BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LƯU THỊ THU HIỀN
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
TẠI CỤC THUẾ TỈNH ĐĂK LĂK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐĂK LĂK – 2016
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LƯU THỊ THU HIỀN
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
TẠI CỤC THUẾ TỈNH ĐĂK LĂK
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS TRẦN THỊ DIỆU OANH
ĐĂK LĂK – 2016
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG .................................................................. 8
1.1 Quan niệm chung về xử lý vi phạm hành chính ......................................... 8
1.2 Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng .................................... 12
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá
trị gia tăng ..................................................................................................... 35
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI CỤC THUẾ TỈNH ĐĂK LĂK ............ 40
2.1 Một số yếu tố ảnh hưởng đến xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk ....................................................................... 40
2.2 Tình hình xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế
tỉnh Đăk Lăk ................................................................................................. 47
2.3 Đánh giá chung về xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục
thuế tỉnh Đăk Lăk .......................................................................................... 64
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 70
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI
CỤC THUẾ TỈNH ĐĂK LĂK .................................................................... 72
3.1 Quan điểm hoàn thiện hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị
gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk ................................................................. 72
3.2 Giải pháp hoàn thiện hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng ............................................................................................................... 74
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 91
KẾT LUẬN .................................................................................................. 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 95
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk” này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Trần Thị Diệu Oanh. Các nội
dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực, không trùng lặp với
các công trình có liên quan đã được công bố. Những số liệu trong các đồ thị
phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập,
phân tích từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích
nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Học viên
Lưu Thị Thu Hiền
LỜI CẢM ƠN
Được sự chấp thuận của Học viện Hành chính Quốc gia, tôi đã hoàn
thành đề tài nghiên cứu “Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại
Cục thuế tỉnh Đăk Lăk”. Mặc dù, đây là kết quả của bản thân tôi sau một quá
trình nỗ lực học tập và nghiên cứu. Tuy nhiên, tôi khó có thể thành công nếu
không nhận được sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của TS Trần Thị Diệu Oanh;
sự hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi của các thầy, cô trong Học viện Hành
chính Quốc gia; sự giúp đỡ tận tình về công tác thu thâp, phân tích, đánh giá số
liệu, thông tin của các cán bộ, công chức Cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất đến TS Trần Thị Diệu Oanh; các thày,
cô trong Học viện Hành chính Quốc gia; các anh/chị là cán bộ, công chức Cục
thuế tỉnh Đăk Lăk và gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã hỗ trợ, tạo mọi điều kiện
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài với mong muốn đạt kết
quả tốt nhất nhưng do đây là lần đầu tiên tôi làm quen với hoạt động nghiên
cứu khoa học, kiến thức lý luận và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên
không tránh khỏi những thiếu sót mà bản thân không thấy được. Tôi rất mong
nhận được sự góp ý của các thầy, cô và các bạn học viên để hoàn thiện luận
văn của mình.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cám ơn!
Học viên
Lưu Thị Thu Hiền
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 2.1 Hoạt động thu ngân sách của Cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
Hình 2.2 Tình hình xử lý vi phạm hành chính về thủ tục thuế GTGT.
Hình 2.3 Tình hình xử lý vi phạm hành chính về thuế GTGT đối với hành vi
khai sai làm thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế
được hoàn.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, từng bước thoát khỏi bóng ma của
chiến tranh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã xác định phải đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế và “Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương
thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ. Cơ chế mới lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ
hàng hoá - tiền tệ, quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu kết hợp với
biện pháp hành chính, giáo dục, thực hiện phân cấp quản lý theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, thiết lập trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động kinh tế”.[7].
Từ đó phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong mô hình nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
thuế được coi là công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường
thuận lợi và công bằng cho sản xuất kinh doanh phát triển, giải quyết vấn đề
kinh tế xã hội của đất nước. Trong số các khoản thu về thuế thì thuế giá trị gia
tăng được đánh giá là một sắc thuế tiên tiến nhất về độ chính xác, hợp lý, khoa
học và công bằng. Sắc thuế này đã được áp dụng rộng rãi và thành công ở hơn
150 quốc gia trên thế giới (2012) trong đó có Việt Nam. Với bản chất là một
loại thuế gián thu dựa trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh
trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng, thuế giá trị gia tăng không
chỉ khắc phục được hiện tượng thuế chồng thuế mà còn góp phần khuyến khích
hoạt động xuất khẩu, khuyến khích đầu tư và đảm bảo công bằng xã hội trong
hoạt động quản lý thuế. [2],[8].
