Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh đắk lắk (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.24 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HUỲNH NGỌC HOANG HẢI

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÀNH CHÍNH, LUẬT HIẾN PHÁP

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Mã số: 60 38 01 02.

ĐẮK LẮK – NĂM 2016


Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: TS. Huỳnh Văn Thới

Phản biện 1:……………………………………………………………….
………………………………………………………………..
Phản biện 2:……………………………………………………………….
………………………………………………………………..

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành
chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng ………., Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ,


Học viện Hành chính
Số:… - Đường…………… - Quận……………… - TP………………
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201...

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc
trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Một nhà nước mà ở đó,
quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến
pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt.
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng.”.
Nói về vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. ...3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất” (Điều 107). Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 ra đời thể chế hóa Hiến pháp năm
2013, thể chế hóa quan điểm lãnh đạo của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật và tư pháp nước ta gắn với vai
trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02.6.2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân vẫn giữ nguyên chức
năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Hiện nay, trong bối cảnh Nhà nước ta đang tích cực hoàn thiện bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật
theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, trong đó có những bộ luật cơ bản nhằm bảo vệ quyền con người như: Bộ
luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, thì việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vai trò bảo vệ quyền con người

của Viện kiểm sát hay một chế định hiến định nào đó đều là điều cần thiết, cả về mặt lý luận và thực tiễn, cả ở
bình diện quốc gia hay địa phương.
Đắk Lắk là một tỉnh lớn ở Tây Nguyên. Những năm qua, công tác kiểm sát đã được quan tâm nâng cao
chất lượng, nhằm bảo về quyền con người, quyền công dân, cũng như góp phần phát hiện và xử lý nghiêm minh
những vi phạm pháp luật, góp phần ổn định trật tự xã hội, nâng cao văn hóa pháp lý nói chung. Tuy nhiên, trước
bối cảnh đổi mới cơ quan kiểm sát, đổi mới bộ máy nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền, việc nâng cao vai trò
của viện kiểm sát ở luôn là đòi hỏi thường trực, hơn nữa, thời gian qua, công tác kiểm sát ở tỉnh Đắk Lắk xuất
hiện những hạn chế về hiệu quả hoạt động, ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin của người dân vào sự công bằng
của pháp luật.
Để tìm hiểu rõ hơn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người, đánh giá thực
trạng công tác bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tìm ra những ưu điểm, khuyết
điểm và hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn đến các hạn chế, nhằm đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay, tác giả chọn đề
tài “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong bảo vệ quyền con người – từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh đề tài luận văn, đã có nhiều công trình liên quan được công bố, ở những mức độ, nội dung
nghiên cứu khác nhau. Có thể kể tới như:

1


- Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Bình luận khoa học Hiến pháp năm 2013, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB. Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2015.
- Giáo trình Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người của Nhóm tác giả (Nguyễn Đăng Dung Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên)), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
- PGS.TS.Nguyễn Ngọc Chí (2007), “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự”, Tạp chí
khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 23, tr. 64-80.
- Trần Hoàng Nhung, Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân –
Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật –

Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015…v..v
Một số bài viết riêng lẻ tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: Chu Mạnh Hùng,
“Các giải pháp đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học – trường Đại
học Luật Hà Nội, số 6/2008; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung trọng tâm để thực hiện chủ trương tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 6 16/2012;
Nguyễn Hòa Bình, "Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012,...
Qua khảo sát, cho thấy: Nhiều công trình đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò, các chức
năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người thông qua các chức năng của cơ quan này và
thông qua các giai đoạn trong tố tụng hình sự; có những nghiên cứu ban đầu về việc thực hiện nhiệm vụ, vai trò
bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát ở những địa phương cụ thể. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu hệ thống việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở Đắk
Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về vai trò Cơ quan viện kiểm sát trong việc bảo vệ quyền con người theo quy định hiện
hành và đánh giá thực hiện vai trò đó qua thực tiễn ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các
giải pháp nâng cao vai trò của cơ quan này trong bảo vệ quyền con người trong thời gian tới.
- Các nhiệm vụ của luận văn:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước; quyền con
người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam; nội dung vai trò bảo vệ quyền con người
của Viện kiểm sát nhân theo quy định hiện hành.
+ Nghiên cứu về thực tiễn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk hiện nay; nghiên cứu thực tiễn
thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người thông qua các mặt công tác của Viện kiêm sát nhân dân tỉnh, tìm hiểu
các thành tựu, hạn chế và các nguyên nhân của chúng;
+ Đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân nói
chung trong giai đoạn hiện nay, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
4. Ý nghĩa của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về vai trò bảo vệ quyền con người của viện kiểm sát
nhân dân;
- Đánh giá sự phù hợp của các quy định pháp luật về vai trò bảo vệ quyền con người của viện kiểm


