Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan cấp Bộ hiện nay? Nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.03 KB, 11 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đặc biệt trong nhà nước
pháp quyền và xã hội công dân thì pháp luật ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng.
Xây dựng một hệ thống pháp luật tiên tiến, đồng bộ, thống nhất và bảo đảm phát
triển bền vững thì từng bộ phận của cũng phải có chất lượng cao, phải thống nhất,
hài hòa với nhau. Một trong số nhóm văn bản đang thu hút được sự quan tâm của
xã hội là văn bản quy phạm pháp luật( QPPL) do cơ quan cấp Bộ ban hành. Các bộ,
cơ quan ngang bộ hoạt động theo nguyên tắc thủ trưởng. Vì thế, bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ là người đứng đầu và là người chịu trách nhiệm về các
hoạt động của bộ. Do đó, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền
thay mặt bộ, cơ quan ngang bộ ban hành văn bản QPPL( sau đây gọi là văn bản
QPPL của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ). Theo quy định của pháp luật
hiện hành, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền ban hành thông
tư. Trong hệ thống văn bản pháp luật, thông tư có vai trò quan trọng nhưng thực tế
có một số vấn đề như thẩm quyền ban hành, thủ tục ban hành văn bản pháp luật của
cơ quan cấp bộ chưa được pháp luật và thực tiễn vây dựng văn bản quan tâm mọt
cách xác đáng. Nghiên cứu, đánh giá pháp luật và hoạt động ban hành thông tư có
để có giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động này là việc làm
cần thiết. Vì vậy em xin chọn đề tài: “ Thực trạng ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của các cơ quan cấp Bộ hiện nay? Nguyên nhân và giải pháp” để
nghiên cứu, từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động ban hành văn bản QPPL
của các cơ quan cấp Bộ hiện nay.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật

1


Khái niệm văn bản QPPL được đề cập tại khoản 1 Điều 1 Luật ban hành văn
bản QPPL năm 2008: Văn bản QPPL là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành


hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, thủ tục được quy định trong
Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 hoặc trong Luật ban hành văn bản QPPL
của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có
hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan
hệ xã hội.
2. Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
- Văn bản QPPL do cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc
phối hợp ban hành.
- Văn bản QPPL phải được ban hành theo hình thức, thủ tục do pháp luật quy
định
- Văn bản QPPL chứa đựng các quy phạm pháp luật. QPPL là quy tắc xử sự
chung do cơ nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp
thông trị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Các quy tắc xử sự là các khuôn mẫu,
những chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia
quan hệ xã hội được các quy tắc đó điều chỉnh.
II. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN CẤP BỘ
1. Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang bộ
Căn cứ vào khái niệm văn bản QPPL đã được quy định trong Luật ban hành
văn bản QPPL năm 2008 cho thấy văn bản QPPL do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ ban hành cũng chứa đựng những đặc điểm cơ bản của văn bản QPPL, đó
là: chủ thể ban hành văn bản là Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, được ban
hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định trong Luật ban hành văn bản
QPPL năm 2008. Các văn bản này có nội dung chứa đựng các nguyên tắc xử sự
chung, quy tắc xử sự chung được hiểu là một hoặc một nhóm quan hệ xã hội nhất
định được áp dụng nhiều lần với một hoặc một nhóm đối tượng, có hiệu lực trong
phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương, lĩnh vực mà có tác động đến. Các quy tắc
2