Luật thuế giá trị gia tăng đầu tiên của nước ta được Quốc hội khóa IX,
kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10/05/1997 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1999
1
trên cơ sở thay thế và có kế thừa Luật thuế doanh thu đã góp phần quan trọng
trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và định hình một hệ thống
thuế theo hướng hiện đại.
Một sắc thuế nói chung cũng như Luật thuế giá trị gia tăng chỉ thực sự đi
vào cuộc sống và phát huy được vai trò của nó như là một sắc thuế quan trọng
và tiên tiến nhất đòi hỏi phải xây dựng một cơ chế quản lý chặt chẽ, phù hợp
với đặc trưng của sắc thuế đó và phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh
tế trong mỗi giai đoạn xã hội, lịch sử nhất định.
Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng là một công cụ sắc bén
có vai trò quyết định đến hiệu quả của hoạt động quản lý thuế giá trị gia tăng
cũng như quyết định sự tồn tại, phát triển của sắc thuế này. Hoạt động xử lý vi
phạm hành chính không đạt hiệu quả cũng có nghĩa là các quy định về thuế giá
trị gia tăng chưa phù hợp, cần phải điều chỉnh,… Việc xây dựng các quy định
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng phải
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Luật xử lý vi phạm hành chính, đồng
thời phải khai thác, phát huy những thế mạnh mang tính đặc thù riêng của thuế
giá trị gia tăng mà một trong số đó là các quy định pháp luật về xử lý vi phạm
pháp luật về thuế chỉ bao gồm các hình thức xử phạt và một số biện pháp khắc
phục hậu quả, không quy định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính. Điều
này được thể hiện rất rõ tại nghị định số 129/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 10
tháng 2013 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về thuế; thông tư số 166/2013/TTBTC ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Bộ tài chính quy định chi tiết về xử phạt
vi phạm hành chính về thuế.
Trong gần 20 năm thi hành Luật thuế giá trị gia tăng đã nảy sinh nhiều
bất cập dẫn đến các vụ gian lận thuế giá trị gia tăng ngày càng nhiều, thủ đoạn
ngày càng tinh vi và phức tạp nhưng khó xử lý, hiệu quả xử lý vi phạm không
2
cao. Hệ thống chính sách pháp luật xử lý vi phạm hành chính về thuế còn khập
khiễng, thiếu đồng bộ. Nhiều quy định còn vi hiến và không phù hợp với các
nguyên tắc chung về xử lý vi phạm hành chính nên chưa khuyến khích được
cộng đồng dân cư tự nguyện chấp hành.
Đăk Lăk là một tỉnh nằm ở trung tâm khu vực Tây Nguyên, thuận lợi
cho việc giao lưu hàng hoá, những năm qua tỉnh được đánh giá có sức mua lớn
nhất khu vực. Hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại và chợ trên địa bàn
tỉnh cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu mua sắm cho các du khách đến tham quan và
đầu tư tại Đắk Lắk. Tuy nhiên, cùng với việc phát triển về kinh tế, thời gian
vừa qua tình hình vi phạm pháp luật về thuế giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh có
diễn biến ngày càng phức tạp, hành vi vi phạm pháp luật về thuế giá trị gia tăng
bị phát hiện ngày càng nhiều nhưng việc xử lý chưa đạt hiệu quả. Thực tiễn xét
xử tại Toà án các cấp trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk trong những năm gần đây cho
thấy hầu hết các các quyết định xử lý vi phạm hành chính về thuế (trong đó có
thuế giá trị gia tăng) của Cục thuế tỉnh Đăk Lăk khi bị doanh nghiệp khởi kiện
đến Tòa án đều bị Tòa án tuyên hủy gây mất niềm tin của doanh nghiệp đối với
ngành thuế tỉnh Đăk Lăk nói riêng và đối với hệ thống pháp luật về thuế giá trị
gia tăng nói chung.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả xin chọn đề tài “Xử
lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk” để
thực hiện luận văn thạc sỹ của mình với hy vọng những đóng góp của đề tài sẽ
là cơ sở tham khảo trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng, góp phần giải quyết những khó khăn, tồn tại trong hoạt động xử lý vi
phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng, nâng cao hiệu quả của hoạt động
quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế, hướng tới một hệ thống thuế hiệu quả và
công bằng.
