
Trong các bản Hiến Pháp Hiến Pháp 1946,1959,1980,1992,2013 đều Khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng Trong Hiến pháp. Từ HP 1980 đến nay. Sự lãnh đạo của Đảng không chỉ
được tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp mới mà sự hiến định ấy con được làm sâu sắc và toàn
diện hơn. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả
dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân
dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về
những quyết định của mình. 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.". Quy định của Hiến pháp năm 2013 là kế



thừa quy định tại điều 4 Hiến pháp 1992, đồng thời bổ sung quy định làm rõ bản chất của Đảng
theo tinh thần mới của Cương lĩnh. Chính do bản chất và nền tảng tư tưởng đó nên nhân dân
mới thừa nhận vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng và được tiếp tục ghi nhận long
trọng vào Hiến pháp năm 2013.
Tuy nhiên, hiện nay, Đảng đang đứng trước nhiều thách thức, nguy cơ phải vượt qua.
Đảng ta là Đảng cầm quyền; Đảng không chấp nhận đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập là
quyết định hoàn toàn đúng đắn. Để đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng hoàn toàn phù hợp yêu
cầu của đất nước, cần có nhiều yếu tố, trong đó vai trò phản biện xã hội là hết sức quan trọng.
Bởi lẽ, nếu không có sự phản biện xã hội sẽ dễ dẫn đến sự chủ quan, duy ý chí; đường lối chính
trị dễ bị sai lầm; hành động thực tế dễ bị độc đoán, làm mất dân chủ trong xã hội và không bảo
đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, không bảo đảm và phát huy tốt vai trò quản lý của
Nhà nước. Cùng với đó, Đảng phải phòng và chống nguy cơ thoái hoá, biến chất và chiến lược
“Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Sự lãnh đạo của Đảng hơn 80 năm qua đã đảm bảo cho dân tộc ta giành được những
thành tựu vô cùng to lớn; nhưng, những thành tựu đó có thể không còn ý nghĩa, nếu Đảng bị
suy thoái và không còn giữ được vai trò lãnh đạo đối với dân tộc; khi đó mọi thành quả cách
mạng mà Đảng và nhân dân ta đã giành được bằng bao xương, máu, mồ hôi và nước mắt, phút
chốc sẽ đổ xuống sông, xuống biển; lúc đó, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ” cũng bị tiêu tan. Đây là lý do để khẳng định: Đảng đóng vai trò tiên quyết cho sự
tồn tại, vận hành có hiệu quả của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”.
Nhà nước quản lý - yếu tố quyết định trực tiếp sự thành công trong vận hành cơ chế.
Nhà nước của chúng ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để bảo đảm và phát huy
vai trò quản lý của Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền? Về lý luận, trong
nhà nước pháp quyền thì pháp luật chiếm vị trí, vai trò tối thượng đối với mọi mặt của đời sống
xã hội. Ở Việt Nam, do tính chất XHCN, Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng thì có mâu
thuẫn với nhà nước pháp quyền không? Câu trả lời là không! Bởi lẽ, bên cạnh lãnh đạo đất
nước thông qua cương lĩnh, chủ trương, đường lối; sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội có

nhiều nội dung được thể chế hoá qua hoạt động của Nhà nước. Trong công tác cán bộ, Đảng
thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị. Điều đó là hoàn toàn
phù hợp; bởi vì, ĐCSVN là Đảng cầm quyền, là hạt nhân, là cơ quan lãnh đạo của hệ thống


chính trị. Tuy nhiên, để hoàn thành trọng trách đó, Đảng phải không ngừng đổi mới phương
thức lãnh đạo, vừa bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, vừa bảo đảm cho Nhà nước hoạt
động theo đúng chức năng của mình; trong đó, mọi công dân, mọi tổ chức và bản thân Đảng
phải hoạt động theo đúng khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; Điều lệ, nghị quyết của Đảng phải
đúng với Hiến pháp và pháp luật.
Để cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” vận hành có hiệu quả, đòi
hỏi Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Nhân dân là yếu
tố trung tâm của mọi quyền lực, là cội nguồn của mọi sức mạnh. Vì vậy, mọi biểu hiện xa dân,
coi thường dân, ức hiếp dân, gây phiền phức cho dân... đều là những biểu hiện của quá trình
Đảng tự suy yếu, làm lỏng lẻo, thậm chí phá vỡ cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ”. Cùng với đó, Nhà nước phải làm tốt chức năng lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Trong xã hội hiện đại, Nhà nước còn làm các dịch vụ xã hội để giữ ổn định chính trị-xã
hội và làm cho xã hội phát triển bền vững Nhà nước quản lý trên tất cả các lĩnh vực đối với tất
cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội trên tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử
dụng 3 nhánh quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi
ích chung của cả cộng đồng duy trì ổn định an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo
định hướng thống nhất của nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước; đội ngũ cán bộ, công chức,
nhất là cán bộ chủ chốt hầu hết là đảng viên, đều chịu sự quản lý của các tổ chức Đảng tương
ứng. Nhưng không vì thế mà Nhà nước hoạt động một cách thụ động; Nhà nước mạnh thì Đảng
cầm quyền mới mạnh, và ngược lại; Nhà nước mạnh thì quyền làm chủ của nhân dân mới được
bảo đảm và phát huy. Nhà nước và hoạt động của nó ngày càng nhận được sự ủng hộ của mọi
tầng lớp nhân dân thì hiệu quả hoạt động càng cao, xã hội càng thể hiện tính chất dân chủ...
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN với nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn, thách thức. Để tiếp tục vận hành có hiệu
quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Đảng và Nhà nước cần tập

trung thực hiện tốt những vấn đề cơ bản sau đây:
Trước hết, cần thể chế hoá bằng pháp luật mọi chủ trương, đường lối của Đảng, tạo cơ
sở để thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Thứ hai, phải tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp thể hiện quyền làm chủ trong hoạt
động của Đảng và Nhà nước.


