Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Ôn tập một số tác phẩm thơ ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.97 KB, 10 trang )

Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12

Một số tác phẩm thơ

1. Bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng
a) Hoàn cảnh sáng tác.
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, địa bàn hoạt động ở tây Bắc
Bộ Việt Nam và biên giới Việt-Lào rồi vòng về qua miền Tây Thanh Hoá
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là học sinh, thanh niên Hà Nội. Quang Dũng là đại đội trưởng.
Đơn vị Tây Tiến chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét
hoành hành dữ dội. Tuy vậy họ vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng.
- Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến từ 1947 và ở đó đến cuối 1948 thì chuyển sang
đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu, Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ in
trong tập Mây Đầu Ô.
b) Kiến thức cơ bản.
Cảm hứng bao trùm bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ:
(1) Nhớ về núi rừng dữ dội hùng vĩ: (Sông Mã xa rồi … mùa em thơm nếp xôi)
- Nhớ những địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch...Những địa danh xa lạ, gợi sự xa xôi, hiểm
trở.
- Những dốc cao vực sâu:
Dốc lên >< Dốc thăm thẳm
Ngàn thước lên cao >< Ngàn thước xuống
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Miêu tả ấn tượng, đầy cảm giác và tạo hình nhờ:
+ Từ láy: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút
+ Câu thơ bẻ đôi gợi hình mái núi
+ Cường điệu : cồn mây- súng ngửi trời, ngàn thước
+ Kết hợp 3 câu mạnh mẽ gân guốc với câu cuối mềm mại “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
- Nhớ những hiểm nguy thường trực cả không gian, thời gian: dùng nhiều âm trắc
+ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
+ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người


* Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện ra với nhiều nét rất đặc trưng của đời lính.
- Vẫn lạc quan yêu đời: Súng ngửi trời – cách nói vui tếu của lính
- Vẫn lãng mạn hào hoa: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi / Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, Mai Châu
mùa em thơm nếp xôi.
- Đón nhận và xem nhẹ cái chết: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
(2) Nhớ về rừng núi thơ mộng, trữ tình, ấm áp tình dân quân: (Doanh trại … đong đưa)
- Bốn dòng thơ đầu tái hiện những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết trong đêm liên hoan văn nghệ
nơi bản làng mà đoàn quân Tây Tiến dừng chân nghỉ. Đoạn thơ đã đem đến cho người đọc ấn tượng
về không khí hội hè rộn ràng vui vẻ, cái nhìn chiêm ngưỡng, say sưa mà đa tình của lính Tây Tiến
trước vẻ đẹp phương xa xứ lạ (Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa … Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ)
- Bốn câu thơ tiếp: Kỷ niệm buổi chiều chia tay nơi sông nước: gợi chứ không tả, chỉ làm nổi bật linh
hồn cảnh vật: đẹp và buồn man mác.
=> Người lính hiện ra với tâm hồn lạc quan, yêu đời của người lính, “cốt cách hào hoa phong nhã
và một thi tài hiếm có”.
(3) Một tượng đài người lính Tây Tiến bất tử với thời gian (Tây Tiến đoàn binh … độc hành)
- Chân dung rất gân guốc, lạ hoá và phi thường: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc … dữ oai hùm
+ Bắt nguồn từ hiện thực đến từng chi tiết. Không mọc tóc là hậu quả của trận sốt rét rừng. Rồi
trải qua nơi rừng thiêng nước độc, gian khổ thiếu thốn, thuốc men không có. Quân xanh màu lá cũng
là thực tế hiển nhiên.
+ Bút pháp lãng mạn -> trở thành cách nói mang khẩu khí lính Tây Tiến. Không mọc tóc chứ
không phải tóc không thể mọc. Quân xanh màu lá còn là xanh áo lính, xanh lá nguỵ trang. Thế mới
xứng với những chữ dữ oai hùm. Đó mới thực là khí phách, tinh thần của đoàn quân.
- Tâm hồn bay bổng rất lãng mạn, mộng mơ: Mắt trừng gửi mộng … dáng kiều thơm
Tâm tưởng đi về trong mộng ước với dáng hình người đẹp. Dáng kiều thơm gợi vẻ đẹp yêu
kiều, thanh lịch, sắc nước hương trời của người thiếu nữ Hà thành – nơi mà ở đó người lính từng sống,
từng học tập và cũng là nơi các anh từ giã người thân lên đường đi chiến đấu. Nơi hậu phương ấy trở
thành động lực thúc giục người lính quên gian khổ để tiến lên phía trước, vượt qua bom đạn để trở về.
Trang 1



Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12

Một số tác phẩm thơ

- Lí tưởng, khát vọng của người lính Tây Tiến: Rải rác biên cương …. chẳng tiếc đời xanh
Đời xanh tuổi trẻ, đời xanh bao mơ ước còn đang phía trước. Nhưng với các anh, còn gì quý
hơn Tổ quốc thân yêu, còn gì “quý hơn độc lập tự do”. Vì thế, dù biết rằng đời lính gửi vào đầu súng
mũi lê, ra đi không hẹn ngày về , nhưng các anh vẫn chấp nhận ra đi để dâng hiến, để xả thân. Họ
chẳng khác nào các vị tướng ngày xưa tung hoành chiến trận. Hai câu thơ như gợi lại hào khí của cha
ông ta xưa.
Hào khí thời đại cũng ùa vào chắp cánh cho hai câu thơ này. Nó gợi cái âm vang của lời thề
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” (Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi – Nào có sá chi đâu ngày trở về Ra đi ra đi bảo tồn sông núi – Ra đi ra đi thà chết không lùi…). Tinh thần “nhất khứ bất phục phản”
ngàn đời ấy đã trở thành lí tưởng, khát vọng của người chiến sĩ Tây Tiến.
- Sự hi sinh của người lính: Áo bào thay ……khúc độc hành
Quang Dũng không hề né tránh hiện thực khắc nghiệt, dữ dội. Trên chặng đường hành quân,
nhiều người lính không thể vượt qua đã vĩnh viễn gục lên súng mũ bỏ quên đời. Dọc đường Tây Tiến
cũng là vô vàn nấm mồ liệt sĩ mọc lên Rải rác biên cương mồ viễn xứ. Tuy nhiên, ấn tượng để lại với
người đọc là cái đẹp trong tâm tưởng của họ. Họ đều là những chiến tướng ngày xưa rực rỡ với chiếc
áo bào.
Cái chết đã được sang trọng hoá lên để xứng với ngoại hình, nội tâm và lí tưởng của họ. Về đất
là cách nói giảm nhằm thể hiện sự ra đi thanh thản của người lính sau khi làm tròn trách nhiệm người
trai. Cái chết của họ như thiêng liêng và động đến cả đất trời: Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Câu
trên nhẹ nhàng, thanh thản, kìm nén. Câu dưới dữ dội, gào thét. Tất cả nội lực câu thơ đều dồn xuống
từ gầm và gợi ra một âm hưởng thật bi tráng cho đoạn thơ.
Cả đoạn thơ như một khúc ca mang âm điệu bi tráng về tượng đài người lính Tây Tiến. Những
câu thơ với hàng loạt các từ Hán Việt trang trọng, những hình ảnh phi thường đã làm sống lại một thời
oanh liệt của dân tộc ta.
* KẾT LUẬN
Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng
người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình

tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối
với người đọc.
Tây Tiến rất tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Quang Dũng.
Câu hỏi:
1. Hoàn cảnh sáng tác giúp anh chị hiểu sâu nội dung bài thơ Tây Tiến?
2. Vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc trong bài thơ Tây Tiến (hoặc phân tích một đoạn thơ).
3. Hình tượng người lính Tây Tiến.

Trang 2


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12

Một số tác phẩm thơ

2. Bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu
a) Hoàn cảnh ra đời:
- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Tháng 7 – 1954, Hiệp định Giơne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào
sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới.
- Tháng 10 – 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội.
Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử đó, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc để nói lên tình cảm thắm thiết với
Việt Bắc – quê hương của cách mạng. Việt Bắc rất tiêu biểu cho thể tài thơ trữ tình chính trị của Tố
Hữu.
b) Giá trị tư tưởng:
Việt Bắc thể hiện tình cảm của Tố Hữu đồng thời tiêu biểu cho tình cảm cao đẹp của những
người kháng chiến đối với căn cứ Việt Bắc, đối với nhân dân và Đất nước.
Việt Bắc là khúc hát ân tình thủy chung giữa những con người cách mạng kháng chiến (người
miền xuôi) với Việt Bắc và giữa nhân dân Việt Bắc với cách mạng, thể hiện truyền thống đạo lí thủy
chung, giàu ân nghĩa của dân tộc ta.
c) kiến thức cơ bản.