3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn
Qua tìm hiểu những công trình đã được nghiên cứu có thể thấy một số
công trình đã nghiên cứu có liên quan về thuế giá trị gia tăng như:
- Pháp luật về thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật
học (2013), Trương Thị Hồng Nhung, Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật.
Luận văn đi sâu nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật về thuế giá
trị gia tăng và hướng hoàn thiện;
- Những vấn đề pháp lý về việc áp dụng thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam
(2002), luận án tiến sỹ Luật học, Nguyễn Thị Thương Huyền, Viện nghiên cứu
Nhà nước và pháp luật.
- Pháp luật về thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam – những vấn
đề lý luận và thực tiễn (2012), Luận án tiến sỹ Luật, Vũ Văn Cương, Đại học
Luật Hà Nội.
- Pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, thực trạng và hướng hoàn
thiện, Luận văn thạc sỹ luật học, Trần Thị Minh Hiền, người hướng dẫn khoa
học: TS Phạm Thị Thu Giang.
- Pháp luật về thuế giá trị gia tăng và các biện pháp bảo đảm thực hiện
(2002), luận văn thạc sỹ, Lê Thị Bích Liên, Hà nội.
- Một số ý kiến trao đổi về dự thảo Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế
thu nhập doanh nghiệp (2008), TS Phạm Thị Thu Giang, Tạp chí Luật học số
4/2008,…
Có thể thấy các công trình kể trên tác giả đã hướng tới nghiên cứu pháp
luật về thuế giá trị gia tăng hoặc những vấn đề liên quan đến pháp luật về thuế
nói chung, một số đề tài cũng đã bước đầu nghiên cứu về xử phạt hành chính
trong lĩnh thuế giá trị gia tăng nhưng mới dừng lại ở nghiên cứu một góc độ,
một khía cạnh (chủ yếu là hành vi vi phạm) chưa có một nghiên cứu nào hoàn
4
chỉnh và chuyên sâu về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá
trị gia tăng nhất là trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn này sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến việc xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng, từ đó đề
xuất các giải pháp đảm bảo hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thuế giá trị gia tăng đạt hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế của địa
phương.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình vi phạm hành chính và hoạt
động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk
Lăk.
- Đề xuất và luận chứng những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả trong công tác xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục
thuế tỉnh Đăk Lăk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động
xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến nay (tháng 6 năm 2016).
5
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản của
hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng tại Cục
thuế tỉnh Đăk Lăk, các văn bản pháp luật và chủ trương, chính sách đảm bảo
cho hoạt động xử lý vi phạm hành chính của Cục thuế tỉnh Đăk Lăk được
nghiêm minh, chính xác và kịp thời trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:
+ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước đối với hoạt
động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng hiện nay;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị
gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk;
+ Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc
xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp
luật, về tuyên truyền, giáo dục và thực hiện pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, như phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích, tổng
hợp, hệ thống hoá, thống kê,….
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Tổng kết lý luận về công tác xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị
gia tăng đi từ tổng quan vấn đề nghiên cứu, đến hệ thống khái niệm, các nội
dung quản lý hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng, tạo
cơ sở vững chắc cho việc đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động trên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
6
Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện chính sách pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng; là tài liệu tham khảo cho
công tác bồi dưỡng, giáo dục pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung
và xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng nói riêng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chương I. Cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng.
Chương II. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tại
cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính về thuế
giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk.
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1. Quan niệm chung về xử lý vi phạm hành chính
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính được coi là một loại vi phạm pháp luật diễn ra phổ
biến hằng ngày trong đời sống xã hội của một quốc gia, từ khía cạnh nhỏ nhất,
phạm vi ảnh hưởng ít nhất của đời sống như vượt đèn đỏ, hút thuốc nơi công
cộng, bỏ rác không đúng nơi quy định đến những khía cạnh lớn hơn, phạm vi
ảnh hưởng rộng hơn, bao quát hơn như gây ô nhiễm môi trường biển, ô nhiễm
nguồn nước, trốn thuế,… Nếu so sánh mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của
từng hành vi vi phạm hành chính với tội phạm thì rõ ràng hành vi vi phạm hành
chính có mức độ nguy hiểm thấp hơn rất nhiều lần, nhưng nếu đánh giá thiệt
hại do hành vi vi phạm hành chính gây ra và thiệt hại do tội phạm trong phạm
vi không gian và thời gian bao quát và tổng thể thì những thiệt hại do hành vi
vi phạm hành chính gây ra là không hề nhỏ bởi tỷ lệ hành vi vi phạm hành
chính cao hơn rất nhiều so với tội phạm và nó diễn ra thường xuyên, liên tục.