2


sát qua đối chiếu thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Là nguồn tài liệu tham khảo cho tổ chức, cá nhân hữu quan; cho nghiên cứu luật học về chủ đề.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sử dụng phương pháp này để nghiên cứu các văn bản pháp
luật có liên quan đến vai trò bảo vệ quyền con người thông qua các mặt công tác của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh; các đề tài khoa học, chương trình, dự án, các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này để nêu lên cơ sở lý thuyết về vai
trò bảo vệ quyền con người thông qua các mặt công tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và đánh giá, khái quát
thành những quan điểm, luận điểm làm nền tảng lý luận cho luận văn.
- Phương pháp điều tra xã hội học: tác giả sử dụng phương pháp này thông qua các hình thức khảo sát
và phỏng vấn sâu đối với một số chủ thể có liên quan.
- Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở chương 2 của luận văn, các số
liệu thu thập, điều tra được tổng hợp, phân tích làm cơ sở đánh giá thực trạng qua đó đánh giá về thành tựu, hạn
chế để đưa ra những giải pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về vai trò bảo vệ quyền con người của viện kiểm sát
nhân dân;
- Đánh giá sự phù hợp của các quy định pháp luật về vai trò bảo vệ quyền con người của viện kiểm sát
qua đối chiếu thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Là nguồn tài liệu tham khảo cho tổ chức, cá nhân hữu quan; cho nghiên cứu luật học về chủ đề.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó phần nội dung gồm hai

chương:
Chương 1: Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước và vai trò bảo vệ quyền con người của Viện
kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực tiễn bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk và một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay.

3


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Về vị trí, vai trò: Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì
Viện kiểm sát là một trong những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước ta, là một bộ phận quan
trọng và không thể thiếu trong bộ máy Nhà nước. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân là: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
1.1.2. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam là một hệ thống độc
lập và được được tổ chức ở 4 cấp, gồm:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân có các Viện kiểm sát quân sự, gồm:
- Viện kiểm sát quân sự Trung ương.
- Viện kiểm sát quân sự cấp Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn...
- Viện kiểm sát quân sự cấp Khu vực.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân

- Chức năng, nhiệm vụ chung của Viện kiểm sát nhân dân
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của Viện kiểm sát là: “Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ: “bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
(Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013);
“bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. (Khoản 2 Điều 2 Luật TCVKSND 2014).
- Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện
việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
- Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân

4


Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các
hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận
và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự;
trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động;
việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy
định của pháp luật.
1.1.4. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sat nhân dân:
Chức năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và
hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù. Đó là nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và

nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
- Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp
chế.
- Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan
nhà nước nào ở địa phương. Nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tập trung, thống nhất lành
đạo trong ngành. Nguyên tắc này nhằm tạo ra điều kiện để ngành kiểm sát nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình là bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân trong năm 2014, toàn bộ hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân được đặt dưới sự giám sát toàn diện, thường xuyên và chặt chẽ của Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong
thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch
nước.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm về quyền con người và bảo vệ quyền con người
1.2.1.1. Khái niệm quyền con người
Trong lịch sử nhân loại trước thế kỷ XVII, đã hình thành hai quan điểm chủ yếu, khác nhau về quyền
con người.
Quan niệm thứ nhất, những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) xuất phát từ chỗ
coi con người là một thực thể tự nhiên, vì vậy quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân
sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thanh viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó
không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp,
tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban hành hay tước
bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân.
Quan điểm thứ hai, đặt con người và quyền con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Học
thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) cho rằng, các quyền con người không phải những gì bẩm sinh, vốn có
một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất


5


phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất
định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như
phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội
Học thuyết Mác - Lênin xem xét con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Con người
là một thực thể tự nhiên nhưng là một thực thể tự nhiên con người trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên
của con người có mặt xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Do đó, Quyền con người là sự
thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có) và “quyền
xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan nghiên cứu và các chuyên
gia từng nêu ra. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung,
Quyền con người: Đó là những quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách tự nhiên gắn bó mật
thiết với con người - một động vật cao cấp có lý trí, và có tình cảm làm cho con người khác với các động vật
khác, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những
quyền đó.
Còn theo TS Trần Quang Tiệp, đưa ra một định nghĩa ngắn gọn, khá đầy đủ và cụ thể về quyền con
người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong
những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định”.
Cho đến nay, giữa các nhà khoa học - luật gia trong và ngoài nước vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau
về khái niệm quyền con người, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích
tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc
tế…v…v
Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là chuẩn mực
được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Quyền con người là
quyền mà con người được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và được nhà
nước đảm bảo thông qua hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Định nghĩa này đã chỉ ra được những đặc điểm thuộc về bản chất của khái niệm về quyền con người

như nó là quyền tự nhiên, vốn có của con người, được bảo vệ bằng pháp luật quốc gia.
1.2.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người
Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn cả với pháp luật. Điều này
trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm sinh, vốn có hay phải do các nhà nước quy định, thì việc thực
hiện các quyền vẫn cần có pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được bảo
đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật.
Như vậy, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật
nhằm cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện các quy định đó trong
thực tiễn đời sống.
Tóm lại, có thể hiểu, bảo vệ quyền con người chính là việc nhà nước thông qua pháp luật ghi nhận và
bảo đảm thực hiện.
1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam
Tư tưởng về quyền con người đã được thể hiện khá sớm tại Việt Nam, đặc biệt, thể hiện thành văn rõ rệt