(1) Đoạn 1 (Mình về mình có nhớ ta … Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay)
Giống như những khúc hát giã bạn “người ơi người ở đừng về” trong đêm hội, ở đây người cất
lên tiếng nói đầu tiên trong cuộc chia tay là người ở lại, gợi nhắc về những kỉ niệm gắn bó suốt
mười lăm năm: Mình về mình có nhớ ta … thiết tha mặn nồng
Giọng cất lên là giọng của yêu thương trìu mến, nhung nhớ, chia xa. Tất cả nhắc gọi về kỉ niệm
giống như vô vàn những cuộc chia tay muôn thuở xưa nay. Có bao nhiêu điều cụ thể từng chia sẻ, gắn
bó đã trôi qua suốt Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng… Cụm từ thiết tha mặn nồng dường như
không chỉ là tình yêu lứa đôi mà còn gói trọn cả những sẻ chia sóng gió thác ghềnh làm nên cái nặng
sâu bền chặt của tình nghĩa vợ chồng. Thời gian mười lăm năm được đánh dấu từ mốc khởi nghĩa Bắc
Sơn năm 1940 cho đến khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, hoà bình lập lại, Việt Bắc đã làm tròn sứ
mệnh của một căn cứ địa cách mạng vững chắc.
Chuyện nghĩa tình cách mạng lớn lao đầy màu sắc chính trị như vậy đã hoá thân tự nhiên vào
câu chuyện tình cảm lứa đôi bền chặt, để mười lăm năm ấy trở thành thiết tha mặn nồng dìu dặt và
quyến luyến lòng người.
Đúng ở thời khắc chia tay, mối bận tâm, điều muốn nhắn gửi, cũng là điều muốn dò đón, khắc
sâu chính là mối băn khoăn Có nhớ không ? trào lên qua câu chữ :Mình về mình có nhớ không
Bảo là hỏi tu từ, hỏi để gợi nhắc, gợi nhớ cũng đúng. Nhưng bảo là mối quan tâm thực sự tha
thiết đang chờ đợi câu trả lời có lẽ đúng hơn. Có nhớ không ? trở thành mối quan tâm đau đáu riết róng
vì thói thường gian khổ thì bền chặt, sung sướng hạnh phúc rất dễ làm con người quên đi những ngọt
bùi cay đắng đã nếm trải. Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?
Bốn câu thơ trên chính là khúc dạo đầu của cảm xúc chia tay để từ đó biết bao điều chưa nói sẽ
được thổ lộ giãi tỏ tâm tình. Lời hỏi chỉ là cái cớ gợi dẫn để trào tuôn mạch cảm xúc nhớ thương trong
lòng người lên đường.
Bốn câu thơ cuối của đoạn (lời người đi) đã tái hiện trước mắt người đọc một cuộc chia
tay kẻ ở người đi đầy bâng khuâng, lưu luyến:Tiếng ai tha thiết bên cồn … Cầm tay nhau biết nói gì
hôm nay
Sắc áo chàm chất phát, đậm đà, quen thuộc gắn bó với đồng bào Việt Bắc giờ đây hiện lên như
một điểm nhớ thân thương trong lòng người ra đi qua cách sử dụng nghệ thuật hoán dụ của nhà thơ.
Tất cả đã làm trào dâng cảm xúc trong lòng người lên đường.
Người ra đi như đồng vọng thiết tha với cảm xúc thiết tha của người ở lại nên ngập ngừng

không nỡ bước chân :Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Các từ láy bâng khuâng, bồn chồn, tha thiết hài hoà đồng điệu với nhau để thể hiện cảm xúc,
vừa lưu luyến nhớ thương, vừa mong ngóng nôn nao.
Nhà thơ đã sử dụng thành công nhịp ngắt linh hoạt của thơ lục bát để gợi ra khung cảnh và ấn
tượng, cảm xúc cuộc chia tay : Áo chàm đưa/ buổi phân li; Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm nay… Như
hiển hiện sau câu chữ là động thái trữ tình : người đi kẻ ở tay trong tay, những khoảng ngừng lặng
Trang 3


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12

Một số tác phẩm thơ

không nói nên lời bởi bộn bề cảm xúc, biết nói gì đây bởi quá nhiều điều để nói, bắt đầu từ đâu và nói
bao nhiêu cho đủ, cho thoả bấy nhiêu năm thiết tha mặn nồng gắn bó cùng nhau.
(2) Đoạn 2 (Mình đi có nhớ những ngày … Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?)
Đoạn thơ là lời người ở lại nhắn nhủ với người đi đừng quên “chiến khu” – vùng đất gắn
liền với những gian lao trong kháng chiến và lòng căm thù giặc nhưng cũng rất hào hùng trong
chiến đấu: Mình đi, có nhớ những ngày …Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?...
Những dòng thơ gợi nhắc kỉ niệm đã lí giải vì sao nhà thơ gọi mười lăm năm ấy bằng từ thiết
tha mặn nồng đầy nghĩa tình. Bởi đó là thời gian dệt lên từ tình yêu thương, từ gian khổ thiếu thốn, từ
sự chung sức chung lòng. Ở đó ta – mình cùng chia sẻ những khó khăn, vất vả của cảnh mưa nguồn
suối lũ những mây cùng mù, cùng dằn lòng với miếng cơm chấm muối, chung một mối thù nặng vai,
cùng trải qua những buổi hắt hiu lau xám để gánh cuộc kháng chiến trên vai. Từ thuở khởi đầu chiến
đấu, bên ta đã có mình, hỏi sao không chất chứa tình cảm thiết tha mặn nồng lưu luyến ?
Đặt trong cấu trúc cân đối, hài hoà của những tiểu đối trong các câu thơ tám chữ, ấn tượng để
lại với người đọc là cái sắt son bền chặt thuỷ chung của tình cảm con người. Từ miếng cơm chấm
muối mà nung nấu tâm can mối thù nặng vai thêm sôi sục. Từ hắt hiu lau xám, mưa nguồn, suối lũ,
mây mù mà ngời lên đậm đà lòng son vẹn tròn, chung thuỷ. Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
Mười lăm năm ấy cũng là bao nhiêu kỉ niệm kháng chiến.

