Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án nhân dân tinh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 111 trang )

BỘ NỘI VỤ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN XUÂN HÒA

TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÌNH SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK – NĂM 2016

1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan các nội dung được trình bày trong Luận văn này là
công trình nghiên cứu của tôi. Nội dung, số liệu trong Luận văn là chính xác
trung thực, phản ánh tính khách quan trong quá trình nghiên cứu. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Học viện Hành chính quốc gia.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính quốc gia
xem xét cho tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn

Đắk Lắk, tháng 8 năm 2016


Học viên

Nguyễn Xuân Hòa

2


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa.
Lời cam đoan.
Mục lục.
MỞ ĐẦU.................................................................................................

1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………
2. Tình hình nghiên cứu………………………………………………
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài………………………………………
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu……………………
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
7. Ý nghĩa của luận văn………………………………………………
8. Kết cấu của luận văn………………………………………………
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆNGIÁO DỤC
PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬCỦA TÒA
ÁN……………………………………………………………………...

1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án…………………......................................
1.2. Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
của Tòa án…......................................................................................

1.3. Những yếu tố tác động tới tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử của Tòa án..............................................
3


Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN Ở TỈNH ĐẮK
LẮK GIAI ĐOẠN 2012-2016......................................................................

2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh văn hóa
– xã hội của tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay có ảnh hưởng tới
giáo dục pháp luật cho người dân trên địa bàn tỉnh…………………....
2.2. Tình hình tổ chức giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
của Tòa án tỉnh Đắk Lắk trong những năm qua (2012 - 2016)…..........
2.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn tổ chức giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án tỉnh Đắk Lắk giai
đoạn 2012-2016……….........................................................................
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬCỦA TÒA ÁN TỈNH ĐẮK
LẮK………………………………………………........................................

3.1. Các quan điểm chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực
hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án...........
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk......................
KẾT LUẬN…………………………………………………………………

Tài liệu tham khảo……………………………………………………


4


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước ta xác định một trong nhưng
nhiệm vụ chiến lược quan trọng là phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm “nâng cao năng
lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương” [9, tr.247]. Một trong những đặc trưng cơ bản của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là pháp luật phải luôn luôn được đặt ở vị trí
thượng tôn; bất kỳ ai, dù ở cương vị nào cũng đều phải sống và làm việc theo pháp
luật. Nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với Nhà nước không chỉ là xây dựng và ngày
càng hoàn thiện hệ thống pháp luật, mà nhiệm vụ quan trọng hơn là phải làm sao
đưa pháp luật vào thực thi trong thực tế đời sống xã hội; biến các quy phạm pháp
luật thành nhân tố thường trực trong nhận thức và trở thành phương tiện điều tiết,
điều chỉnh hành vi của mỗi công dân. Con đường ngắn nhất, nhanh nhất để đưa
pháp luật vào thực tế đời sống xã hội chính là đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, trang bị cho họ những kiến thức, hiểu biết
pháp luật.
Trong những năm qua, việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật cho các
nhóm đối tượng xã hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; tạo được sự chuyển
biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần thực hiện nếp
sống và làm việc theo pháp luật trong cán bộ, nhân dân... Tuy nhiên, có nhiều lúc,
nhiều nơi, công tác này còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, làm theo kiểu hình thức,
đối phó, thiếu tính thường xuyên, liên tục nên hiệu quả không cao; ý thức pháp luật
của một bộ phận đáng kể cán bộ và nhân dân còn chậm được cải thiện, chưa tương
xứng với những thay đổi và phát triển mạnh mẽ của hệ thống pháp luật. Thực tiễn

công tác xét xử trên phạm vi toàn quốc cũng như ở từng địa phương của nước ta
trong những năm qua cũng cho thấy, do những hạn chế, thiếu kiến thức, hiểu biết