6


ngay từ khi đất nước giành được độc lập từ tay thực dân Pháp sau cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại của dân tộc.
Ngày 02 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc
lập, khai sinh ra nước VNDCCH. Trong bản Tuyên ngôn độc lập ấy, với việc nhắc lại Tuyên ngôn độc lập năm
1776 của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Quyền con người được quy định trong Chương II của Hiến pháp năm 2013 là chương quy định về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại
Chương V của Hiến pháp năm 1992 (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân), đồng thời chuyển các quy định
liên quan đến quyền con người, quyền công dân tại các chương khác của Hiến pháp năm 1992 về chương này.
Điều này đã khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến
pháp, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta, làm cho mỗi người và mọi người phát triển tự do
và toàn diện.

1.2.3. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Quyền con người trong mọi lĩnh vực, được coi là giá trị của nhân loại, phải được tôn trọng và bảo vệ
bao gồm cả các quyền cần được đảm bảo bởi pháp luật, trong đó có pháp luật Dân sự; Luật Thi hành án hình sự;
Bộ luật hình sự; Bộ luật tố tụng hình sự của Việt Nam cùng các văn bản pháp lý khác có liên quan đều có các
quy định điều chỉnh và tác động trực tiếp lên quyền sống của con người.
1.3. NỘI DUNG VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG LĨNH VỰC HÌNH SỰ
1.3.1. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự
1.3.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự
1.3.3. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ,
tạm giam
1.3.4. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành
bản án, quyết định của Toà án

7


Chương 2
THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HIỆN NAY
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH ĐẮK LẮK, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1.1. Khái quát về tỉnh Đắk Lắk
Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, có cộng đồng dân cư gồm: 47 dân tộc. Trong đó,
người Kinh chiếm trên 70%; các dân tộc thiểu số như Ê Đê, M'nông, Thái, Tày, Nùng... chiếm gần 30% dân số
toàn tỉnh.
Dân số tỉnh phân bố không đều trên địa bàn các huyện, tập trung chủ yếu ở thành phố Buôn Ma Thuột,
thị trấn, huyện lỵ, ven các trục Quốc lộ 14, 26, 27 chạy qua như Krông Búk, Krông Pắk, Ea Kar, Krông Ana.

Các huyện có mật độ dân số thấp chủ yếu là các huyện đặc biệt khó khăn như Ea Súp, Buôn Đôn, Lắk, Krông
Bông, M’Đrắk, Ea Hleo v.v…
Trên địa bàn tỉnh, ngoài các dân tộc thiểu số tại chỗ còn có số đông khác dân di cư từ các tỉnh phía Bắc
và miền Trung đến Đắk Lắk sinh cơ lập nghiệp.
Trong những năm gần đây, dân số của Đắk Lắk có biến động do tăng cơ học, chủ yếu là di dân tự do,
điều này đã gây nên sức ép lớn cho tỉnh về giải quyết đất ở, đất sản xuất và các vấn đề đời sống xã hội, an ninh
trật tự và môi trường sinh thái.
Về đơn vị hành chính, tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thành phố Buôn Ma
Thuột, thị xã Buôn Hồ và 13 huyện với tổng cộng 180 xã, phường, thị trấn.
2.1.2. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh có Ủy ban kiểm sát, Văn phòng, các phòng nghiệp vụ và tương đương.
2.2. THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH
ĐẮK LẮK TRONG LĨNH VỰC HÌNH SỰ
2.2.1. Trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, quản lý, điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, sự nỗ lực của các cấp, các
ngành trong tỉnh trong triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, của Quốc hội nên đã từng bước kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; an ninh chính trị trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk tiếp tục ổn định,
quốc phòng được tăng cường, trật tự an ninh toàn xã hội được giữ vững, công tác đấu tranh phòng, chống vi
phạm, tội phạm đã đạt được kết quả tích cực. Tuy nhiên, tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp, tính chất
tội phạm ngày càng nghiêm trọng; tội phạm xảy ra nhiều với hình thức, thủ đoạn phạm tội mới.
2.2.2. Trong công tác truy tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
a. Thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm
Từ năm 2013 đến nay (năm 2016), Viện kiểm sát hai cấp đã thụ lý THQCT và KSXX sơ thẩm 1.633 vụ
án, 3.269 bị cáo, cũ 197 vụ, 439 bị cáo, án mới 1.436 vụ, 2.830 bị cáo, giảm 53 vụ, 62 bị cáo so với năm 2014.
Toà án đã giải quyết được 1.464 vụ, 2.921 bị cáo, đạt 89,6% (tăng 4,6% so với chỉ tiêu kế hoạch và tăng 1,1% so
với năm 2014).
Viện kiểm sát hai cấp đã phối hợp với TAND cùng cấp tổ chức 221 phiên toà xét xử lưu động (tăng 0,3%
so với chỉ tiêu kế hoạch, giảm 1,1% so với năm 2014), 153 phiên toà để rút kinh nghiệm theo tinh thần cải cách