Thứ ba, cần xác định thật rõ những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Có thể nêu lên ở đây một số nội dung cơ bản cần phải quy định rõ, như: Nhà nước quản
lý xã hội dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật; mọi hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội
(kể cả tổ chức đảng) đều phải tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước phải chịu sự lãnh
đạo của Đảng và sự lãnh đạo ấy phải được thể chế bằng luật định. Cấu tạo quyền lực của Nhà
nước cũng như hoạt động của nó phải bảo đảm tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân;
nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu do mình bầu ra, nếu
đại biểu đó mất tư cách và không làm tròn nhiệm vụ; Nhà nước tôn trọng và khuyến khích sự
hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội theo đúng luật định; Nhà nước có chức năng quản lý
xã hội; đồng thời, có chức năng tổ chức các dịch vụ xã hội nhằm đáp ứng, chăm lo tất cả mọi
yêu cầu của nhân dân. Đây chính là sự biểu hiện rõ ràng nhất vai trò: “Nhà nước của dân, do
dân, vì dân”; đồng thời, cũng là điểm biểu hiện rõ ràng tư cách “Nhân dân làm chủ” trong cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Nhân dân làm chủ - yếu tố trung tâm của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ”.
Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này biểu hiện ở chỗ: quyền lực của Đảng và Nhà
nước đều từ quyền lực của nhân dân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định
rõ: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm:
cách mạng là sự nghiệp chung của cả dân chúng Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) là do dân lập nên để phục vụ nhân dân.
Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cũng như các bản Hiến pháp sau này (1959,
1980, 1992, và đặc biệt tại khoản 2, điều 2 Hiến Pháp 2013 cũng đã khẳng định rõ: Nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Nhờ vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn phát huy được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân
để tiến hành đấu tranh giành và giữ vững độc lập, tự do của dân tộc và ngày nay đang tiến hành
thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong giai đoạn
hiện nay nhà nước đã có nhiều cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện quyền làm
chủ của mình thông qua hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Tuy nhiên, trong
thực tế, có lúc, có nơi vai trò làm chủ của nhân dân vẫn còn mờ nhạt. Việc nhân dân tham gia
xây dựng Đảng chưa được nhiều, hiệu quả chưa cao, nhất là việc góp ý kiến, giám sát, kiểm


định đường lối, chủ trương của Đảng cũng như đối với cán bộ, đảng viên nơi công tác và nơi cư
trú. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp trong lựa chọn, bầu đại biểu Quốc hội và Quốc
hội cấu tạo các cơ quan Nhà nước để thay mặt mình quản lý xã hội, mới chủ yếu thông qua hiệp
thương; trong thực tế ở một số nơi, quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm nghiêm trọng...
Đây chính là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần phải nghiên cứu, giải quyết, nhằm phát huy
tốt hơn nữa vai trò làm chủ của nhân dân.
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là sản phẩm tất yếu của lịch
sử phát triển của dân tộc Việt Nam, đảm bảo cho sự thành công của công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Xây dựng, hoàn thiện và phát huy đầy đủ cơ chế đó là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, mà trước hết là của cấp uỷ, chính quyền các
cấp.

Câu 4: Phân tích các đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN và chỉ ra sự
khác biệt giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền XHCN?
*Khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công và phối hợp
khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, đồng thời có cơ chế kiểm soát
quyền lực. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp
luật có tính nhân đạo, công bằng, vì lợi ích chính đáng của con người.

Tuy nhiên, với mỗi chế độ chính trị có hình thức biểu hiện của nhà nước pháp quyền
không giống nhau. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước XHCN thực sự của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo
đảm tính tối cao của Hiến Pháp, quản lý xã hội theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và hạnh
phúc của nhân dân do Đảng tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đồng thời chịu trách
nhiệm trước nhân dân và sự giám sát của nhân dân.
*. Những đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN
Nhà nước pháp quyền XHCN có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân:
Phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra ngày càng được đưa vào cuộc
sống. Nhà nước đưa ra nhiều cơ chế và quy định để thừa nhận và đảm bảo cho nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình thông qua hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Để


xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân. Mà nền tảng quyền lực của nhà nước là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức.
Ví dụ: Nhà nước ban hành và thừa nhận hàng loạt các văn bản luật như Luật tiếp công
dân 2013, Luật khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011, luật trưng cầu ý dân 2015, Luật tổ chức quốc
hội 2014, Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015…
- Nhà nước pháp quyền XHCN được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam phản ánh đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, vì vậy, đó là thước đo giá trị phổ biến trong xã hội và cần
phải trở thành công cụ để quản lý của nhà nước.
Nhà nước pháp quyền XHCNVN là nhà nước phải có hệ thống pháp luật đồng bộ,hoàn
chỉnh, chất lượng cao thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội, trong đó Hiến pháp và các đạo luật
phải giữ vị trí tối cao. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cán bộ, công chức nhà nước và mọi
thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, lấy pháp luật làm chuẩn mực cao nhất để quản lý hành vi của cá nhân và tổ chức trong xã
hội.
- Đó là nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc
của con người, bảo đảm trách nhiệm giữa nhà nước và công dân, thực hiện dân chủ gắn với
tăng cường kỉ cương, kỉ luật.
Nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp của công dân.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh. Kịp thời
mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp
pháp của nhân dân. Ngăn ngừa sự tùy tiện từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà
nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan vô kỉ luật, kỉ cương bảo đảm hiệu lực và hiệu
quả hoạt động của nhà nước. quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được nhà nước bảo đảm
và bảo vệ trọn vẹn. Nhà nước bảo đảm mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là bình đẳng.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực hiện được quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng
cường được pháp chế trong xã hội, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, bảo đảm thực


hiện và bảo vệ được các quyền tự do và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, chịu trách
nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Chất lượng cuộc sống của nhân dân chính
là một thước đo hiệu lực và hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền
XHCNViệt Nam của dân, do dân và vì dân.
- Đó là nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong quá
trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Tại khoản 3 điều 2 Hiến pháp 2013 cũng đã khẳng định:
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Khác với Việt Nam các quốc gia trên thế giới áp dụng triệt để học thuyết tam quyền phân
lập của Montesquieu. Phân quyền cứng rắn về quyền lực, 3 nhánh Lập pháp - Hành pháp - Tư
pháp tồn tại độc lập với nhau, kiềm chế đối trọng lẫn nhau như ở Hoa kỳ.

=> Đây chính là đặc trưng về cách thức tổ chức quyền lực của nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
- Đó là nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám
sát của nhân dân, sự giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên của mặt trận.
Đảng cộng sản VN là đảng duy nhất lãnh dạo toàn diện và tuyệt đối hệ thống chính
trị. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở các hình thức sau: định ra chiến lược, mục tiêu cơ bản,
đường lối chính sách phát triển XH làm cơ sở cho các hoạt động của các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Đảng tiến hành kiểm tra các hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
đường lối chính sách của Đảng. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là đặc điểm đặc trưng, cơ bản, rất quan trọng mang tính lý
luận và đã được kiểm chứng bằng thực tế lịch sử của CM Việt Nam. Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tại điều 4 ghi rõ: “ Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân


dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của
mình”.
Đảng đã bố trí cán bộ, đảng viên của mình giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy
chính quyền các cấp, nhờ đó, giữ vững được sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng
đối với hệ thống chính trị. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, nhất là trước các bước ngoặt
lịch sử, Đảng ta luôn luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành và sáng tạo,
nêu cao tính độc lập tự chủ, trước hết ở việc xác định và tổ chức thực hiện Cương lĩnh,
đường lối cách mạng đúng đắn và có hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước VN tiếp tục có những bước phát triển mới, xứng đáng là một nhà nước kiểu mới - Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đáp ứng
sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh 5 đặc điểm trên một số tài liệu còn có thêm một đặc điểm nữa:
- Đó là nhà nước thực hiện đường lối, hòa bình, hữu nghị với nhân dân các dân tộc
và các nhà nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ của nhau không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi đồng thời tôn
trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước, hiệp ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê
chuẩn.
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương: Mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định cho sự phát
triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất
nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền XHCN VN thể hiện những tư tưởng quan
điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước mơ và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình
đẳng trong một xã hội còn giai cấp.
• Sự khác biệt giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền XHCN:


Tiêu chí phân biệt Nhà nước pháp quyền XHCN
1. Bản chất, nội Quốc hội

Nhà nước pháp quyền tư sản
Nghị Viện

dung tổ chức, xây Chủ tịch nước

Tổng thống

dựng, vận hành Thừa nhận tất cả quyền lực nhà Thừa nhận quyền lực của cá

Bộ máy nhà nước nước thuộc về nhân dân, do nhân nhân Tổng thống hoặc cá nhân
dân bầu ra các cơ quan quyền lực

Thủ tướng có quyền giải tán

Chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc Nghị viện, Quốc hội hoặc giải tán
thông qua các đại biểu của mình là Chính Phủ.
chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố
chấm dứt hoạt động củ QH, CP
hoặc tổ chức ra QH, CP nhiệm kỳ
mới
2. Cách thức tổ Quyền lực nhà nước là thống nhất Coi thuyết tam quyền phân lập là
chức quyền lực có sự phân công, phối hợp và kiểm học thuyết cơ bản trong việc thực
nhà nước

soát giữa các cơ quan nhà nước hiện quyền lực nhà nước các cơ
trong việc thực hiện các quyền Lập quan lập pháp, hành pháp, tư
Pháp – Hành Pháp – Tư Pháp

pháp hoàn toàn độc lập, kiềm chế

đối trọng lẫn nhau.
3. Bản chất nhà Thể hiện ý chý, nguyện vọng, bảo vệ Thể hiện ý chý, bảo vệ quyền lợi
nước

quyền lợi của toàn thể nhân dân, của một bộ phận nhân dân đó là
Thuộc tính xã hội nhiều hơn thuộc giai cấp cầm quyền, giai cấp tư

tính giai cấp
sản. Thuộc tính giai cấp cao

4. Hệ thống pháp Chỉ công nhận các quy phạm pháp Bên cạnh pháp luật thành văn,
luật

luật khi nó được xác lập và thông nhà nước còn thừa nhận, co án
qua theo một trình tự, thủ tục nhất lệ, tập quán như một loại quy

5. Chế độ Sở hữu

định
Công hữu về tư liệu sản xuất

phạm pháp luật bất thành văn
Tư hữu về tư liệu Sản xuất

Thừa nhận đất đai thuộc sở hữu Thừa nhận đất đai thuộc sở hữu
toàn dân, nhà nước là đại diện chủ tư nhân
sở hữu


Chuyên đề 3: CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC
Câu 4: Những khó khăn trong thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi của công chức ở Việt
Nam hiện nay?
Nghĩa vụ của người làm việc trong các cơ quan nhà nước nói chung và công chức nói riêng
là những gì nhà nước bắt buộc người làm việc cho mình phải tuân thủ và đó cũng chính là những
gì người làm việc cho nhà nước cam kết phải thực hiện khi họ trở thành thành viên của các cơ
quan nhà nước. Đó là những nghĩa vụ này mang tính đơn phương, do nhà nước quy định và
người lao động phải cam kết tuân theo. Những nghĩa vụ đó mang tính pháp lý và không phải là
một sự thoả thuận giữa nhà nước và người làm việc cho nhà nước. Nếu như với các tổ chức, bên
cạnh những quy định mang tính chất chung của pháp luật, người sử dụng lao động và người lao
động có thể đi đến thoả thuận một số nội dung mang tính quy chế lao động, trong khi đó đối với

cơ quan nhà nước những quy chế đó đã hình thành từ trước và người lao động muốn tham gia
làm việc phải cam kết thực hiện.
Tuy nhiên trong thực hiện nghĩa vụ của công chức cũng có những khó khăn chúng ta có thể
kể đến Khó khăn do khách quan mang lại và khó khăn do chủ quan cán bộ công chức thực hiện
nghĩa vụ gặp phải.
* Những khó khăn khách quan khi thực hiện nghĩa vụ:
+ Một số đơn vị người lãnh đạo còn lạm dụng chức quyền trong quá trình quản lý;
+ Văn bản quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của công chức chưa rõ ràng cụ
thể, dẫn đến tình trạng các công chức ỷ nại, đùn đẩy, khó quy kết được trách nhiệm gây mất
đoàn kết nội bộ.
+ Khâu lựa chọn bố trí, tuyển dụng thực hiện chưa tốt, còn tuyển dụng ồ ạt, con ông
cháu cha… chưa thực hiện đúng nguyên tắc tương xứng với yêu cầu công việc.
+ Quy trình, thủ tục thực thi, giải quyết công việc còn rườm rà hoặc không thực chất
+ Định mức công việc, tiêu chí, đo lường, đánh giá năng lực của cán bộ, công chức
chưa cụ thể, khó định lượng và phương pháp đánh giá chưa đa dạng
+ Sự hiện hữu của những xung đột trong tổ chức.
+ Trình độ nhận thức của một bộ phận nhân dân còn hạn chế, gây khó khăn trong quá
trình thực thi công vụ.


Những khó khăn chủ quan khi thực hiện nghĩa vụ:
+ Phẩm chất, năng lực đạo đức của một bộ phận công chức không đáp ứng được công
việc, chưa thật sự cố gắng trong công việc còn tồn tại tâm lý hách dịch không tôn trọng, tận
tụy phục vụ nhân dân.
+ Cán bộ, công chức còn chưa nắm vững được nghĩa vụ của mình dẫn đến thực hiện
không đúng, hoặc không thực hiện.
+ Lợi dụng kẽ hở của pháp luật nhiều công chức ỷ nại, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau
trong quá trình thực thi công vụ.
+ Tính tích cực tự giá không cao chưa chủ động phối hợp, đoàn kết với nhau trong giải
quyết công việc giữa các đơn v trong cùng cơ quan và giữa các cơ quan với nhauị.