Theo dòng hồi tưởng, người ở lại gợi nhắc cho chúng ta trở về thuở ban đầu gây dựng nền
móng cách mạng cho đến khi lớn mạnh trưởng thành. Và đến giờ, nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc
vẫn sắt son và mãi khắc ghi trong dạ: Mình về, rừng núi nhớ ai ………Tân Trào, Hồng Thái, mái
đình, cây đa ?
Những khi ấy, mình – ta từng chung niềm vui kháng chiến sôi sục trong những ngày kháng
Nhật, phong trào Việt Minh và mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào nơi Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân được thành lập, tiền thân của quân đội Việt Nam lớn mạnh sau này, nơi Quốc dân Đại
hội phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Có rất nhiều cảm xúc đang dâng lên trong lòng người đưa tiễn trước lúc chia xa. Đó là nỗi nhớ
khôn khuây, ngơ ngẩn: Mình về, rừng núi nhớ ai – Trám bùi để rụng, măng mai để già… Đó là nỗi
niềm bồi hồi dâng lên khi kỉ niệm dào dạt ùa về.
Nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ rừng núi nhớ ai,… trám để rụng, măng để già, điệp từ mình về,
mình đi, có nhớ, còn nhớ, nhịp câu 2/4 – 4/4 đều đặn… gợi lên hình ảnh một người đang bâng khuâng
sững sờ với cảm giác hụt hẫng của chia li, dè chừng sự lãng quên nên tha thiết nhắc nhở người về bằng
những hoài niệm ân nghĩa nhất, nguồn cội sâu rộng nhất..., sâu trong tình người, rộng trong thời gian,
không gian. Đây là tình cảm những con người cách mạng trong không gian, thời gian của cách mạng.
(3) Đoạn 3 (Nhớ gì như nhớ người yêu … Chày đêm nện cối đều đều suối xa)
Hiện theo mỗi điệp khúc nhớ là hình ảnh con người và thiên nhiên hoà quyện trong nhau.
Khác với đoạn thơ trước, cảnh Việt Bắc ở đây hiện ra rất thơ mộng hiền hoà. Một vầng trăng thấp
thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiều lấp ló lưng nương :Nhớ gì như nhớ người yêu …nắng chiều
lưng nương
+ Những bản làng bồng bềnh thực hư trong sương khói :
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
+ Những rừng nứa, bờ tre, những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê đầy vơi trong nhung nhớ :
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Mỗi cảnh vật là một nét nhớ, nét thương thân thuộc vì gợi nhắc đến con người Việt Bắc. Đó là những
con người từng chia bùi sẻ ngọt cùng người cách mạng :
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Các từ ngữ thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho
tình đồng bào đồng chí, tình quân dân cá nước thêm ấm áp. Câu thơ làm ta nhớ đến những vần thơ
sáng ngời tình đồng chí của Chính Hữu : Súng bên súng đầu sát bên đầu – Đêm rét chung chăn thành
đôi tri kỷ (Đồng Chí).
Trang 4


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12

Một số tác phẩm thơ

Đó là những con người tảo tần lam lũ, chịu thương chịu khó :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Trên những miền núi quê ta, chúng ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh những người mẹ vừa
làm nương rẫy vừa địu con trên lưng thật cảm động : Mặt trời của bắp nằm ở trên đồi – Mặt trời của
mẹ em nằm trên lưng" (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm. Người mẹ
chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng trong công việc. Nét đẹp của hình
tượng được khơi lên từ tính chất công việc “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”… Người mẹ được khắc hoạ
trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật nhất đã từng xuất hiện như thế này trong nhiều trang thơ của
Tố Hữu và bao giờ cũng gây một mối giao cảm mãnh liệt.
Đó là những con người từng cùng vui niềm vui của lớp học xoá mù chữ, diệt giặc dốt và
những giờ liên hoan tưng bừng với ngọn đuốc sáng :
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sang những giờ liên hoan
Đó còn là những người lạc quan yêu đời gắn bó cùng kháng chiến và cuộc sống thanh bình
tươi đẹp Việt Bắc :
Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
Bức tranh không chỉ có đường nét, màu sắc, ánh sáng mà còn gợi tới âm thanh : tiếng i tờ vỡ
lòng ngượng nghịu, tiếng hát ca vang núi đèo, tiếng mõ rừng chiều thân quen, tiếng chày đêm nện cối
điểm nhịp đều đều nơi suối xa… Những âm thanh ấy đã thổi cái hồn riêng vào bức tranh thơ.
Bên cạnh việc sử dụng điệp từ nhớ, trong cả đoạn thơ tác giả còn sử dụng thành công nhiều
biện pháp nghệ thuật khác. Đó là nhịp điệu thơ mượt mà, êm ái, như ru người đọc vào những kỉ niệm
bang khuâng. Đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất
Việt Bắc. Đó còn là những cách diễn tả đậm màu sắc trữ tình phù hợp với cấu tứ như cuộc chia tay của
đôi bạn tình đã từng gắn bó nay phải tạm chia xa. Việt Bắc đã trở thành người yêu (Nhớ gì như nhớ
người yêu), thành người thương (Sớm khuya bếp lửa người thương đi về) trong nỗi nhớ ấy.
Đoạn thơ trên là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Tuy nhiên, không
phải nhà thơ chỉ dừng lại ở việc tả cảnh tả người, mà qua mỗi hình ảnh thiên nhiên, mỗi hình ảnh về
con người đều chất chứa một nỗi niềm nhung nhớ của người đi. Bức tranh hiện ra với nhiều chi tiết
thật cụ thể, thật quen thuộc, thật cảm động. Điều đó thể hiện nghĩa tình thuỷ chung của người đi rất sâu
đậm với chiến khu Việt Bắc.
(4) Đoạn 4 (Ta về, mình có nhớ ta … Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung)
Trong nhiều đoạn thơ của Việt Bắc, người đọc dễ dàng bắt gặp vẻ đẹp của thiên nhiên và con
người hiện lên thật sinh động. Đặc biệt tác giả đã dụng tâm khắc hoạ một bức tứ bình về thiên nhiên,
con người Việt Bắc trọn vẹn trong khổ thơ cân đối hài hoà:Ta về, mình có nhớ ta …ân tình thuỷ
chung.
Hai câu đầu khái quát chung về nỗi nhớ, cũng là hé mở cách tạo “bố cục” cho bức tranh :
một nét vẽ hoa (những hoa) – thiên nhiên và một nét vẽ con người (cùng người), cứ thế lần lượt hiện ra
:Ta về, mình có nhớ ta/ Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Những câu tiếp theo tập trung vào miêu tả thời gian trôi đều đặn qua bốn mùa cùng những tín
hiệu riêng của cảnh và người.:
Mùa đông ấm nóng, tươi tắn trong gam màu nóng của những bông hoa chuối rừng đỏ tươi thắp
lửa thấp thoáng bên tàu lá. Cả khu rừng màu xanh như được điểm thêm sắc đỏ cùng “ nắng ánh” như
tạo một không gian khí trời mùa đông “không lạnh lẽo”. Trong khung cảnh đó, nhà thơ vẽ một nét