8



tư pháp (tăng 04 phiên tòa so với chỉ tiêu kế hoạch và tăng 81 phiên tòa so với năm 2014), trong đó có 12 phiên
tòa để rút kinh nghiệm cho cả Kiểm sát viên và Thẩm phán.
b. Thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
- Từ năm 2013 đến nay (năm 2016), VKSND tỉnh thụ lý THQCT và KSXX 567 vụ, 965 bị cáo theo thủ
tục phúc thẩm, cũ 41 vụ, 83 bị cáo, án mới 526 vụ, 882 bị cáo, tăng 03 vụ, giảm 27 bị cáo so với năm 2014. Toà
án đã giải quyết được 549 vụ, 936 bị cáo, đạt 97% (tăng 12% so với chỉ tiêu kế hoạch và tăng 4% so với năm
2014).
- VKSND tỉnh thụ lý THQCT và KSXX giám đốc thẩm 03 vụ, 04 bị cáo, giảm 03 vụ, 12 bị cáo so với
năm 2014; Toà án đã giải quyết 03 vụ, 04 bị cáo, đạt 100% (tăng 15% so với chỉ tiêu kế hoạch và bằng chỉ tiêu
năm 2014).
- Thụ lý THQCT và KSXX tái thẩm 03 vụ, 03 bị cáo (án do Viện kiểm sát kháng nghị), tăng 03 vụ, 03 bị
cáo so với năm 2014. Tòa án chưa giải quyết.
2.2.3. Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
2.2.3.1. Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
Từ năm 2013 đến nay (năm 2016), Tổng số người bị bắt, tạm giữ 1.494 người, trong đó, cũ 20 người,
mới 1.474 người (tăng 141 người so với năm 2014). Đã giải quyết 1.494 người, đạt 100%; trong đó, khởi tố
chuyển tạm giam 1.129 người, khởi tố áp dụng biện pháp ngăn chặn khác và trả tự do 364 người; chết 01 người
(do tự tử).
Tổng số bị can bị tạm giam là 3.381, cũ 618 bị can, mới 2.763 bị can (giảm 12 bị can so với năm 2014).
Đã giải quyết 2.361 bị can, đạt 69,8%; trong đó, áp dụng biện pháp ngăn chặn khác 305 bị can, án có hiệu lực
pháp luật chuyển Trại giam 1.629 bị can, trả tự do 166 bị can (với các lý do: có quyết định đình chỉ 08 bị can,
thời hạn tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn tạm giam và cho hưởng án treo 158 bị can), thi hành án tử hình 04 bị
án, huỷ bỏ biện pháp tạm giam 257 bị can; chết 07 bị can (do tự tử 02, bệnh lý 05). Số còn tạm giam 1.013 bị
can. Thông qua công tác kiểm sát, Viện kiểm sát đã không phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam 08 bị can;
không phê chuẩn lệnh tạm giam 06 bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra bắt tạm giam 01 bị can.
VKSND tỉnh ban hành kiến nghị yêu cầu Giám đốc Công an tỉnh Đắk Lắk, chỉ đạo Trại tạm giam Công
an tỉnh và các Nhà tạm giữ Công an cấp huyện khắc phục các vi phạm trong công tác tạm giữ, tạm giam, quản lý
và giáo dục người chấp hành án phạt tù.

Bên cạnh đó, công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam ở một số đơn vị vẫn còn những hạn chế, tồn
tại, như: chưa tiến hành kiểm sát chặt chẽ việc bắt, tạm giữ, tạm giam nên không phát hiện kịp thời các vi phạm
của Nhà tạm giữ và Trại tạm giam, có trường hợp khi tiến hành kiểm sát trực tiếp mới phát hiện vi phạm; một số
đơn vị, khi ban hành quyết định kiểm sát trực tiếp đã căn cứ văn bản quy phạm pháp luật không đúng quy định
hoặc qua kiểm sát trực tiếp, kết luận và ban hành kháng nghị, kiến nghị, nhưng nội dung không đúng quy định
của pháp luật v.v… VKSND tỉnh đã ban hành 40 kháng nghị, kiến nghị yêu cầu cơ quan quản lý giam, giữ khắc
phục một số vi phạm, thiếu sót, như: công tác quản lý giam giữ ở một số Nhà tạm giữ, Trại tạm giam thiếu chặt
chẽ; vẫn còn xảy ra tình trạng giam chung người bị tạm giữ với người bị tạm giam, người chưa thành niên với người
thành niên…v..v…Các kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát đều được các cơ quan quản lý giam, giữ tiếp thu
và khắc phục thiếu sót, vi phạm. VKSND tỉnh ban hành kiến nghị yêu cầu Giám đốc Công an tỉnh Đắk Lắk, chỉ
đạo Trại tạm giam Công an tỉnh và các Nhà tạm giữ Công an cấp huyện khắc phục các vi phạm trong công tác