+ Năng lực, kiến thức chuyên môn vẫn còn nhiều hạn chế, chưa hiểu rõ và nắm vững
các quy định pháp luật trong giải quyết công việc dẫn đến sai phạm.
+ Ý thức của cá nhân đôi lúc chưa cao dẫn đến việc chấp hành nội quy, quy chế, bảo vệ
quản lý sử dụng hiệu quả tiết kiệm tài sản công chưa tốt. còn có tâm lý của chung không ai
tiếc.
* Những khó khăn khi thực hiện quyền của công chức
Khó khăn khách quan:
Hệ thống văn bản quy định về quyền của công chức còn chưa đồng bộ, rõ ràng, quy
định còn rải rác ở nhiều văn bản, khiến cho đội ngũ công chức chưa nắm bắt kịp thời và
hiểu rõ quyền bản thân được hưởng.
+ Nguồn ngân sách chi trả lương và các khoản phụ cấp, đào tạo, bồi dưỡng cho đội
ngũ công chức còn eo hẹp.
+ Môi trường làm việc còn nhiều hạn chế, Trang thiết bị và các điều kiện làm việc đã
được quan tâm tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng hết được yêu cầu công việc.
+ Thực hiện bình đẳng giới chưa tốt.
+ Khó khăn hạn chế về quy hoạch, chỉ tiêu đào tạo
+ Quỹ đất hỗ trợ cho công chức có nhà ở, phương tiện đi lại còn eo hẹp chưa đáp ứng
nhu cầu.


+ Thời gian học tập của công chức không nhiều dẫn đến chất lượng không cao. Do vừa
học vừa làm.
Những khó khăn chủ quan:
+ Trình độ, năng lực phẩm chất đạo đức của công chức còn hạn chế chưa đáp ứng
yêu cầu công việc;
+ Nhiều công chức không cố gắng học tập, trau rồi nâng cao trình độ, chuyên môn;
+ Chưa nắm vững các văn quyền bản thân được hưởng
Hoạt động cung cấp thông tin tại cơ quan đơn vị cho công chức thực hiện chưa tốt,
nhiều công chức không nắm rõ được nhiệm vụ, quyền hạn của bản thân.
2.2. Nghĩa vụ, quyền và quyền lợi của công chức

2.2.1 Nghĩa vụ của công chức
a) Những quy định chung
Nghĩa vụ của người làm việc trong các cơ quan nhà nước nói chung và công chức nói riêng
là những gì nhà nước bắt buộc người làm việc cho mình phải tuân thủ và đó cũng chính là những
gì người làm việc cho nhà nước cam kết phải thực hịên khi họ trở thành thành viên của các cơ
quan nhà nước. Đó là những nghĩa vụ này mang tính đơn phương, do nhà nước quy định và
người lao động phải cam kết tuân theo. Những nghĩa vụ đó mang tính pháp lý và không phải là
một sự thoả thuận giữa nhà nước và người làm việc cho nhà nước. Nếu như với các tổ chức, bên
cạnh những quy định mang tính chất chung của pháp luật, người sử dụng lao động và người lao
động có thể đi đến thoả thuận một số nội dung mang tính quy chế lao động, trong khi đó đối với
cơ quan nhà nước những quy chế đó đã hình thành từ trước và người lao động muốn tham gia
làm việc phải cam kết thực hịên.
Ở các quốc gia khác nhau, do thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế, điều kiện văn
hóa, xã hội khác nhau mà có quy định khác nhau về nghĩa vụ của công chức. Nhưng nhìn chung
các nghĩa vụ đó thường bao gồm các nghĩa vụ trung thành đối với Nhà nước, nghĩa vụ trong
thực thi công vụ, trong mối quan hệ với cấp trên, nghĩa vụ trong mối quan hệ với nhân dân.
Trong văn bản pháp luật, các nước đều xác định khá chi tiết và cụ thể các nghĩa vụ này. Một số
nước công chức còn có nghĩa vụ đọc lời thề khi gia nhập công vụ. Nếu công chức từ chối đọc
thì sẽ bị thải hồi.
Ở Việt Nam, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã xác định rõ nghĩa vụ của cán bộ công
chức bao gồm các nhóm nghĩa vụ: trung thành với Đảng, với nhà nước với nhân dân; nghĩa vụ


trong thực thi công vụ; nghĩa vụ của người đứng đầu cơ quan tổ chức. Ngoài ra công chức còn
phải thực hiện nghiêm những điều không được làm. Điều 8, 9 và 10 của Luật quy định cụ thể
các nhóm nghĩa vụ của cán bộ, công chức như sau như sau:
Nghĩa vụ của công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân
- Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia.
- Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.

- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước.
Nghĩa vụ của công chức trong thi hành công vụ
- Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
được giao.
- Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ
chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.
- Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị.
- Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.
- Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp
luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết
định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng
không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của
người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định
của mình.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Nghĩa vụ của công chức là người đứng đầu
Ngoài việc thực hiện quy định những nghĩa vụ trên, cán bộ, công chức là người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:


- Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động
của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
- Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức;
- Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có
hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho
công dân;
- Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức;
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
b) Những điều công chức không được làm
Ngoài ra công chức phải thực hiện nghiêm những việc không được làm liên quan đến đạo
đức công vụ, đến bí mật nhà nước; những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác
nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.
2.2.2 Quyền và quyền lợi của công chức
a) Quyền của công chức
Quyền của công chức bao gồm quyền lực pháp lý được Nhà nước trao cho để thực thi
công vụ và quyền lợi của công chức được hưởng khi làm việc cho Nhà nước.
Bản chất quyền lực pháp lý của công chức có được khi thực thi công vụ là:
- Được trao tương xứng với nhiệm vụ
- Không gắn liền với công chức mà gắn liền với vị trí công chức đảm nhiệm
- Không phục vụ công chức mà nhằm thực hiện công vụ mà công chức đảm nhận
b) Quyền lợi của công chức
Quyền lợi của người làm việc cho tổ chức hành chính nhà nước nói chung và công chức nói
riêng thường được xác định trong các văn bản pháp luật của các quốc gia thể hiện thái độ, sự
quan tâm đến việc xây dựng được một nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính


nhà nước và xây dựng phát triển đất nước. Quyền lợi là cơ sở bảo đảm, là điều kiện và phương
tiện để cán bộ, công chức thực thi công việc có hiệu quả. Nhìn chung, các nước đều cố gắng để
đảm bảo được quyền lợi và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức sao cho họ có thể yên tâm
thực hiện được công việc được giao, tận tâm với công việc mà không bị chi phối bởi cuộc sống