xử sự chung này được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã
hội thuộc thẩm quyền điều chỉnh của Bộ, cơ quan ngang bộ.
2. Thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ.
Cùng với Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý vĩ mô toàn
xã hội thông qua việc thực hiện các công cụ để quản lý chung. Và một trong các
công cụ đó là quyền lập quy – quyền xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
Thẩm quyền về hình thức: Là việc pháp luật quy định cho những chủ thể có
thẩm quyền ban hành những loại văn bản QPPL nhất định. Điều 2 Luật ban hành
văn bản QPPL năm 2008 quy định Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ có
thẩm quyền ban hành thông tư. Ngoài ra, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang
bộ còn có quyền ban hành thông tư liện tịch với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa các bộ trưởng và thủ trưởng cơ
quan ngang bộ với nhau(Khoản 11 Điều 2 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008)
Thẩm quyền về nội dung
Thẩm quyền về nội dung là giới hạn quyền lực của các chủ thể trong việc
ban hành văn bản QPPL để giải quyết công việc thuộc thẩm quyền do pháp luật
quy định. Theo đó, trong giới hạn quyền lực của mình thì Bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ được ban hành thông tư để quy định các vấn đề như:
- Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị
quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Nghị
định của Chính phủ; Nghị định của Thủ tướng Chính phủ.
- Thông tư còn được ban hành để quy định về quy trình, quy chuẩn kỹ thuật,
định mức kinh tế kỹ thuật của ngành, lĩnh vực do mình phụ trách cũng như quy
định các biện pháp để thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực do mình phụ
trách và những vấn đề khác do Chính phủ giao. Ngoài ra, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ còn ban hành thông tư liên tịch với Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để hướng dẫn việc áp dụng
3



thống nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng và những vấn đề khác liên quan đến
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.
3. Hiệu lực của văn bản QPPL của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang
bộ ban hành
Hiệu lực của văn bản QPPL được hiểu là giới hạn về khoảng không gian,
thời gian của văn bản.
Hiệu lực về không gian là giới hạn về lãnh thổ, về vùng địa lý mà văn bản có
khả năng tác động đến. Bộ, cơ quan ngang bộ là những cơ quan nhà nước trung
ương, vì vậy văn bản QPPL của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ có hiệu
lực trong phạm vi cả nước và được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân,
trừ trường hợp văn bản có quy định khác hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Hiệu lực theo thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là sự tác động của
văn bản đến các quan hệ xã hội nhất định. Đối với hiệu lực về thời gian của văn
bản bao gồm thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc hiệu lực của văn bản. Thời
điểm có hiệu lực của văn bản được quy định tại Điều 78 Luật ban hành văn bản
QPPL năm 2008 như sau:
- Thời điểm có hiệu lực của văn bản QPPL được quy định trong văn bản
nhưng không sớm hơn 45 ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành
- Trường hợp văn bản QPPL quy định các biện pháp thì trong trường hợp
khẩn cấp, văn bản được ban hành kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên tai,
dịch bệnh thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành nhưng phải
được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa
tin trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng công báo nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chậm nhất sau hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban
hành
- Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn bản quy phạm
pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành
4



- Trong thời hạn chậm nhất là hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký
ban hành, cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gửi văn bản đến cơ
quan Công báo để đăng Công báo.
- Cơ quan Công báo có trách nhiệm đăng toàn văn văn bản quy phạm pháp
luật trên Công báo chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được văn bản.
- Văn bản quy phạm pháp luật đăng trên Công báo là văn bản chính thức và
có giá trị như văn bản gốc.
Văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự chung, được áp
dụng nhiều lần trong thực tế cho nên trong các văn bản quy phạm pháp luật nói
chung thường không có quy định về thời điểm hết hiệu lực của văn bản.
4. Một số nguyên tắc chính trị - pháp lý trong ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan ngang Bộ
Nguyên tắc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nói
chung, của các cơ quan cấp Bộ nói riêng đều dựa trên các nguyên tắc chung được
quy định tại Điều 3 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008.
III. Các giai đoạn của quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của
Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ
a. Dự thảo thông tư
Nhiệm vụ khi xây dựng dự thảo thông tư phải đảm bảo yêu cầu hình thành
một hệ thống quy phạm hoàn hảo, thiết lập một cơ chế vững chắc cho việc thực
hiện các quy phạm đó trong những quan hệ pháp luật cụ thể, đảm bảo sự hòa nhập
của các quy định mới với hệ thống pháp luạt hiện hành. Theo quy định, Bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bộ phân công và chỉ đạo đơn vị trực thuộc soạn thảo dự
thảo thông tư và xây dựng tờ trình. Sau đó đăng tải trên trang thông tin điện tử của
cơ quan ban hành. Khi được Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ phân công
nhiệm vụ xây dựng dự thảo thông tư và tờ trình thì đơn vị được giao chủ trì soạn
thảo phải có trách nhiệm phối hợp với tổ chức pháp chế và các đơn vị có liên quan
tổng kết tình hình thi hành pháp luật; khảo sát đánh giá thực trạng quan hệ xã hội