9


tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.
2.2.3.2. Công tác kiểm sát thi hành án hình sự
Viện kiểm sát hai cấp đã chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan kiểm sát chặt chẽ các bị án thi
hành hình phạt tù, án có hiệu lực pháp luật chưa thi hành để có biện pháp thi hành. Từ năm 2013 đến nay (năm
2016), có 6.179 bị án đã có hiệu lực pháp luật (tăng 3.321 bị án so với năm 2014), trong đó, án tử hình 12, tù
chung thân 23, tù có thời hạn 4.430, án treo 1.431, cải tạo không giam giữ 283; đã thi hành 1.689 bị án, đạt
27,3%, gồm: tử hình 04, tù có thời hạn 1.132, án treo 472, cải tạo không giam giữ 81; đang thi hành 4.468 bị án,
gồm: chung thân 23, tù có thời hạn 3.284, án treo 959, cải tạo không giam giữ 202; chết 08 bị án; chưa thi hành
14 bị án, gồm tử hình 08, tù có thời hạn 06. VKSND tỉnh đã kiểm tra, thẩm định, đề nghị xét giảm thời hạn chấp
hành hình phạt tù cho 1.509 phạm nhân có quá trình cải tạo tiến bộ.
VKSND tỉnh và các Viện kiểm sát cấp huyện ban hành 06 kiến nghị đề nghị Chủ tịch UBND cùng cấp chỉ
đạo các cấp, các ngành, các cơ quan có liên quan chấn chỉnh, khắc phục các vi phạm trong công tác quản lý, giáo
dục người được hưởng án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh (các UBND đã có văn bản tiếp
thu và chỉ đạo thực hiện các nội dung kiến nghị của Viện kiểm sát).
2.2.4. Đánh giá chung

2.2.4.1. Những thành tựu và nguyên nhân của chúng
Với mục tiêu bảo vệ quyền con người, thông qua hai chức năng cơ bản là công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp,
những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đạt được những thành tựu nhất định. Đó là:
- Thứ nhất, các mặt công tác ngày càng được chuyên nghiệp hóa, được nâng cao chất lượng chuyên
môn;
- Thứ hai, những năm qua, tình hình chấp hành pháp luật về tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh đã có
những chuyến biến rõ rệt;
- Thứ ba, niềm tin của nhân dân vào vai trò của Viện kiếm sát được nâng lên.
Nguyên nhân cơ bản, quan trọng của những thành tựu trên là:
- Hệ thống pháp luật cho tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát ngày càng được hoàn thiện, công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra được thực hiện bám sát và kịp thời;
- Ý thức pháp luật, sự tích cực công vụ và trình độ, nghiệp vụ của lực lượng kiểm sát viên, kiểm tra viên
đã được nâng cao, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình giải quyết các nói chung, vụ án hình sự xâm
phạm quyền con người nói riêng.
- Sự tham gia tích cực của người dân, xã hội trong đấu tranh, bảo vệ quyền cong người cũng là nguyên
nhân quan trọng giúp cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk hoàn thành vai trò bảo vệ quyền con người
theo quy định.
2.2.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng
Trong những năm qua, ngành kiểm sát tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp để phấn đấu thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ được giao, tập trung tổ chức quán triệt và thực hiện các chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức
và hoạt động của VKS trong tiến trình cải cách tư pháp, các quy định mới của Nhà nước liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ của Ngành kiểm sát. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp tiếp
tục có chuyển biến tích cực; chất lượng, hiệu quả các lĩnh vực hoạt động kiểm sát được nâng cao hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

10


động tư pháp của VKSND tỉnh vẫn còn những tồn tại hạn chế như:
- Một số đơn vị trong các cơ quan VKSND tỉnh còn chưa chủ động thực hiện đầy đủ quyền hạn, trách