chấm phá về con người, đó là con người đi rừng lao động thu hái sản vật núi rừng :
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Mùa xuân Việt Bắc bạt ngàn màu trắng của hoa mơ. Màu trắng của hoa mơ như gợi sắc xuân
núi rừng Việt Bắc một nét mơn mởn tươi trong và tinh khiết. Hoà cùng sắc xuân ấy là cảnh người dân
Việt Bắc chuốt giang đan nón. Cuộc sống mùa xuân như sôi động hơn cũng chính bởi cảnh lao động
của những thôn dân nơi đây :Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Trang 5


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12

Một số tác phẩm thơ

Hè sang, tiếng ve kêu báo tín hiệu của mùa và rừng phách ào ạt đổ vàng. Đó cũng chính là lúc
“cô em gái” đi hái măng “một mình”. Mùa nào thức nấy, thiên nhiên đã cung cấp nhiều “sản vật” núi
rừng cho bữa ăn hằng ngày của người dân nơi đây. Cảnh “cô em gái” măng cũng thường xuất hiện nơi
núi rừng Việt Bắc và đã để lại ấn tượng lâu dài trong lòng người đi : Ve kêu rừng phách đổ vàng / Nhớ
cô em gái hái măng một mình.
Mùa thu thanh bình trong ánh trăng hạnh phúc. Trong ánh trăng huyền ảo lung linh, giọng ai
cất lên tiếng hát về mối ân tình thuỷ chung càng làm cho bức tranh Việt Bắc thêm thơ mộng và trữ tình
biết bao:Rừng thu trăng rọi hoà bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Đoạn thơ trên có thể xem là tuyệt bút khi viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Chỉ qua
một vài nét chấm phá, cảnh núi rừng Việt Bắc xuất hiện thật sinh động : mỗi mùa một nét riêng, thiên
nhiên hiện lên đa dạng theo thời gian, không gian, có nắng sớm, nắng chiều, trăng khuya và các mùa…
Đặc biệt, bức tranh Việt Bắc càng hữu tình, sinh động hơn khi có sự gắn bó với con người qua
cách miêu tả tài tình : một câu tả cảnh đi liền là một câu tả người. Âm hưởng bao trùm đoạn thơ là
ngọt ngào, thiết tha sâu lắng như ru vỗ con người vào nhịp nhớ đều đặn của những kỉ niệm không
quên.
(5) Đoạn 5 (Nhớ khi giặc đến giặc lùng … Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng)
Ta dễ dàng cảm nhận được đoạn thơ trên khắc hoạ cuộc sống chiến đấu nơi Việt Bắc mang âm