trong lĩnh vực có liên quan đến dự thảo; nghiên cứu các tài liệu có liên quan, chuẩn
5


bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự thảo, tổ chức lấy ý kiến, chuẩn bị tờ trình và
tài liệu có liên quan đến dự thảo.
b. Soạn thảo dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Để có thể soạn thảo văn bản QPPL thì trước hết biên soạn thảo phải khảo sát.
đánh giá tình hình thực tiễn có iên quan đến chủ đề dự thảo văn bản. Khi khảo sát
không chỉ chú ý tới thực trạng mà còn phải dạc biệt quan tâm tới việc tìm hiểu
nguyên nhân, quy luật và xu hướng vận động của đối tượng khảo sát, tạo tiền đề
cho việc xác định các giải pháp hợp lý trong quá trình xác lập nội dung văn bản.
Trên cơ sở đó, ban soạn thảo xây dựng đề cương chi tiết của dự thảo văn abnr
QPPL. Sau khi đề cương được cấp có thẩm quyền thông qua, ban soạn thảo tổ chức
việc soạn thảo văn bản. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ quan trọng của từng vấn
đề cụ thể, ban soạn thảo có thể lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo bằng các hình thức
và trong những phạm vi khác nhau để đảm bảo văn bản được ban hành có tính khả
thi trên thực tế là cao nhất.
c. Giai đoạn thẩm định
Thẩm định là việc kiểm tra trước nhằm phát hiện những vi phạm, khiếm
khuyết, hạn chế và dự báo phòng ngừa những điểm sai trái có thể có trong dự thảo.
Đây là một công đoạn quan trọng của quá trình xây dựng văn bản QPPL để đảm
bảo cho việc ban hành đạt chất lượng về nội dung, hình thức và kỹ thuật pháp lý.
Kết thúc hoạt động thẩm định, chủ thể tiến hành phải có báo cáo thẩm định
gửi cơ quan ban hành văn bản QPPL. Báo cáo này là một trong những cơ sở để cơ
quan có thẩm quyền xem xét việc có thông qua dự thảo hay không.
d. Thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Sau khi dự thảo đac được hoàn thiện, đã có báo cáo thẩm định, ban soạn thảo
phải có văn bản trình dự thảo, su đó gửi hồ sơ đến cơ quan ban hành đê xem xét và
thông qua dự thảo. Việc thông qua dự thảo văn bản QPPL có thể được tiến hành

một hoặc nhiều lần tùy thuộc vào tính chất, nội dung của từng dự thảo.
e. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật

6


Văn bản QPPL đã được thông qua cần được ban hành bằng cách công bố
rộng rãi với những hình thức khác nhau để nhân dân và những đối tượng có liên
quan biết và thực hiện. Tùy thuộc vào mỗi loại văn bản, vào tính chất và nội dung
của từng văn bản cụ thể, các văn bản QPPL có thể được ban hành bằng những hình
thức khác nhau do pháp luật quy định như: đăng công báo, đăng toàn văn trên các
báo hoặc đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, niêm yết tại trụ sở
cơ quan ban hành hoặc tại những nơi do chính quyền quy định, gửi trực tiếp hoặ
qua mạng internet cho đối tượng có nghĩa vụ thực hiện.
IV. THỰC TRẠNG BAN HÀNH VĂN BẢN QPPL CỦA BỘ TRƯỞNG,
THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN NGANG BỘ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Thành tựu đã đạt được
Trong hầu hết các trường hợp, luật chỉ có quy định chung chung và chỉ mang
tính nguyên tắc cần được cụ thể hóa. Do đó việc ban hành các văn bản quy định chi
tiết như thông tư để làm cầu nối đưa luật vào đời sống thực tiễn là việc làm quan
trọng và cần được quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Với những cải cách và cố
gắng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hiện nay, hoạt động này đã có bước phát
triển đáng kể và đạt được những thành tựu nhất định: Số lượng thông tư ban hành
ra đạt kết quả khả quan, chất lượng văn bản cũng được nâng cao và đặc biệt đã
được ban hành một cách kịp thời, đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Với sự ra
đời của Luật ban hành văn bản QPPL thì tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn và phức
tạp của hệ thống pháp luật đã phần nào được khắc phục. Văn bản được ban hành ra
đã nâng cao về cả số lượng và chất lượng.
2. Những vấn đề còn tồn tại
Bên cạnh những thành tựu trên thì việc ban hành văn bản quy phạm pháp