Hành vi vi phạm hành chính không chỉ gây thiệt hại cho xã hội, cho cá nhân
mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự quản lý hành chính của một quốc gia,…
Và trong nhiều trường hợp, hành vi vi phạm hành chính còn là một trong
những yếu tố cấu thành của tội phạm.
Để có cơ sở xử lý cũng như đấu tranh phòng và chống có hiệu quả các
hành vi vi phạm hành chính cần phải xác định chính xác ranh giới giữa vi
phạm hành chính và tội phạm. Việc xác định ranh giới này phải dựa trên cơ sở
khái niệm về vi phạm hành chính cũng như các đặc điểm của vi phạm hành
chính.
8
Vi phạm hành chính có thể hiểu là việc không tuân theo hoặc làm trái lại
những điều quy định trong hoạt động chỉ đạo, quản lý việc chấp hành luật
pháp, chính sách của nhà nước. Hành vi vi phạm hành chính xâm phạm trực
tiếp đến trật tự quản lý hành chính của một quốc gia, là cơ sở của việc xử lý vi
phạm hành chính.
Ở nước ta, khái niệm vi phạm hành chính được định nghĩa một cách
chính thức lần đầu tiên tại Điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm
1989. Theo định nghĩa này thì “Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ
chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước
mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt hành chính”.[10]. Tuy nhiên, đến Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 1995, khái niệm này không còn tồn tại nguyên nghĩa của nó mà được hiểu
lồng ghép vào trong nội hàm của khái niệm xử lý vi phạm hành chính. Theo
đó, vi phạm hành chính được hiểu là “hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy
tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính và hành vi vi phạm pháp
luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự được quy định tại các điều 21, 22, 23, 24 và 25 của Pháp lệnh
này”.[23].
Khái niệm này tiếp tục được kế thừa tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 2002 cho đến năm 2012 khi Luật xử lý vi phạm hành chính ra đời.
Khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định: “Vi phạm hành
chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.[12].
Mặc dù khái niệm vi phạm hành chính được thể hiện khác nhau nhưng
về bản chất không thay đổi và đều có chung các đặc điểm sau đây:
9
- Thứ nhất, vi phạm hành chính là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm
các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước, phá vỡ trật tự hành chính đang
được duy trì và bảo vệ. Mặc dù tính nguy hiểm của hành vi vi phạm hành chính
gây ra cho xã hội thấp, chưa hoặc không đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự
nhưng lại làm ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước và những
hành vi này theo quy định phải bị xử phạt hành chính.
- Thứ hai, chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân hoặc tổ chức. Tuy
nhiên, không phải mọi cá nhân đều là chủ thể của vi phạm hành chính mà chỉ
có những cá nhân có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hành chính.
- Thứ ba, vi phạm hành chính phải là một hành vi khách quan đã được
thực hiện (hành động hoặc không hành động).
- Thứ tư, vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi (cố ý hoặc vô ý). Lỗi
là trạng thái tâm lý, thái độ của người vi phạm đối với hành vi do mình thực
hiện cũng như đối với hậu quả của hành vi đó. Một cá nhân không bị mắc các
bệnh làm mất hoặc hạn chế khả năng điều khiển hành vi, ở một độ tuổi nhất
định đều có khả năng nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
đối với xã hội và họ có đủ khả năng để điều khiển hành vi thì họ phải tự chịu
trách nhiệm về hành vi của mình.