5


pháp luật nói chung, nên không ít người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật,
hoặc rơi vào tình trạng tranh chấp các quyền và nghĩa vụ, bị truy cứu trách nhiệm
pháp lý, chịu những tổn thất về thời gian, vật chất và tinh thần.
Ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó đề ra mục tiêu xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp
mà trọng tâm là hoạt động xét xử phải được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Để hiện thực hóa mục tiêu đó thì nhất thiết phải nâng cao trình độ kiến thức, hiểu
biết pháp luật cho các tầng lớp xã hội thông qua hoạt động giáo dục pháp luật; trong
đó, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án là một trong những
hình thức giáo dục pháp luật quan trọng và hiệu quả.
Xét xử là chức năng chính của tòa án, có vai trò quyết định đối với việc giữ
gìn, bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, bởi hoạt động xét xử bao giờ cũng gắn với
việc Toà án nhân danh công lý, nhân danh Nhà nước ra một quyết định, một bản án
bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
giáo dục cho công dân có ý thức tuân thủ pháp luật. Toà án có thể thực hiện hoạt
động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, nhưng tập trung nhất và quan trọng
nhất vẫn là giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử. Giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử đã được ghi nhận trong Luật Tổ chức Toà án nhân dân
năm 2014, theo đó, bằng hoạt động của mình: Toà án giáo dục cho mọi người ý
thức tôn trọng pháp luật, rèn luyện thói quen tuân thủ pháp luật, cần làm cho mọi
người tin rằng bất cứ sự vi phạm pháp luật nào cũng sẽ bị Toà án và xã hội lên án,
giáo dục mọi công dân ý thức tham gia vào hoạt động đấu tranh phòng chống tội

phạm.
Thông qua hoạt động xét xử, các chủ thể tác động đến các bên tham gia tố
tụng, thức tỉnh những cảm giác lầm lỗi và mong muốn được sửa chữa lỗi lầm đó;
tác động đến tất cả những người tham dự phiên toà, làm hình thành ở họ ý thức
pháp luật, chỉ ra cho họ con đường đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm

6


pháp luật, hay các biện pháp để tự bảo vệ quyền các quyền và lợi ích chính đáng
của mình; có thể giúp những người tham gia tố tụng và những người theo dõi phiên
tòa hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định của pháp luật được áp dụng để
giải quyết vụ án. Từ đó họ có thể tự đánh giá về trách nhiệm pháp lý của mình, giúp
hình thành ở họ những cảm xúc về sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, tôn
trọng các đại diện của công lý, giúp họ định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của
pháp luật, giúp định hướng dư luận xã hội, nhờ đó mà phát huy tác dụng phòng ngừa
riêng và phòng ngừa chung của hoạt động xét xử.
Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, Việt Nam. Tỉnh lỵ
của Đắk Lắk là thành phố Buôn Ma Thuột, nằm cách Hà Nội 1.410 km và
cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km. Tỉnh Đắk Lắk được tái lập vào ngày 26
tháng 11năm 2003, trên cơ sở tách tỉnh Đăk Lăk thành hai tỉnh mới là Đăk
Lăk và Đăk Nông. Đắk Lắk được xem là một trong những cái nôi nuôi
dưỡng Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận
là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật nhân loại thế giới công nhận. Đắk Lắk là tỉnh có
truyền thống vẻ vang, rất đáng tự hào về lịch sử, văn hóa cũng như truyền thống
cách mạng; nhân dân trong tỉnh cần cù lao động, điều kiện tự nhiên có nhiều thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát
triển chung của cả nước, nhịp độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Đắk Lắkngày một
tăng, đời sống của nhân dân trong tỉnh ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị
được giữ vững. Tuy nhiên, nhìn chung, sự phát triển của Đắk Lắk vẫn còn chậm so

với nhiều địa phương khác trong cả nước, chưa ngang tầm với những gì mà Đắk
Lắk hiện có. Kinh tế phát triển vẫn chậm, trình độ dân trí giữa các vùng, miền trong
tỉnh không đồng đều, sự nhận thức pháp luật của một bộ phận đáng kể trong nhân
dân còn hạn chế, tình hình vi phạm pháp luật còn nhiều, diễn biến phức tạp với sự
gia tăng cả về số vụ và số lượng người tham gia tố tụng.
Trong những năm qua, hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét
xử được ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk chú trọng tổ chức thực hiện và đạt được những
kết quả nhất định; song vẫn đang còn bộc lộ những hạn chế, bất cập, làm giảm hiệu