điệu mạnh mẽ, dồn dập, sôi nổi, hào hùng. Hình ảnh thơ hoành tráng, mang đậm chất sử thi và cảm
hứng lãng mạn bay bổng. Một hình tượng “đất nước đứng lên” như sống dậy trong mỗi câu thơ.
Đó là hình tượng người dân Việt Bắc, người cán bộ kháng chiến, bộ đội, dân công, rừng
cây, núi đá, tất cả đã thống nhất thành một trận tuyến chống quân thù : Nhớ khi giặc đến giặc
lùng/ Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.
Cuộc kháng chiến thần thánh ngày một trưởng thành lớn mạnh. Từ lúc giặc đến giặc lùng, rừng
và người Việt Bắc che chở, bao bọc nhau, đến chỗ rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây là một bước phát
triển của kháng chiến: Nhớ khi giặc đến giặc lùng/ Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Sự lớn mạnh đó là nhờ vào sự chung lòng đoàn kết chiến đấu của mọi người dân :
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Để rồi từ đó, chúng ta có những chiến thắng đầu tiên nức lòng nhân dân, bộ đội gắn với các địa
danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Phố Ràng, Cao – Lạng, Nhị Hà,…
Ai về ai có nhớ không ?...
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Đó là bức tranh Việt Bắc ra trận với khí thế sôi nổi, hào hùng. Cuộc kháng chiến chống
Pháp đã đi đến những ngày quyết định cuối cùng. Cả một đội quân nhân dân trùng trùng ra trận được
khắc hoạ hoành tráng trong mỗi câu thơ: Những đường Việt Bắc của taĐèn pha bật sang như ngày mai
lên.
Những con đường Việt Bắc cụ thể, cũng là những nẻo đường cách mạng của dân tộc đã đến
ngày rộng trải thênh thang. Con đường là hình ảnh quen thuộc trong thơ Tố Hữu gắn với ý nghĩa biểu
tượng về đường cách mạng. Tả con đường ra trận nhưng là để nói lên khí thế dũng mãnh của những
người ra trận bằng biện pháp so sánh cường điệu và từ láy gợi thanh :
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Tưởng như mặt đất cũng đang chuyển động dưới bàn chân những chiến sĩ trong một cuộc ra quân vĩ
đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa cách mạng.
Trong cuộc ra quân ấy, hình ảnh đoàn quân rất đẹp.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Đẹp trong đội ngũ điệp điệp, trùng trùng như một sức mạnh vô tận, đẹp trong ánh sao đầu
súng bạn cùng mũ nan gợi nhớ hình ảnh đầu súng trăng treo trong thơ Chính Hữu và hình ảnh súng
ngửi trời trong thơ Quang Dũng. Cái ánh sao ở đây vừa như gần gũi thân quen với mũ nan của anh, lại
như rực sáng lí tưởng trên đầu mũi súng của người lính. Một hình ảnh thơ vừa thực, vừa lãng mạn, gợi
nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.
Trang 6


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12

Một số tác phẩm thơ

Hai câu 5, 6 là hình ảnh những đoàn dân công phục vụ tuyền tiến. Khí thế mạnh mẽ của đội
quân nhân dân được tác giả khắc hoạ bằng lối thậm xưng, phóng đại :
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Hình ảnh những đoàn dân công đỏ đuốc đi trong đêm là đúng với hiện thực. Nhưng với ánh đuốc đỏ
rực ấy cùng với muôn tàn lửa bay thì lại lãng mạn biết bao. Có khác gì một hội hoa đăng ! Còn bước
chân nát đá là bước chân của những người đạp bằng mọi chông gai để đi tới, hình ảnh được lấy từ ý ca
dao : Trông cho chân cứng đá mềm…
Hai câu tiếp theo là hình ảnh những đoàn xe ra trận mà đèn pha bật sáng quét sạch màn sương
đêm dày thăm thẳm :
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sang như ngày mai lên.
Rất hiện thực mà cũng rất lãng mạn. Từ những đêm Việt Bắc, những đường Việt Bắc đó, một
cảm hứng lãng mạn bay bổng về tương lai tươi sáng của dân tộc chói loà qua từng câu thơ đầy hào khí.
Và đây là một “bản đồ vui” toả rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng :
Tin vui chiến thắng trăm miền
……
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Nhịp điệu thơ dồn dập tươi vui, náo nức phấn khởi. Mỗi một địa danh là một nốt nhạc vui rộn
ràng trong bản hùng ca chiến thắng.
Các địa danh không chỉ có ở Việt Bắc mà còn trải dọc theo trăm miền đất nước : từ Nam Bộ,
Tây Nguyên cho tới Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Sự xuất hiện của một loạt các địa danh trăm miền
bên cạnh nhau gắn với các tin vui chiến thắng dường như cho thấy tốc độ thần kì của những thắng lợi
đó.
Những từ ngữ vui về, vui từ, vui lên mặc nhiên đã đặt Việt Bắc vào tâm điểm của mọi miền
vui. Từ Việt Bắc niềm vui toả đi. Và từ khắp nơi, tin vui bay lại Việt Bắc.
* KẾT LUẬN
Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con
người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian – tất cả đã
góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu : Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống quý báu anh hùng
bất khuất, ân nghĩa thuỷ chung của cách mạng, của con người Việt Nam.
Việt Bắc (hoặc đoạn thơ trên) tiêu biểu cho hồn thơ và thể tài thơ trữ tình – chính trị mang đậm
tính sử thi, cảm hứng lãng mạng và đậm đà tính dân tộc của Tố Hữu.
Câu hỏi:
1. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Việt Bắc?
2. Phân tích một đoạn thơ.