Đối với tổ chức thì yếu tố lỗi được thể hiện thông qua việc nhận thức và
điều khiển hành vi của cá nhân người đại diện của tổ chức đó.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm xử lý vi phạm hành chính
Thuật ngữ xử lý vi phạm hành chính chỉ mới xuất hiện và được chính
thức quy định lần đầu tiên ở nước ta trong pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 1995. Xử lý vi phạm hành chính nói trong Pháp lệnh này bao gồm xử phạt
vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Như vậy, mặc dù
đã đưa ra thuật ngữ này nhưng Pháp lệnh lại không đưa ra một khái niệm cụ
10
thể về xử lý vi phạm hành chính mà chỉ đưa ra các bộ phận để tạo thành thuật
ngữ này.
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cũng không đưa ra khái niệm
về xử lý vi phạm hành chính nhưng dựa trên cơ sở các quy định của luật này có
thể thấy thuật ngữ xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành
chính và biện pháp xử lý hành chính. Cũng trong Luật này, nhà làm luật còn
đưa ra các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính, tuy nhiên các biện
pháp này chỉ được xem xét và áp dụng đối với người chưa thành niên có hành
vi vi phạm hành chính.
- Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp
dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức
thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính.
- Biện pháp xử lý vi phạm hành chính là biện pháp được áp dụng đối với
cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là
tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường
giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc.
- Biện pháp thay thế biện pháp xử lý vi phạm hành chính là biện pháp
mang tính giáo dục được áp dụng để thay thế cho hình thức xử phạt vi phạm
hành chính hoặc biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên vi phạm hành chính, bao gồm biện pháp nhắc nhở và biện pháp quản lý tại
gia đình.
Trên cơ sở xem xét các khái niệm trên đây có thể hiểu Xử lý vi phạm
hành chính là việc người có thẩm quyền xem xét, áp dụng các hình thức xử lý
được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức
thực hiện hành vi có lỗi, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước
11
mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý về vi
phạm hành chính.
Xử lý vi phạm hành chính có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, xử lý vi phạm hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế
của nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước. Xử lý vi phạm hành chính chỉ
được thực hiện bởi cơ quan hoặc cán bộ do nhà nước trao quyền
- Thứ hai, xử lý vi phạm hành chính chỉ được thực hiện khi có hành vi vi
phạm hành chính. Chỉ những hành vi do tổ chức, cá nhân có đủ năng lực chịu
trách nhiệm hành chính thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến trật tự
quản lý nhà nước do pháp luật quy định nhưng chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự thì mới bị xử lý vi phạm hành chính.
- Thứ ba, hoạt động xử lý vi phạm hành chính phải được thực hiện theo
một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
1.2. Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị
gia tăng
Theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng là
một loại thuế gián thu đánh trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào
ngân sách Nhà nước theo mức độ tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Ðây là một loại
thuế doanh thu đánh vào mỗi giai đoạn sản xuất, lưu thông sản phẩm hàng hoá,
từ khi còn là nguyên liệu thô sơ cho đến sản phẩm hoàn thành, và cuối cùng là
giai đoạn tiêu dùng. Chính vì vậy mà chúng ta còn gọi thuế giá trị gia tăng là
thuế doanh thu có khấu trừ số thuế đã nộp ở giai đoạn trước. Thuế giá trị gia
tăng được cộng vào giá bán hàng hoá, dịch vụ, và do người tiêu dùng chịu khi
mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ. [13],[14].
12
Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng là hành
vi do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các lợi
ích mà Luật thuế giá trị gia tăng bảo vệ nhưng chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính.
Khái niệm về xử lý vi phạm pháp luật về thuế chỉ được sử dụng trong
Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007 của Chính phủ, còn các văn
bản trước và sau Nghị định này đều thống nhất sử dụng khái niệm xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. Mặc dù có sự khác nhau về mặt thuật
ngữ “xử lý” và “xử phạt” trong trường hợp này nhưng xét về mặt nội hàm của
các quy định pháp luật thì không thay đổi. Sở dĩ có sự đồng nhất thuật ngữ “xử
lý” và “xử phạt” đối với hành vi vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng là
do tính đặc thù của hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng.