luật của cơ quan cấp bộ còn tồn tại một số hạn chế sau:
Hệ thống pháp luật của nước ta là hệ thống luật khung vì vậy mà số lượng
văn bản cần để hướng dẫn thi hành luật rất nhiều, một trang văn bản luật cần đến
vài chục trang văn bản hướng dẫn, có khi văn bản hướng dẫn còn sai với tinh thần
của luật, tình trạng một luật ra đời cần nhiều nghị định hướng dẫn và một nghị định
7


lại cần có nhiều thông tư quy định chi tiết đã dẫn đến việc quá tải trong việc ban
hành thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Điều đó dẫn đến tình
trạng thông tư được ban hành một cách vội vã cho đủ số lượng nên chất lượng kém,
đôi khi vi phạm pháp luật. Chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nói
chung, thông tư nói riêng làm cho các quy định của luật chậm đi vào cuộc sống; các
cơ quan, tổ chức áp dụng không thống nhất, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước,gây khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật, ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Trách nhiệm này trước hết thuộc về cac
cơ quan được phân công soạn thảo, chưa chỉ đạo sát sao, tập trung nguonf lực thời
gian vào để thực hiện. Nhiều văn bản pháp luật ở nước ta chưa đảm bảo được tính
thống nhất nên trong nhiều trường hợp giải thích ở lĩnh vực này lại mâu thuẫn với
lĩnh vực kia
3. Nguyên nhân của những tồn tại.
- Quy trình ban hành văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành nói chung
thông tư nói riêng vẫn còn bộc lộ những điểm bất hợp lý, chưa thật khoa học làm
kéo dài thời gian xây dựng, ban hành. Nhiều đạo luật pháp lệnh đã ban hành, nội
dung có hiều quy đinh khung chưa cụ thể, nhiều quy định không áp dụng được
ngay đòi hỏi phải có thông tư và các văn bản QPPL khác hướng dẫn
- Lãnh đạo một số bộ ngành chưa quan tâm đầy đủ đến công tác ban hành
văn bản quy định chi tiết,hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, chưa tập trung chỉ đạo
các đơn vị, cán bộ, công chức của bộ, ngành trong công tác soạn thảo.
- Chất lượng, kỹ năng của công chức trong việc soạn thảo các văn bản chi

tiết, hướng dẫn chưa cao, dẫn đến việc nhiều dự thảo đã trình lên cơ quan có thẩm
quyền nhưng vẫn tiếp tục phải chỉnh sửa, bổ sung, kéo dài thời gian soạn thảo.
- Hiện nay còn thiếu các quy định bảo đảm việc soạn thảo văn bản QPPL
phải dựa trên những nghiên cứu, đánh giá khoa học, đặc biệt là đánh giá dự báo tác
động pháp luật – kinh tế - xã hội của những chính sách, quy định pháp luật sẽ được
ban hành. Công tác rà soát các quy định hiện hành, các cam kết quốc tế, khảo sát