nhiệm trong công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
- Vẫn còn tình trạng chưa tích cực phối hợp tổ chức các phiên tòa để rút kinh nghiệm nhằm nâng cao
chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên.
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ở một số đơn vị chưa thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, hiệu lực
không cao; một số cán bộ thiếu rèn luyện phẩm chất, đạo đức nên đã vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật phải bị
xử lý. Một số lĩnh vực công tác nghiệp vụ chưa có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng nên giữa các đơn vị còn
hoạt động chồng chéo hoặc đùn đẩy trách nhiệm.
Những tồn tại, hạn chế trên chủ yếu là do một số Kiểm sát viên VKSND tỉnh chưa làm tròn hết trách
nhiệm trong chỉ đạo, điều hành tổ chức, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Thủ trưởng một số đơn vị
thuộc VKSND tỉnh chưa quan tâm đúng mức đến công tác quản lý, giáo dục cán bộ; năng lực trình độ của một
bộ phận cán bộ; kiểm sát viên còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; Việc bố trí cán bộ, kiểm sát viên làm công tác
kiểm sát các hoạt động tư pháp chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; sự phối hợp công tác giữa VKS với các
cơ quan hữu quan trong nhiều trường hợp còn thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp.
Tựu chung lại, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND trong việc
giải quyết các vụ án hình sự đã đạt được những thành tựu đáng kể. Song song với đó, công tác này còn những
hạn chế nhất định như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hình sự đã góp phần vào việc giải quyết nhanh
chóng vụ án, đảm bảo vụ án được xét xử nhanh chóng, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; đảm
bảo quyền con người, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và
các văn bản pháp luật khác được bảo vệ bảo pháp luật hình sự tránh khỏi sự xâm phạm của các hành vi phạm
tội.
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
2.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò bảo vệ quyền con người
của Viện kiểm sát nhân dân
Để khắc phục những bất cập, vướng mắc và tồn tại trong thực tiễn trên, nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cần tiến hành thực
hiện đồng bộ các giải pháp sau:
2.3.1.1. Sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Pháp luật TTHS có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người thông qua việc “chủ động phòng

ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” hướng tới mục đích “góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN.
Nguyên tắc cơ bản của BLTTHS đã thể hiện tinh thần bảo vệ quyền con người với hai định hướng: Xử
lý nhanh chóng, kịp thời đúng pháp luật đối với tội phạm xâm phạm quyền con người và Đảm bảo không làm
ảnh hưởng tới quyền con người khi tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật đã phát sinh nhiều thiếu sót gây khó khăn, vướng mắc cho

11


các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự. Mặt khác, với những thay đổi cơ bản trong Hiến pháp mới năm 2013 và để đáp ứng công cuộc cải
cách tư pháp hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, đặc biệt là BLTTHS là một yêu cầu cấp bách
hiện nay. Trước yêu cầu và đòi hỏi đó, một số nguyên tắc cơ bản của BLTTHS đã cho thấy những điểm hạn chế
cần sửa đổi. Cụ thể:
Thứ nhất, Điều 3 của BLTTHS 2003 quy định: "Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này. ”
Theo quy định tại điều luật trên có thể thấy rằng, điều luật này chỉ quy định mọi hoạt động tố tụng hình
sự của các chủ thể nêu trên phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật. Tuy nhiên, nếu trong quá trình thực
hiện các hoạt động tố tụng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng có
những hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ xử lý ra sao lại không được đề cập trong nguyên tắc này. Vì vậy, Điều 3
BLTTHS 2003 nên bổ sung thêm như sau:
Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này. Mọi trường hợp vi phạm pháp luật trong quá trình tố
tụng sẽ bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, Điều 13 của BLTTHS 2003 quy định:
“Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác
định tội phạm và xử lý người phạm tội.

Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định.”
Như vậy, theo quy định tại Điều 13 BLTTHS 2003 thì chỉ những cơ quan sau đây mới có quyền khởi tố
và xử lý vụ án hình sự. Quy định như trên là chưa đầy đủ bởi theo quy định tại Điều Điều 104 BLTTHS 2003
quy định:
Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thủ
trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra
quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp quy định tại Điều 111 của Bộ luật này...
Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét
xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
Như vậy, Điều 13 không hề đề cập đến trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự của Thủ trưởng đơn
vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác
của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân khi khi làm nhiệm vụ mà phát hiện hành vi phạm tội đến mức phải
truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực mình quản lý. Hay thẩm quyền khởi tố của Hội đồng xét xử nếu tại
phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
Từ những phân tích trên, Điều 13 BLTTHS 2003 nên bổ sung như sau: Khi phát hiện có dấu hiệu tội
phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các cơ quan khác theo quy định trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội
phạm và xử lý người phạm tội.
Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định.
Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung các quy định

trong phần các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS góp

12


phần khắc phục những hạn chế, thiết sót trong quá trình xây dựng luật trước những chuyển biến của đời sống xã
hội. Đồng thời, đáp ứng công cuộc cải cách tư pháp và việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung,
BLTTHS nói riêng, đảm bảo công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm; bảo vệ quyền con người,