Trang 7


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12

Một số tác phẩm thơ

3. Sóng – Xuân Quỳnh
a) Tác giả Xuân Quỳnh
- Xuân Quỳnh (1942 – 1988) quê ở La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây. Năm 13 tuổi,
Xuân Quỳnh trở thành diễn viên múa. Năm 21 tuổi, Xuân Quỳnh chuyển sang làm báo, rồi làm biên

tập viên báo Văn nghệ, biên tập viên NXB Tác phẩm mới, Ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam khóa
III.
- Tác phẩm tiêu biểu : thơ Tơ tằm – Chồi biếc (in chung, 1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió
Lào cát trắng (1974), Hoa cỏ may (1989)…
- Xuân Quỳnh thích làm thơ ngay từ khi còn là diễn viên múa và là một trong những nhà thơ tiêu
biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ
hồn hậu, chân thành nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
- Năm 2001, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
b) Bài thơ “Sóng”
Sóng được sáng tác năm 1967, trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình),
in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968). Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải
những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh.
c) Nội dung chi tiết
Trong dàn đồng ca của thơ trẻ chống Mĩ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, tươi
mát, đầy nữ tính. Đặc biệt, tiếng thơ tình yêu của Xuân Quỳnh đã làm biết bao trái tim độc giả rung
động.
Viết về tình yêu, Xuân Quỳnh cũng đã hơn một lần tìm đến kí thác vào biển (Thuyền và biển).
Tưởng “chỉ có thuyền mới hiểu” biển và “chỉ có biển mới biết” thuyền. Nhưng dường như “Thuyền và
biển” chưa nói hết được những khát vọng tình yêu, những trăn trở, âu lo và nhung nhớ trong trái tim
dịu êm đầy bão tố của người phụ nữ nên một lần nữa, Xuân Quỳnh lại tìm đến biển, gửi tâm sự vào
Sóng.
Tiêu biểu cho thành công nghệ thuật của bài thơ Sóng phải kể đến là …
(1) Phân tích hình tượng Sóng
Bài thơ Sóng được Xuân Quỳnh viết năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào. Bài thơ là
tiếng nói của tình yêu, là khát vọng muôn đời của tuổi trẻ, gắn liền với cuộc sống. Sóng là lời đối
thoại giữa Em và Anh, thực chất đó là lời độc thoại nội tâm của một người phụ nữ đang yêu; đây còn là
tiếng nói hồn nhiên, chân thành của một trái tim phụ nữ đang khát khao yêu đương.
Tứ thơ toàn bài xoay quanh một hình tượng sáng tạo có giá trị thẩm mĩ – hình tượng
sóng. Không phải ngẫu nhiên tác giả lại chọn Sóng để giãi bày tình cảm của mình mà chắc chắn phải
có nguyên do của nó. Chính bản thân Sóng đã mang nét gợi cảm và quyến rũ muôn đời đối với những

tâm hồn lãng mạn luôn say đắm cảnh đẹp thiên nhiên. Chính vì thế mà các thi nhân thường mượn sóng
để diễn tả cảm xúc của mình:
“Sóng không phải là roi mà vách đá phải mòn. Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến
tím. Sóng có nghĩa gì đâu nếu chiều nay em chẳng đến. Vì sóng đã làm anh nghiêng ngả vì em....”
(Hữu Thỉnh)
Hay Xuân Diệu lại ước mơ :
“Anh xin làm sóng biếc.
Hôn bãi cát vàng em.
Hôn thật khẽ thật êm.
Hôn êm đềm mãi mãi..”
Xuân Quỳnh cũng không ngoại lệ. Chị cũng mượn sóng để gửi niềm tâm sự. “Và gió thổi
và mây bay về núi / Lời thương nhớ ngàn lần em muốn nói / nhưng bây giờ chỉ có sóng và em.” Nhưng
nét hấp dẫn riêng của “Sóng” chính là ở việc xây dựng hình tượng. Trong bài thơ, sóng không chỉ là
hình ảnh ẩn dụ nữa mà có lúc cả sóng và em đã hòa thành một; sóng chính là em mà em cũng chính là
sóng.
Từ hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả một quy luật muôn thuở của tình yêu: Tình
yêu gắn liền với tuổi trẻ, tuổi trẻ luôn khát khao yêu đương, tình yêu là sự trẻ trung của tâm hồn :
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Trang 8


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12

Một số tác phẩm thơ

Bằng hình tượng Sóng, Xuân Quỳnh diễn tả sự băn khoăn, trăn trở của đôi lứa yêu nhau :
Muốn giải thích, cắt nghĩa về tình yêu, về người yêu và về chính bản thân mình, nhưng đều không có
câu trả lời thỏa đáng. Vì khó giải thích, cắt nghĩa, nên tình yêu luôn luôn mới mẻ, luôn luôn là sự khám
phá :

Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Bằng việc khai thác trạng thái đa dạng, đối lập của hình
tượng Sóng, tác giả đã diễn tả nỗi nhó cồn cào, khắc khoải của những người yêu nhau :
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ .
Ngày đêm không ngủ được.
Lòng em nghĩ đến anh
Cả trong mơ còn thức.”
Nhân vật trữ tình bày tỏ khát vọng về một tình yêu thủy chung và vĩnh cửu : Em muốn hóa
thân thành sóng để còn tồn tại mãi mãi trongtình yêu :
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Nhờ khai thác sáng tạo tính đối lập, đa dạng, phức tạp, vĩnh hằng của hình tượng Sóng, Xuân
Quỳnh bộc lộ sinh động những trăn trở, lo âu, khát vọng... của người phụ nữ với một tình yêu thiết tha
mạnh mẽ.
Trái tim khao khát, hạnh phúc của người phụ nữ đã được thể hiện rõ ở bài thơ Sóng. Trái tim
ấy thật chân thành, đằm thắm, chứa dựng những tình cảm rộng lớn, mạnh mẽ.
(2) Đoạn thơ “Con sóng dưới lòng sâu ... Dù muôn vời cách trở”
Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu luôn làm con tim thổn thức, rạo rực
đến đắm say.
Anh nhớ em, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em , anh nhớ lắm em ơi.
( Xuân Diệu)
Nhưng ở đây, Sóng nhớ bờ - em nhớ anh, một phát hiện rất tinh tế của xuân Quỳnh.
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ .
Ngày đêm không ngủ được.
Lòng em nghĩ đến anh
Cả trong mơ còn thức.”
Có lẽ, Xuân Quỳnh dành phần ưu ái nhiều hơn cho nỗi nhớ nên cấu trúc của đoạn thơ cũng
có phần khác biệt. Đây là khổ thơ có dung lượng câu thơ nhiều nhất (6 câu). Điều ấy đủ cho ta thấy
một nỗi nhớ đến da diết khôn nguôi đang trào dâng trong tâm hồn của nhân vật trữ tình như nhưng con
sóng miên man.
Bằng biện pháp nghệ thuật đối lập : dưới >< trên, ngày >< đêm, lòng sâu >< mặt nước, dường
như nỗi nhớ đã choáng ngợp cả không gian, chiếm lĩnh cả thời gian. Thế nhưng nếu sóng nhớ bờ đến
“ngày đêm không ngủ” thì Em nhớ anh “cả trong mơ còn thức” Nỗi nhớ không chỉ thể hiện ở dạng ý
thức mà còn thể hiện ở dạng tiềm thức. Cách bộc lộ nỗi nhớ ở dạng vô thức là một cách nói thành thật
nhất và thông minh nhất của một người phụ nữ chín chắn, từng trải. Đến lúc này chị đã tách ra khỏi
sóng để tự nói lên nỗi nhớ của mình một cách táo bạo đầy cá tính. Quả thật khi cảm xúc đã đến độ chín
nhất, sâu sắc nhất con người ta sẽ không thể trong chờ vào một đối tượng ngoại cảnh để nói dùm.
Trong tình yêu, xa cách là phép thử thông minh nhất. Bởi người ta rất dễ “ Xa mặt cách lòng”.
Nhưng với tình yêu đích thực của trái tim yêu thủy chung thì khoảng cách kia sẽ chẳng có nghĩa lí
gì cả.
Dẫu xuôi về phương bắc
Trang 9


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 12

Một số tác phẩm thơ

Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.
Nghệ thuật đối lập : xuôi >< ngược, Phương Bắc>< phương Nam và cách nói ngược “xuôi về

Bắc - ngược về Nam” ... là những hình ảnh chỉ về sự xa cách trong không gian. Thế nhưng dẫu (chỉ
hành động ngược lại) , ở nơi nào đi chăng nữa thì em vẫn chỉ hướng về một phương duy nhất đó là
“phương anh”.
Quả thật khi nỗi nhớ càng mãnh liệt, thì tình yêu càng thủy chung và niềm tin càng mạnh
mẽ :
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ.
Dù muôn vời cách trở.
Từ hình ảnh những con sóng ngày đêm miệt mài vỗ để vào được với bờ yêu thương, Xuân
Quỳnh đã khẳng định một niềm tin chắc chắn vào tình yêu của mình sẽ đến được bến bờ hạnh phúc.
Khổ thơ không phải chỉ nói sóng mà là nói đến chính tình yêu của mình – tình yêu của một con người
sẵn sàng vượt muôn vàn cách trở. Đó không phải là một tình yêu tầm thường, vị kỉ mà đó là niềm yêu
tin vào cuộc đời của một người phụ nữ đầy nghị lực và giàu yêu thương – Xuân Quỳnh.
* KẾT LUẬN
Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hoà hợp giữa sóng và em, bài thơ
Sóng diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vượt lên thử thách của
thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó, ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh
phúc lớn lao của con người.
Sóng (hoặc đoạn thơ trên) là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh.
Câu hỏi:
1. Phân tích hình tượng Sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh.
4. Phân tích từng khổ (hoặc đoạn) thơ trong bài thơ Sóng – Xuân Quỳnh.

Trang 10



×