Khi thực hiện xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng chỉ áp dụng các
hình thức xử phạt vi phạm hành chính mà không áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính và các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính. Do vậy, trong
luận văn này, để thống nhất với các quy định của pháp luật hiện tại và phù hợp
với đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế giá trị gia tăng nói
riêng và trong lĩnh vực thuế nói chung, người viết sẽ sử dụng thuật ngữ xử lý vi
phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh
giá các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính về thuế giá trị
gia tăng cũng như thực trạng của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về
thuế giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng là việc người có thẩm
quyền xem xét, áp dụng các hình thức xử lý theo quy định của pháp luật đối cá
nhân, tổ chức thực hiện hành vi có lỗi, vi phạm quy định của pháp luật về thuế
13
giá trị gia tăng, hoá đơn chứng từ mà không phải là tội phạm và theo quy định
của pháp luật phải bị xử lý về vi phạm hành chính.
Các hình thức xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng chỉ bao
gồm các hình thức xử phạt, cụ thể:
- Hình thức xử phạt chính:
+ Phạt cảnh cáo: Hình thức này được áp dụng đối với hành vi vi phạm
thủ tục thuế giá trị gia tăng không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo
quy định áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Hình thức xử phạt cảnh cáo được
quyết định bằng văn bản.
+ Phạt tiền: Hình thức này được áp dụng đối với các hành vi vi phạm về
thủ tục thuế giá trị gia tăng, khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế giá trị gia tăng
phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được hoàn, trốn thuế, gian lận thuế.
+ Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính:
Hình thức xử phạt này được chỉ được áp dụng là hình thức xử phạt chính tại
Nghị định số 22/CP ngày 14 tháng 4 năm 1996 của Chính Phủ về việc xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
- Hình thức xử phạt bổ sung:
+ Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật về thuế giá trị gia tăng: Hình thức xử phạt bổ sung này được
quy định tại Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 07 tháng 06 năm 2007. Hiện
nay do thực tế nên hình thức xử phạt này không khả thi nên không được sử
dụng là hình thức xử phạt chính cũng như hình phạt bổ sung.
* Đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
- Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng là một loại hoạt động
cưỡng chế của cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ quản lý hành chính nhà
nước về thuế giá trị gia tăng, hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá
trị gia tăng mang tính quyền lực nhà nước buộc các chủ thể phải chấp hành. Xử
14
lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng chỉ được thực hiện bởi cán bộ,
công chức ngành thuế hoặc Chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi
quyền hạn do nhà nước trao.
- Cơ sở ra quyết định xử lý vi phạm chính là hành vi vi phạm pháp luật
thuế về thuế giá trị gia tăng. Chỉ những hành vi do tổ chức, cá nhân có đủ năng
lực chịu trách nhiệm hành chính thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
đến trật tự quản lý nhà nước về thuế giá trị gia tăng do pháp luật quy định
nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì mới bị xử lý vi phạm
hành chính.
- Đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có đăng
ký kinh doanh và tham gia vào hoạt động sản xuất, lưu thông, tiêu dùng làm
phát sinh giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế giá
trị gia tăng. Đây là điểm đặc trưng của xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị
gia tăng vì khoản thuế này được tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá ở mỗi
giai đoạn từ sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Cá nhân, tổ chức
có đăng ký kinh doanh khi tham gia vào các hoạt động trên sẽ được khấu trừ
hoặc hoàn khoản thuế giá trị gia tăng đã nộp trước đó đồng thời phải thực hiện
nghĩa vụ báo cáo thuế định kỳ theo quy định của pháp luật.
- Hoạt động xử lý vi phạm hành chính phải được thực hiện theo một
trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
- Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng được áp dụng khi có
hành vi vi phạm kể cả trong trường hợp hành vi vi phạm về thuế giá trị gia tăng
chưa phát sinh thiệt hại.
- Chỉ được xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng khi hành vi
vi phạm đó chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ ít được áp dụng khi xử lý vi phạm
hành chính bởi một phần xuất phát từ nguyên tắc “tiền đăng, hậu kiểm” trong
15
quản lý thuế giá trị gia tăng, xuất phát từ đặc trưng chủ thể của thuế giá trị gia
tăng và hạn chế trong công tác quản lý. Bên cạnh đó hầu hết các tình tiết tăng
nặng có liên quan đến xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng đã
được quy định là hành vi phạm hành chính.
- Trong xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng hành vi vi
phạm có thể được chuyển đổi từ dạng này sang dạng khác dựa vào hậu quả của
hành vi. Hành vi trốn thuế, gian lận thuế nếu được kiểm tra phát hiện ngay
trong thời gian đang hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp thì sẽ bị xử
lý do vi phạm thủ tục thuế,…
- Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng gắn liền với xử lý vi
phạm hành chính về thuế thu nhập doanh nghiệp vì thuế giá trị gia tăng được
tính dựa trên doanh thu tăng thêm.