thường nhật. Quyền lợi của cán bộ, công chức còn là cơ sở để đảm bảo cho người cán bộ, công
chức có cơ hội và điều kiện thăng tiến, tạo ra sự yên tâm, tận tình làm việc và ý chí phấn đấu
vươn lên trong công việc.
Quyền lợi của người làm việc trong tổ chức hành chính nhà nước là những gì mà người
làm việc trong tổ chức hành chính nhà nước được hưởng từ Nhà nước. Do người làm việc cho
tổ chức hành chính nhà nước trước hết, là người lao động theo quy định của pháp luật lao động
nên họ cũng được hưởng những quyền lợi của người lao động do pháp luật quy định. Ngoài Bộ
luật Lao động, ở nhiều nước đều có Luật riêng về công vụ, công chức để quy định những vấn
đề liên quan đến công chức, trong đó có vấn về về quyền lợi của công chức. Ở Việt Nam, các
quyền lợi cụ thể của người làm việc cho tổ chức hành chính nhà nước được quy định cụ thể
trong Luật Cán bộ, công chức.
Quyền lợi của người làm việc trong tổ chức hành chính nhà nước được hưởng không chỉ
bao gồm các quyền lợi về vật chất (tiền lương, phụ cấp...) mà còn bao gồm các quyền lợi về
tinh thần (quyền nghỉ ngơi, nghiên cứu khoa học, tham gia các tổ chức công đoàn...).
Quyền lợi của người làm việc trong tổ chức hành chính nhà nước không giống nhau ở các
quốc gia do ảnh hưởng bởi các điều kiện phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó. Trong xu thế
hội nhập quốc tế, với quan điểm đầu tư vào nguồn lực con người và thực hiện được mục tiêu
xây dựng một nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của cải cách hành chính, nhiều nước đang
rất quan tâm đến việc cam kết thực hiện ngày càng tốt các quyền lợi cho người làm việc trong
hệ thống hành chính nhà nước.
Ở Việt Nam, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm đến cải cách tiền
lương, cải thiện chế độ và điều kiện làm việc, thực hiện chế độ nhà ở công vụ, hoàn thiện các
quy định về quản lý cán bộ công chức... cũng chính là nhằm đảm bảo cho quyền lợi của cán bộ,
công chức được đảm bảo và được thực hiện trong thực tiễn.
Như vậy, quyền của công chức có thể được quy định thông qua quyền lực pháp lý để thực
thi công vụ của công chức và quyền lợi của công chức với tư cách là người làm việc cho nhà


nước. Tuy nhiên, theo Luật Cán bộ, công chức, quyền của cán bộ, công chức được tiếp cận
chung theo 4 nhóm sau đây1:

Quyền của cán bộ, công chức được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ:
- Được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ.
- Được bảo đảm trang thiết bị và các điều kiện làm việc khác theo quy định của pháp luật.
- Được cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ.
- Được pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ.
Quyền của cán bộ, công chức về tiền lương và các chế độ liên quan đến tiền lương:
Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Cán bộ, công chức làm việc ở miền núi, biên
giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ
cấp và chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.
Được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định
của pháp luật.
Quyền của cán bộ, công chức về nghỉ ngơi:
Cán bộ, công chức được nghỉ hàng năm, nghỉ lễ, nghỉ để giải quyết việc riêng theo quy
định của pháp luật về lao động. Trường hợp do yêu cầu nhiệm vụ, cán bộ, công chức không sử
dụng hoặc sử dụng không hết số ngày nghỉ hàng năm thì ngoài tiền lương còn được thanh toán
thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những ngày không nghỉ.
Các quyền khác của cán bộ, công chức:
Cán bộ, công chức được bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt
động kinh tế, xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, chế độ bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật; nếu bị thương hoặc hy sinh trong khi thi hành
công vụ thì được xem xét hưởng chế độ, chính sách như thương binh hoặc được xem xét để công
nhận là liệt sĩ và các quyền khác theo quy định của pháp luật.

1

Điều 11, 12, 13, 14 Luật Cán bộ, công chức 2008



CHUYÊN ĐỀ 5: THỦ TỤC HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Câu 7: Phân tích các nguyên tắc xây dựng và thực hiện thủ tục hành chính nhà nước.
Liên hệ thực tiễn để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa xây dựng và thực hiện thủ tục hành
chính nhà nước.
Trả lời:
Thủ tục hành chính là cách thức tổ chức thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước
được quy định trong các quy phạm pháp luật hành chính bao gồm trình tự, nội dung, mục đích,
cách thức tiến hành các hoạt động cụ thể trong quá trình giải quyết các công việc của quản lí
hành chính nhà nước. Trong quản lí hành chính nhà nước, thủ tục hành chính đóng vai trò quan
trọng. Thủ tục hành chính hợp lí sẽ tạo nên sự hài hòa, thống nhất trong bộ máy nhà nước, rút
ngắn thời gian giải quyết công việc, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Còn thủ tục hành
chính bất hợp lí là mảnh đất tốt cho tệ tham nhũng, cửa quyền, làm giảm lòng tin của nhân dân
vào chính quyền. Vậy xây dựng và thực hiện thủ tục hành chính như thế nào để đạt hiệu quả tốt
nhất là mối quan tâm hàng đầu của nhà nước ta hiện nay.
1. Xây dựng thủ tục hành chính nhà nước
Xây dựng thủ tục hành chính là nghiên cứu để đề ra những cách thức giải quyết công việc
nhằm giải quyết các quy định nội dung của luật pháp và đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tế.
Việc xây dựng các thủ tục hành chính được đặt lên trên những nguyên tắc cơ bản do Hiến pháp
quy định. Những nguyên tắc này có thể trực tiếp liên quan đến việc xây dựng các thủ tục hành
chính (ví dụ như quy định về các loại văn bản quy phạm pháp luật và thẩm quyền trình tự ban
hành chúng), nhưng cũng có thể chỉ được quy định trên những nguyên tắc chung và đòi hỏi
phải được cụ thể hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật khác. Sau đây là một số nguyên tắc
chủ yếu cần được áp dụng thống nhất:
- Nguyên tắc tuân thủ pháp luật
Thủ tục hành chính phải được xây dựng phù hợp pháp luật hiện hành của nhà nước, có tính
hệ thống, nhằm tạo được một công cụ quản lý hữu hiệu cho bộ máy nhà nước.
Theo nguyên tắc này, chỉ có những cơ quan nhà nước có thẩm quyền do luật định mới
được ban hành thủ tục hành chính.

“Ngoài luật, pháp lệnh và các văn bản pháp quy của Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ,
chỉ bộ trưởng mới có quyền quy định các thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của mình và


chịu trách nhiệm trước chính phủ về các quy định đó. Việc quy định mới hoặc bổ sung, sửa đổi
bãi bỏ các quy đình về thủ tục hành chính đã có phải được thể hiện bằng văn bản, đảm bảo tính
đồng bộ, chính xác, không được trái với luật, pháp lệnh và các văn bản pháp quy của Chính phủ
và Thủ tướng chính phủ. Các quy định thủ tục hành chính phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện và
phải được công bố công khai để mọi người, cơ quan, đơn vị và nhân dân biết.
Đối với một số quy định thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của bộ, ngành trung ương
nhưng cần phải có quy định riêng để phù hợp với các đặc điểm một số địa phương thì các bộ,
ngành trung ương có văn bản ủy quyền cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban
hành quyết định. Các quy định này của UBND tỉnh, thành phố phải có sự thống nhất của bộ,
ngành quản lý về lĩnh vực đó và phải được công bố công khai như quy định thủ tục hành chính
của bộ, ngành”. (Nghị quyết của Chính phủ số 38-CP ngày 04-05-1994 về cải cách một bước
TTHC trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức).
Như vậy, việc xây dựng các thủ tục hành chính dù thuộc ngành nào cũng phải đảm bảo
các thủ tục không trái pháp luật, không mâu thuẫn với các văn bản của cấp trên, phải thực hiện
đúng trình tự với phương tiện, biện pháp, hình thức được pháp luật cho phép. Việc xây dựng
các thủ tục trái với nguyên tắc này sẽ dẫn đến việc phá vỡ tính hệ thống của các thủ tục hành
chính, làm rối loạn kỷ cương xã hội, tạo điều kiện cho nạn tham nhũng phát triển và gây ra
những hậu quả khôn lường khác. Vì vậy, nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan và cá nhân có
thẩm quyền khi ban hành các thủ tục hành chính phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Nguyên tắc phù hợp với thực tế khách quan
Việc xây dựng thủ tục hành chính phải dựa trên cơ sở nhận thức đầy đủ những yêu cầu
khách quan của tiến trình phát triển xã hội. Với tinh thần đổi mới toàn diện đất nước, trong
công cuộc xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa một nên kinh tế mở, đa
phương hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, việc xây dựng hệ thống thủ tục hành chính sao
cho tạo điều kiện tốt cho các hoạt động của nền kinh tế đó phát triển đúng hướng, đồng thời

ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục được các mặt tiêu cực của nó là một yêu cầu bức xúc, một
nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước.
Như vậy, thủ tục hành chính phải được xây dựng sao cho phù hợp với tình hình thực tế để
tạo điều kiện cho các hoạt động quản lý kinh tế, quản lý xã hội được thực thi hữu hiệu. Ví dụ: thủ
tục hành chính mới không được trái nguyên tắc đã được khẳng định trong văn bản của nhà nước


“các cơ quan chính quyền không can thiệp vào những công việc thuộc chức năng quản trị kinh
doanh của doanh nghiệp”. Nếu thiếu hiểu biết khách quan, tự mình đặt ra thủ tục hành chính thì
chắc chắn quản lý nhà nước sẽ thất bại. Hoặc thủ tục hành chính phải tạo điều kiện để thu hút
các nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước để phát triển kinh tế một cách mạnh mẽ.
Cùng với việc xây dựng các thủ tục mới, chúng ta cũng cần kịp thời sửa đổi, bãi bỏ những
thủ tục xét thấy lỗi thời để tạo điều kiện tốt cho các hoạt động của nền kinh tế thị trường phát
triển đúng hướng.
- Nguyên tắc đơn giản, dễ hiểu, thực hiện thuận lợi
Thủ tục hành chính phải được xây dựng trên cơ sở quan tâm đầy đủ đến nguyện vọng và
sự thuận tiện cho nhân dân. Cần nhanh chóng loại bỏ những thủ tục rườm rà, phức tạp quá mức
cần thiết, bởi lẽ chúng làm cho người thực hiện cũng như người tham gia khó hiểu, khó thực
hiện, khó chấp hành, và cũng chính những loại thủ tục như thế là mảnh đất màu mỡ cho bệnh
quan liêu, cửa quyền phát triển. Thủ tục đơn giản sẽ cho phép tiết kiệm sức lực, tiền của của
nhân dân trong biệc thực hiện nghĩa vụ của mình, đồng thời, cũng hạn chế việc lợi dụng chức
quyền vi phạm tự do của công dân.
Theo nguyên tắc này, các thủ tục hành chính khi ban hành cần có sự giải thích cụ thể, rõ
ràng. Phải chỉ rõ không những nội dung của thủ tục mà cả về phạm vi áp dụng nó. Cần tránh
tình trạng thủ tục hành chính sau khi ban hành không có điều kiện để thực thi do đối tượng
không hiểu được thủ tục một cách rõ ràng hoặc do các yêu cầu đặt ra không phù hợp với thực
tế. Cần đảm bảo rằng mọi thủ tục hành chính để được công khai cho mọi người biết để tuân thủ.
Việc công khai như vậy còn có ý nghĩa là để kiểm tra được tính nghiêm túc của cơ quan nhà
nước khi giải quyết các công việc có liên quan đến tổ chức, công dân.
- Nguyên tắc có tính hệ thống

Nguyên tắc này là hệ quả của nguyên tắc tuân thủ pháp luật và thực hiện được nguyên tắc
này sẽ tạo điều kiên thuân lới cho việc thực hiện nguyên tắc đơn giản, dễ hiểu, thuận lợi cho
việc thực hiện. Nghĩa là, thủ tục hành chính của một lĩnh vực không được mâu thuẫn với nhau
và với các lĩnh vực liên quan. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng vì nếu mâu thuẫn nhau thì
khi thực hiện sẽ tạo ra một sự hỗn loạn trong công việc mà không thể kiểm soát được.
2.Thực hiện thủ tục hành chính nhà nước
Muốn quản lý hành chính nhà nước có hiệu quả, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước
cần thực hiện đầy đủ các yêu cầu mang tính nguyên tắc như sau:


- Nguyên tắc thẩm quyền
Nguyên tắc này thể hiện rõ nhất trong thủ tục hành chính. Theo đó, chỉ có cơ quan nhà
nước, công chức nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định mới được thực hiện các thủ tục
hành chính nhất định và phải thực hiện đúng trình tự với những phương tiện, biện pháp và hình
thức được pháp luật cho phép. Chính các cơ quan nhà nước đề ra các thủ tục để giải quyết công
việc trên nguyên tắc phù hợp với chức năng quản lý được giao và theo thẩm quyền do pháp luật
quy định, do đó cũng có nghĩa vụ thực hiện các thủ tục được ban hành. Nghĩa vụ thực hiện thủ
tục hành chính đòi hỏi cần có những quy định rõ ràng về chế độ cộng vụ và quy chế làm việc để
tránh tình trạng vô trách nhiệm trong công tác, nhằm giảm bớt phiền hà cho người dân trong
quá trình giải quyết công việc có liên quan đến công dân. Nhà nước phải quy rõ trách nhiệm
của các cán bộ, công chức trong việc tiếp nhận giải quyết đơn thư khiếu kiện của nhân dân, để
đảm bảo yêu cầu không đùn đẩy trách nhiệm từ cơ quan, đơn vị, cá nhân này sang cơ quan, đơn
vị, cá nhân khác.
“Những công việc đã có đủ hồ sơ, thủ tục, thì cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết kịp
thời theo quy định của pháp luật, không được trì hoãn dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả trường
hợp không giải quyết được cũng phải nói rõ lý do để dân biết. Nếu hồ sơ thủ tục chưa đầy đủ,
thì phải hướng dẫn cụ thể để đương sự không phải đi lại nhiều lần. Những công việc liên quan
đến nhiều bộ phận trong cơ quan thì thủ trưởng cơ quan phải để ra quy chế phối hợp giải quyết
trong nội bộ cơ quan để công dân, tổ chức có yêu cầu làm đầu mối tiếp xúc, nhận hồ sơ và giải
quyết công việc” (Quyết định 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ).