quyền và lợi ích của công dân.
2.3.1.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể liên quan đến nhiệm vụ, quyền han, và trách nhiệm của
Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020" có đặt ra yêu cầu là:
“Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tư
pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong
việc thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định
tố tụng của mình”.
Việc thực hiện yêu cầu này là hết sức cần thiết để hoạt động tư pháp tiến hành trôi chảy, khắc phục tính
hình thức, quan liêu. Trong đó, một trong những vấn đề trọng tâm của ngành kiểm sát là nâng cao chất lượng
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên làm sao để họ phát huy được tính tự thực hiện, tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật và trước cấp trên về những hành vi và quyết định tố tụng của mình.
Kiểm sát viên là những người trực tiếp thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử một vụ án
hình sự sẽ có những hành vi, đưa ra những quyết định tố tụng nhất định, gắn liền với một sự kiện, tình huống cụ
thể. Kiểm sát viên phải được độc lập để chỉ giải quyết vụ án hình sự theo các quy định của pháp luật và chịu
trách nhiệm cá nhân về hành vi, quyết định của mình, không bị chi phối bởi các thẩm quyền khác. Như vậy, sẽ
tạo điều kiện cho quá trình tố tụng được tiến hành trôi chảy, xử lý vụ án được khách quan, kịp thời, toàn diện và
đúng đắn. Nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong vụ án hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 37 BLTTHS. Những quy định này nhìn chung đã khái
quát được nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên trong suốt quá trình giải quyết vụ án nhưng vẫn còn những
hạn chế bất cập.
BLTTHS quy định Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự quyền kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều
tra và lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra. Với quy định này, chúng ta có thể thấy, kiểm sát viên không thực sự
được độc lập khi thực hiện các quyền hạn tố tụng của mình. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, kiểm sát
viên là người trực tiếp kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra nên là người nắm bắt rõ nhất những
trường hợp đủ căn cứ để khởi tố vụ án hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can... nhưng lại không
có những quyền hạn này mà vẫn phải báo cáo Viện trưởng, phó Viện trưởng quyết định. Việc này gây ra rất
nhiều hạn chế cho kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án.

Tóm lại, việc sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát và của kiểm sát viên
trong tố tụng hình sự tạo ra sự chủ động trong việc thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của KSV trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Qua đó,
góp phần vào việc thúc đẩy giải quyết vụ việc được thuận lợi, nhanh chóng, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Bảo đảm việc phát hiện và xử ký kịp thời hành vi tội phạm và người phạm tội; qua đó góp phần vào việc
phòng chống tội phạm. Mặt khác, góp phần vào việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã được pháp

13


luật thừa nhận và bảo vệ.
2.3.2. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người của Viện
kiểm sát nhân dân
2.3.2.1. Đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát
Với việc ban hành Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02.01.2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24.5.2005 của Bộ Chính trị “Về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020” và
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Theo tinh thần của
các Nghị quyết này, chức năng của viện kiểm sát sẽ tiếp tục phải được điều chỉnh cho phù hợp hơn với thực tế
và bảo đảm hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trước yêu cầu đặt ra của công cuộc cải cách tư pháp, yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm và người phạm tội, góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo
vệ quyền con người trong giai đoạn hiện nay. Việc đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
kiểm sát là yêu cầu bức thiết đặt ra hiện nay.
Để việc đổi mới tổ chức bộ máy ngành kiểm sát mang lại hiệu quả cao, chúng ta cần tiến hành các giải
pháp:

-

Tiếp tục thực hiện các biện pháp tổ chức hệ thống VKSND cho phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà


án nhân dân theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp; kiện toàn tổ chức bộ máy VKS phù hợp với thực tế
công việc, khả năng cán bộ và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ được giao. Quá trình rà soát, quy hoạch, bổ nhiệm,
Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh sẽ chú trọng cán bộ trẻ, cán bộ nữ có năng lực, triển
vọng, phẩm chất đạo đức tốt để bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo quản lý.

-

Trong hệ thống cơ quan VKSND cấp tỉnh, cần xây dựng một số cơ quan của VKS được tổ chức theo

lĩnh vực hoạt động chuyên sâu: chuyên điều tra, truy tố các tội phạm có tổ chức, tội phạm kinh tế, tội phạm
tham nhũng, tội phạm ma túy, tội phạm do thanh, thiếu niên thực hiện, tội phạm giao thông, tội phạm môi
trường, tội phạm liên quan đến xuất, nhập cảnh, tội phạm thuộc lĩnh vực công nghệ, tin học...

-

Chú trọng thường xuyên việc cử cán bộ VKSND tỉnh xuống chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cho

VKSND cấp huyện.
Bên cạnh việc đổi mới hệ thống tổ chức theo tinh thần các nghị quyết nêu trên, việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ kiểm sát cũng cần phải được đặc biệt chú trọng. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và
Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị cũng đề ra mục tiêu xuyên suốt là: Xây dựng nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, từng bước hiện đại phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc
Việt nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và
hiệu lực cao nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Một trong những yêu cầu
quan trọng mà công cuộc cải cách tư pháp đặt ra là xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ có chức
danh tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn gắn với trách nhiệm pháp lý. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
kiểm sát , VKSDN tỉnh Đắk Lắk cần:

-


Đặc biệt quan tâm tới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên cả về chuyên môn,

nghiệp vụ và về giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp. Cần phải tuyển chọn cán bộ có trình độ,
năng lực cho khâu xét xử, đặc biệt là khả năng hùng biện tranh tụng tốt tại phiên toà. Hoàn thiện khâu đào tạo