1.2.2. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng là những tư
tưởng chỉ đạo, định hướng cho toàn bộ quá trình xử lý vi phạm hành chính về
thuế giá trị gia tăng mà người có thẩm quyền xử lý phải tuân thủ nhằm đảm
bảo cho công tác xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng được tiến
hành theo đúng các quy định của pháp luật.
Các nguyên tắc trong xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng
bao gồm:
1.2.2.1. Nguyên tắc pháp chế
“Pháp chế là nguyên tắc hiến định, được quán triệt trong tổ chức, hoạt
động của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trong hành vi xử sự của công
dân”[20]. Trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính nguyên tắc này được thể
hiện cụ thể như sau:
- Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử lý vi phạm hành chính về thuế khi có hành
vi vi phạm hành chính về thuế do pháp luật quy định. Đây là một tư tưởng quan
16
trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là cơ sở để
đảm bảo thực hiện quyền con người của mỗi cá nhân trong xã hội. Một hành vi
được coi là trái pháp luật về thuế giá trị gia tăng chỉ khi nó được các quy định
pháp luật về thuế giá trị gia tăng ghi nhận. Nếu không được ghi nhận thì coi
như không có hành vi vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng xảy ra và
đương nhiên không bị xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng.
- Việc xử lý các vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng phải do
người có thẩm quyền tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật. Chỉ có
những chức danh được pháp luật quy định mới có thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính về thuế giá trị gia tăng, ngoài các chức danh này không một cá
nhân, cơ quan nào được quyền xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng.
- Mọi chủ thể thực hiện, tham gia vào hoạt động xử lý vi phạm hành
chính về thuế giá trị gia tăng phải tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng.
- Hoạt động xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng chịu sự
kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng có thẩm quyền, chịu sự
giám sát của các tổ chức xã hội và công dân [1].
1.2.2.2. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời, xử lý công
minh, nhanh chóng theo đúng pháp luật
Nguyên tắc này đòi hỏi ngành thuế phải tích cực chủ động trong việc
thanh tra, kiểm tra, thực thi công vụ, phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ với các cơ
quan hữu quan để kịp thời phát hiện các vi phạm hành chính về thuế giá trị gia
tăng. Việc xử lý vi phạm phải được tiến hành nhanh chóng, công minh và triệt
để. Hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo
đúng quy định của pháp luật nhằm đảm bảo lập lại trật tự pháp lý, góp phần
17
thiết lập kỷ cương, ổn định trật tự trong hoạt động quản lý thuế của nhà nước,
thúc đấy nền kinh tế phát triển.
1.2.2.3. Nguyên tắc bình đẳng, công khai, nhân đạo trong xử lý vi phạm
hành chính về thuế giá trị gia tăng
- Việc xử lý vi phạm hành chính về thuế phải căn cứ vào tính chất, mức
độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng
nặng.
- Một hành vi vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng chỉ bị xử lý
một lần, cụ thể:
+ Một hành vi vi phạm đã được người có thẩm quyền ra quyết định xử lý
hoặc đã lập biên bản để xử lý thì không được ra quyết định xử lý lần thứ hai
đối với hành vi đó. Trường hợp, hành vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện
mặc dù đã bị người có thẩm quyền đang thi hành công vụ buộc chấm dứt hành
vi vi phạm thì áp dụng hình thức xử lý với tình tiết tăng nặng theo quy định của
Luật xử lý vi phạm hành chính.
Trường hợp, người nộp thuế bị ấn định thuế thì tuỳ theo tính chất, mức
độ vi phạm bị xử lý phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
+ Trường hợp hành vi vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng có dấu
hiệu tội phạm đã chuyển hồ sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự đã có quyết định khởi tố vụ án mà trước đó người có
thẩm quyền xử lý đã có quyết định xử lý vi phạm hành chính về hành vi này thì
người đã ra quyết định xử lý phải ra quyết định hủy bỏ quyết định xử lý; nếu
chưa ra quyết định xử lý thì không xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi
đó.
+ Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm thì mỗi người vi
phạm đều bị xử lý về hành vi đó.
18