8


nhu cầu điều chỉnh của pháp luật trong thực tế nhằm chuẩn bị cho việc soan thảo
vbqppl hầu như chưa được thực hiện đầy đủ, chuyên nghiệp.
- Quy trình soạn thảo văn bản chưa thực sự phát huy được sự tham gia của tổ
chức, cá nhân có liên quan. Việc lấy ý kiến của nhân dân, của đối tượng chịu sự tác
động trực tiếp của văn bản và tiếp thu ý kiến phản biện của xã hội còn hình thức,
thiếu cơ chế đề cao trách nhiệm của cơ quan soạn thảo trong việc nghiên cứu, tiếp
thu để chỉnh lý dự thảo. Nhiều đối tượng chịu sự tác động của luật chưa được tạo
điều kiện thuận lợi tham gia vào quá trình ban hành văn bản QPPL.
V. KIẾN NGHỊ VỀ HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH VĂN BẢN QPPL CỦA CƠ
QUAN CẤP BỘ.
Thứ nhất, cần đề cao trách nhiệm, tạo ra sức ép lớn về chịu trách nhiệm soạn
thảo đối với người đứng đầu bộ ngành trong công tác ban hành văn bản quy định
chi tiết hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh. Phải quy định rõ các chế tài trong
trường hợp văn bản kém chất lượng hoặc vi phạm pháp luật. Bộ trưởng thủ trưởng
cơ quan ngang bộ cần trực tiếp chỉ đạo công tác soạn thảo văn bản và chịu trách
nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về chất lượng, thời gian trình hoặc
ban hành các văn bản theo thẩm quyền, chủ động phối hợp với các cơ quan liê quan
giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý của mình. Bộ tưởng thủ trưởng cơ
quan ngang bộ phải xem công tác xây dựng văn bản QPPL là một nội dung trọng
tâm của bộ ngành và đưa vào nội dung khen thưởng thi đua của các đơn vị, cá nhân

do mình quản lý. Khắc phục tình trạng chủ quan soạn thảo thường bảo vệ lợi ích
cục bộ của ngành và tăng thêm quyền lực không cần thiết của ngành thông qua
soạn thảo văn bản QPPL1
Thứ hai, cần nhận thức việc ban hành văn bản QPPL để hướng dẫn thi hành
luật pháp lệnh của Chính phủ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp mang tính chất tình thế
của quá trình hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam2
Thứ ba, cần có những quy định bảo đảm cho khâu đánh giá tác động kinh tế,
xã hội của văn bản QPPL được thực thi nghiêm chỉnh trên thực tế. 3
1(1), (2) Khóa luận tot nghiệp, Ban hành văn bản QPPL cua Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ - thực trạng và giải pháp, Trường đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Thu Hương, Hà Nội – 2009.
2
3

9


Thứ tư, cần quy định cụ thể rõ ràng, cụ thể việc lấy ý kiến nhân dân, đặc biệt
là đối tượng chịu tác động trực tiếp của thông tư, không nên quy đinh một cách
chung chung như hiện nay, tạo cho việ lấy ý kiến chỉ là hình thức, tham khảo,
không có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc lấy ý kiến,
phản hồi ý kiến. 4
Thứ năm, có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao năng lực dội ngũ cán bộ làm
cong tác pháp chế ở các bộ, ngành; nâng cao trình độ hoạc định chính sách, kỹ
năng xây dựng văn bản QPPL, có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút được những
cán bộ có năng lực chuyên môn tốt và yên tâm với công tác xây dựng pháp luật.5
Thứ sáu, xây dựng chế độ huy động có hiệu quả sự tham gia của các chuyên
gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và nhân dân vào quá trình xây
dựng và ban hành văn bản QPPL6

C. KẾT LUẬN
Xây dựng nhà nước Việt Nam thành nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

là mục tiêu lâu dài của nước ta. Để thực hiện được mục tiêu này thì yêu cầu mang
tính cấp thiết là pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong cuộc
sống. Các văn bản quy phạm do cơ quan lập pháp ban hành thường chỉ chứa đựng
các quy tắc xử sự chung chung và do đó, việc áp dụng một cách trực tiếp vào các
qun hệ xã hội cụ thể. Điều đó cho thấy việc cần thiết phải có văn bản quy phạm
pháp luật cụ thể hóa các văn bản trên để pháp luật có thể đi vào thực tiễn một cách
nhah chóng và chính xác, chủ thể phù hợp nhất được phép ban hành loại văn bản
đó chính là các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, Trường đại học luật Hà Nội,
Nxb.CAND, Hà Nội, 2008.
4
5
6(3), (4), (5), (6):

Khóa luận tốt nghiệp, Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ
- thực trạng và giải pháp, Phạm Thu Hương, Hà Nội - 2009

10


2. Khóa luận tốt nghiệp, Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành – Thực trạng và phương hướng
hoàn thiện, Đặng Thị Thùy Vân, Hà Nội, 2009
3. Khóa luận tốt nghiệp, Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ - Thực trạng và giải pháp, Phạm Thu Hương,
Hà Nội, 2009
4. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008

11




×