14


cán bộ, công tác kiểm sát hoạt động xét xử đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, trang bị đây đủ phương tiện hỗ trợ tối ưu
cho công việc, tạo điều kiện đê cán bộ công tác theo đúng sở trường, lĩnh vực đào tạo;

-

Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát trong sạch, vững mạnh, trung thành với sự nghiệp cách mạng của

Đảng, dũng cảm đấu tranh bảo vệ công lý và pháp chế xã hội chủ nghĩa, có tinh thần trách nhiệm và lương tâm
nghề nghiệp;

-

Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát vững vàng về chính trị, am hiểu về chuyên môn nghiệp vụ, trong

sáng về phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp;

-

Cần có kế hoạch quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo, thường xuyên và kịp thời trang bị những kiến

thức về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xã hội, kiến thức về khoa học pháp lý để cán bộ, kiểm sát viên nắm vững

chính sách pháp luật, thực hiện có hiệu quả công tác kiểm sát.

-

Kiểm sát viên được pháp luật bảo đảm vị thế, Kiểm sát viên là người đại diện cho lợi ích công và hoạt

động độc lập. Không bị lệ thuộc hay phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, để bảo đảm các hoạt động của
Kiểm sát viên được vô tư, khách quan và đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, việc đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm sát viên góp phần vào việc
thực hiện mục tiêu mà nghị quyết 49 đã đề ra Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm
minh, từng bước hiện đại phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp
mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
2.3.2.2. Đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm sát
Ngành kiểm sát còn cần phải chú trọng tới việc đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành của
ngành nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của ngành qua đó góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp,
đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, các quyền cơ bản của công dân.
Cần nâng cao chất lượng của hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Lãnh đạo VKSND
phải quán triệt, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của việc tranh tụng tại phiên tòa cho Kiểm sát
viên, từ đó có định hướng đúng về vấn đề tranh tụng; ngành Kiểm sát phải thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo và
đào tạo lại cho đội ngũ Kiểm sát viên, trong đó có chương trình chuyên sâu về kỹ năng tranh tụng; VKSND tỉnh
(và huyện) cần tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên. Định kỳ 06 tháng, một
năm, VKS tiến hành sơ kết, ra thông báo chung về hoạt động tranh tụng của kiểm sát viên gửi các đơn vị để
cùng học tập, rút kinh nghiệm.
Việc đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm sát nhằm góp phần đảm bảo
việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát trong công cuộc phòng chống tội phạm và bảo vệ
quyền con người, quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
2.3.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các
cơ quan, tổ chức có liên quan trong tố tụng hình sự.
2.3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành kiểm sát

2.3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ lương, phụ cấp, ưu đãi đối với đội ngũ
cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ Kiểm sát.

15


KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu về vai trò bảo vệ quyền con người của VKSND tỉnh qua trường hợp ở Đắk Lắk
(trong lĩnh vực hình sự), chúng tôi đưa ra một số kết luận sau:

1. Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức VKSND 2014 có nhiều nội dung mới nhằm tăng cường vài trò
bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, thông qua hai chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp.

2. Chức năng của VKS trong TTHS là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHS. Thông qua các hoạt động của mình, VKS đã góp phần bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong pháp luật TTHS. Việc bảo vệ quyền con người của
VKS trong TTHS thể hiện trên hai phương diện: Một là đấu tranh chống tội phạm, phát hiện kịp thời để đưa ra
xử lý nghiêm minh trước pháp luật đối với người phạm tội xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp, trong
đó có quyền của con người. Hai là, đảm bảo các quyền của con người (của người bị tình nghi, bị can, bị cáo,
người bị kết án) không bị pháp luật tước bỏ, được tôn trọng.

3. Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt
các nhiệm vụ, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tập
trung điều tra, truy tố và kiểm sát việc xét xử các vụ án, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới đất nước. Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, trong quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKS tỉnh vẫn còn những tồn tại, hạn chế do việc thiếu trách nhiệm
trong chỉ đạo, điều hành tổ chức, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; công tác quản lý, giáo dục cán bộ;
năng lực trình độ của một bộ phận cán bộ kiểm sát viên còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; sự phối hợp công
tác giữa VKS tỉnh với các cơ quan hữu quan trong nhiều trường hợp còn thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp.


4. Trước tình hình đó, việc sửa đổi bổ sung một số quy định trong BLTTHS về các nguyên tắc cơ bản
trong TTHS; bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trong BLTTHS
có ý nghĩa rất quan trọng đối với VKSND trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để bảo vệ quyền con người.
Tăng cường quan hệ phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan khác,
đặc biệt là mối quan hệ giữa Tòa án với VKS tỉnh; tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ
lương, phụ cấp ưu đãi... đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ Kiểm sát góp phần mang lại hiệu quả
tích cực cho hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của VKS trong TTHS, qua đó góp phần vào công cuộc cải
cách tư pháp, đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, các quyền cơ bản của công dân.

16



×