Nguyên tắc thẩm quyền còn liên quan đến nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người có
thẩm quyền: Các quyết định ban hành không đúng thủ tục phải bị đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ
và cơ quan, người ban hành quyết định đó có thể bị truy cứu trách nhiệm.
- Nguyên tắc chính xác, khách quan, công minh
Trong thực hiện thủ tục hành chính, các chủ thể thực hiện thủ tục phải đảm bảo chính xác,
khách quan và công minh. Các chủ thể thực hiện thủ tục phải có đủ tài liệu, chứng cứ và có
thẩm quyền đòi hỏi việc giải trình, cung cấp thông tin áp dụng các biện pháp cần thiết. Các cá
nhân, tổ chức hữu quan tham gia thủ tục hành chính phải có trách nhiệm cung cấp thông tin, tư
liệu cần thiết để các chủ thể thực hiện tiến hành thủ tục hành chính giải quyết công việc được
thuận lợi.
- Nguyên tắc công khai hóa thủ tục hành chính


Thủ tục hành chính phải được công khai hóa để nhân dân biết và được tiến hành công khai
theo luật định, trừ trường hợp pháp luật quy định phải bí mật theo quy định chung hoặc theo đề
nghị của các bên tham gia thủ tục.
Quy định cụ thể trong luật tiếp công dân 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành
- Nguyên tắc các bên tham gia thủ tục hành chính phải bình đẳng trước pháp luật
Đây là yêu cầu đối với các cơ quan nhà nước phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức khi đề nghị của họ có đủ điều kiện do luật định và phải ra lệnh đối với
các bên hữu quan để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia được thực hiện đầy
đủ. Quy định cụ thể trong Luật khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011.
- Nguyên tắc đơn giản, tiết kiệm
Thủ tục hành chính được thực hiện đơn giản, tiết kiệm. Trước hết, các thủ tục hành chính
cần giảm bớt các cấp, các cửa, các giai đoạn, tăng quyền đồng thời với trách nhiệm của các cơ
quan thực hiện thủ tục. Theo đó giảm bớt mức tối thiểu và trong nhiều thủ tục bỏ hẳn các loại
phí, lệ phí đối với công dân và tổ chức. Theo nguyên tắc này, việc thực hiện thủ tục hành chính
sẽ đáp ứng nhanh chóng yêu cầu của nhân dân, song cũng phải tăng cường hiệu quả quản lý
Nhà nước.
* Liên hệ thực tiễn để thấy rõ mối liên hệ giữa xây dựng và thực hiện thủ tục hành

chính
Xây dựng thủ tục hành chính là nghiên cứu để đề ra những cách thức giải quyết công việc
nhằm giải quyết các quy định nội dung của luật pháp và đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tế.
Thực hiện thủ tục hành chính nhà nước- xét trong quy trình "quản lý nhà nước, là sự tiếp
nối quá trình xây dựng thủ tục hành chính, gồm toàn bộ các hoạt động nhằm đưa các thủ tục
hành chính từ trên giấy vào đời sống nhà nước, xã hội và sinh hoạt của công dân. Về bản chất,
thực hiện thủ tục hành chính là quá trình hiện thực hoá các thủ tục quy định trong các văn bản
quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Xây dựng và thực hiện là hai giai đoạn có mối liên hệ mất
thiết tác động lẫn nhau. Nếu không có xây dựng thì không có thực hiện và ngược lại. Xây dựng
thủ tục đầy đủ, rõ ràng dễ hiểu, gắn gọn dễ thực hiện thì khi triển khai thực hiện trong thực tiễn
sẽ hiệu quả và đơn giản hơn. Cũng như xây dựng thủ tục hành chính thực hiện thủ tục hành
chính cũng cần phải tuân thủ các nguyên tắc để thực hiện đúng vì nguyên tắc chính là những tư
tưởng pháp lý chủ đạo định hướng trong quá trình thực hiện tránh sai phạm xảy ra.
Số: 16/CT-UBND

Lai Châu, ngày 31 tháng 12 năm 2014


CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH LAI CHÂU
Trong những năm qua, các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và Ủy ban
nhân dân các xã, phường, thị trấn đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc triển khai thực hiện và
đã đạt được những kết quả tích cực trong công tác cải cách hành chính, nhất là trong cải cách
thủ tục hành chính và thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông đã góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư, nâng
cao chỉ số năng lực cạnh tranh và hạn chế nhũng nhiễu, tiêu cực, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, sau gần 04 năm thực hiện Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước tỉnh Lai Châu
giai đoạn 2011 – 2015, công tác cải cách hành chính còn một số hạn chế, yếu kém: Việc thực

hiện các nội dung cải cách hành chính tại một số đơn vị, địa phương chưa triệt để; Công tác
lãnh đạo, chỉ đạo của Thủ trưởng một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thực sự quyết liệt,
đồng bộ; Cải cách thủ tục hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân và doanh
nghiệp, nhất là ở các lĩnh vực: Đầu tư, xây dựng, đất đai…; một số nơi vẫn còn tình trạng giải
quyết hồ sơ chậm, gây khó khăn cho các tổ chức, doanh nghiệp và Nhân dân; Tinh thần, trách
nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức chưa cao, phong cách giao tiếp còn gây phiền hà cho
người dân; Cải cách tổ chức bộ máy và cải cách chế độ công vụ còn chậm, hiệu quả chưa rõ
nét.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là do: Nhận thức của một bộ phận
cán bộ, công chức và người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị, địa phương về nhiệm vụ cải cách
hành chính chưa đầy đủ; một số nơi chưa thực sự đề cao vai trò của công tác cải cách hành
chính trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương, có nơi còn thụ động,
chưa quyết tâm thực hiện các nội dung, nhiệm vụ cải cách hành chính theo kế hoạch hàng năm;
việc đầu tư cơ sở vật chất cũng như hiện đại hóa nền hành chính chưa đáp ứng được với nhu
cầu thực tế; việc kiểm tra, sơ kết, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ cải cách hành
chính ở một số cơ quan, đơn vị chưa được quan tâm thực hiện.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong những năm qua, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công
tác cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới, UBND tỉnh yêu cầu Thủ trưởng các


sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố chỉ đạo, tổ chức triển
khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ cải cách hành chính giai đoạn 2011 – 2015, trong đó tập
trung thực hiện tốt một số nội dung sau:
1. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá nghiêm túc, trung thực, khách quan kết quả thực
hiện cải cách hành chính theo quy định. Xác định kết quả cải cách hành chính hàng năm là nội
dung chủ yếu cho việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm của người đứng
đầu các cơ quan, đơn vị, đồng thời là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá, bình xét
danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng cho tập thể, cá nhân theo tinh thần Chỉ thị số 07/CTTTg ngày 22/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.
2. Thực hiện đồng bộ các biện pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục

hành chính theo hướng một cửa, một cửa liên thông. Bố trí cán bộ, công chức, viên chức có đủ
trình độ, năng lực và có phẩm chất đạo đức tốt làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, tại
những đầu mối giải quyết thủ tục hành chính; thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung các thủ
tục hành chính theo quy định; thực hiện nghiêm việc niêm yết công khai, minh bạch về quy
trình, thủ tục, thời gian giải quyết công việc của cá nhân, tổ chức; cán bộ, công chức, viên chức
khi làm việc phải đeo thẻ và có bảng ghi rõ họ tên, chức vụ của cán bộ, công chức, viên chức để
các tổ chức, cá nhân biết, giám sát. Xử lý kịp thời những kiến nghị, phản ánh của Nhân dân,
doanh nghiệp đối với các quy định và công tác giải quyết thủ tục hành chính.
3. Rà soát, điều chỉnh, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các phòng, ban, đơn vị trực thuộc,
bảo đảm không chồng chéo, bỏ sót nhiệm vụ; rà soát, điều chỉnh quy chế làm việc, phân công
tác theo hướng rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, phù hợp với năng lực, sở trường của từng cán
bộ, công chức, viên chức và đảm bảo mỗi việc phải có người phụ trách, chịu trách nhiệm chính.
Căn cứ chương trình, kế hoạch làm việc của UBND tỉnh, các chương trình, kế hoạch được giao,
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện;
phân công, giao đầu mối chịu trách nhiệm chính đối với từng đề án, dự án cụ thể, gắn với thời
gian, kết quả hoàn thành; định kỳ rà soát, đánh giá chất lượng công việc, nhiệm vụ được giao
của cán bộ, công chức, viên chức theo quy chế làm việc của cơ quan, đơn vị, địa phương.
4. Tiếp tục tập trung triển khai thực hiện xây dựng, thẩm định vị trí việc làm và cơ cấu công
chức, viên chức tại cơ quan, đơn vị theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Nội vụ.


Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo, thống kê về công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức;
lưu giữ đầy đủ và thường xuyên cập nhật các thông tin hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức.
5. Tăng cường thanh tra, giám sát kỷ cương hành chính, kiểm tra nội bộ để đánh giá việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành công vụ; giải quyết
kịp thời các khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị về thủ tục hành chính; chấn chỉnh hoạt động
công vụ của cán bộ, công chức, viên chức và xử lý nghiêm, kiên quyết đối với những cán bộ,
công chức, viên chức không hoàn thành nhiệm vụ hoặc gây khó khăn, nhũng nhiễu, phiền hà
trong công tác giải quyết thủ tục hành chính.
6. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Nâng

cao tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng phần mềm quản lý văn bản, mạng
nội bộ để trao đổi công việc. Thực hiện trao đổi các văn bản, giấy tờ hành chính (các văn bản
bằng giấy) chuyển sang trao đổi bằng văn bản điện tử. Triển khai, cung cấp thêm các dịch vụ
công trực tuyến ở mức độ 3 và 4 để nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính. Đẩy nhanh
tiến độ mở rộng hệ thống tiêu chuẩn ISO 9001: 2008 xuống các đơn vị trực thuộc và xuống tận
đơn vị cấp xã.
7. Trách nhiệm của một số sở, ngành có liên quan:
a) Sở Nội vụ tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành công tác cải cách hành chính trong
phạm vi toàn tỉnh. Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kế hoạch cải cách hành chính
của các cơ quan, đơn vị. Chủ trì, phối hợp với Thanh tra tỉnh và các ngành chức năng liên quan
nghiên cứu, tham mưu UBND tỉnh thành lập Tổ kiểm tra chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành
chính của tỉnh để tiến hành kiểm tra theo chuyên đề về một số lĩnh vực bức xúc, nhạy cảm;
kiểm tra đột xuất các cơ quan, đơn vị để xử lý, chấn chỉnh, tăng cường đạo đức và trách nhiệm,
thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính nhà
nước theo quy định.
Tham mưu sửa đổi Quy định về đánh giá, xếp loại kết quả thực hiện công tác Cải cách hành
chính của các sở, ban, ngành tỉnh; cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh Lai Châu đảm bảo sát
thực, hiệu quả.
Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, tổng hợp theo định kỳ 06 tháng, hàng năm và báo cáo UBND
tỉnh về tình hình, kết quả triển khai thực hiện Chỉ thị này.


b) Sở Tư pháp tăng cường công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và UBND các huyện, thành phố
trên địa bàn tỉnh. Thường xuyên phối hợp, đôn đốc các sở, ban, ngành tỉnh cập nhật văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan Trung ương cấp trên và rà soát thủ tục hành chính thuộc thẩm
quyền quản lý theo ngành, lĩnh vực để kịp thời tham mưu công bố ban hành mới, sửa đổi, bổ
sung, thay thế bãi bỏ hoặc hủy bỏ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các sở,
ban, ngành tỉnh; UBND cấp huyện, cấp xã. Cập nhật, công khai đầy đủ, kịp thời thủ tục hành
chính và các quy định có liên quan trên cơ sở Dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính và trên

Cổng thông tin điện tử của tỉnh. Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện niêm
yết công khai thủ tục hành chính tại các cơ quan, đơn vị có nhiệm vụ trực tiếp tiếp nhận, giải
quyết thủ tục hành chính.
c) Sở Thông tin và Truyền thông tham mưu UBND tỉnh triển khai các chương trình, kế hoạch
ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, điều hành, xử lý công việc của các đơn
vị, thực hiện giảm các giấy tờ hành chính không cần thiết để tiến tới việc trao đổi văn bản điện
tử. Phối hợp với các sở, ngành và địa phương đẩy mạnh triển khai cung cấp dịch vụ công trực
tuyến ở mức độ 3 và 4 trong giải quyết thủ tục hành chính phục vụ người dân và doanh nghiệp.
d) Sở Khoa học và Công nghệ tiếp tục triển khai có hiệu quả việc ứng dụng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước,
đẩy nhanh tiến độ mở rộng xuống UBND cấp xã.
e) Sở Tài chính tham mưu UBND tỉnh bố trí kinh phí thực hiện công tác cải cách hành chính
của các cơ quan, đơn vị trong dự toán ngân sách hàng năm; theo dõi, đôn đốc, chỉ đạo thực hiện
việc khoán biên chế và kinh phí hành chính tại cơ quan hành chính, cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Báo cáo UBND tỉnh về kết quả thực hiện cải cách tài
chính công.
g) Báo Lai Châu, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Cổng Giao tiếp điện tử tỉnh chịu trách
nhiệm thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền các nội dung liên quan đến cải cách chế độ
công vụ, công chức và cải cách hành chính; phản ánh những trường hợp gây sách nhiễu, phiền
hà về thủ tục hành chính; kịp thời nêu gương những điển hình tiên tiến về tinh thần và thái độ
phục vụ trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Căn cứ nội dung Chỉ thị, yêu cầu Thủ trưởng các sở, ban, ngành tỉnh; Chủ tịch UBND các
huyện, thành phố nghiêm túc triển khai thực hiện./.


×