7


quả của hoạt động này. Hơn bao giờ hếtviệc tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
thông qua công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk phải tiếp tục được đẩy mạnh.
Từ thực tế đó, việc nghiên cứu lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp
luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nói chung, ở Đắk Lắk nói riêng, đánh
giá thực trạng, nguyên nhân, chỉ ra những nét đặc thù của công tác này để trên cơ sở
đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk là một vấn đề có tầm quan
trọng và có tính cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đó cũng là lý do
tác giả chọn vấn đề “Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành Luật Hiến pháp – Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những góc độ, phạm vi không giống
nhau về giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật thông qua xét xử của tòa
án, hay tại một địa bàn nói riêng. Có thể kể tới một số công trình tiêu biểu theo các
nhóm sau:
Những công trình nghiên cứu lý luận chung về giáo dục pháp luật
- Nguyễn Đình Lộc (1987), Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật ở

Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Luật học (bảo vệ ở Liên Xô cũ). Đây là một trong số
ít công trình nghiên cứu đầu tiên về giáo dục ý thức pháp luật, trong đó, tác giả phân
tích những vấn đề lý luận về ý thức pháp luật, như khái niệm, đặc điểm, cấu trúc
của ý thức pháp luật; khảo sát tình hình giáo dục pháp luật ở Việt Nam, chỉ ra
những điểm tích cực, hạn chế của công tác này và đề xuất những giải pháp cho công
tác giáo dục pháp luật tại Việt Nam.
- Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp luật,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là cuốn sách chuyên khảo đề cập một cách hệ
thống các vấn đề về giáo dục pháp luật trên phương diện lý luận: chủ thể, đối tượng,
nội dung, hình thức giáo dục pháp luật... và nêu lên các biện pháp nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục pháp luật.

8


- Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), Cơ sở
khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Đề tài khoa học cấp
Nhà nước, mã số KX-07-17, Hà Nội. Tập thể tác giả đề tài này đã luận chứng tính
cấp thiết của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật ở nước ta trong thời kỳ
đổi mới. Để làm được điều đó thì nhất thiết phải dựa trên những cơ sở khoa học
nhất định.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp
luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. Trong cuốn giáo trình này, các tác giả có
dành một tiết thuộc Chương XVIII- Ý thức pháp luật để viết về vấn đề bồi dưỡng và
giáo dục nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa; theo đó, giáo dục pháp luật là
sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức của
con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để
có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp
luật. Trên cơ sở đó, các tác giả nêu lên các biện pháp giáo dục để nâng cao ý thức
pháp luật của nhân dân.

- Ngọ Văn Nhân (2012), Giáo dục pháp luật hay giáo dục ý thức pháp luật?,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12 (295)/2012. Trong bài báo khoa học này, theo
tác giả, trên diễn đàn khoa học pháp lý, khoa học hành chính từ trước đến nay
thường tồn tại song song hai khái niệm: “giáo dục pháp luật” và “giáo dục ý thức
pháp luật”. Hai khái niệm này có khi được dùng tách rời nhau như hai khái niệm
riêng biệt, có khi lại được sử dụng đi liền nhau theo kiểu “giáo dục pháp luật và
giáo dục ý thức pháp luật”; đồng thời, có sự nhầm lẫn, hoán đổi hoặc đồng nhất nội
hàm của hai khái niệm này. Từ sự so sánh, đối chiếu về mục đích, mục tiêu, chủ thể,
đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật và giáo dục ý thức
pháp luật, tác giả đi đến kết luận rằng, trong khoa học pháp lý cần thống nhất sử
dụng khái niệm “giáo dục pháp luật” làm khái niệm chuẩn; hết sức hạn chế nếu
không nói là không nên sử dụng khái niệm “giáo dục ý thức pháp luật”. Còn khi
muốn nhấn mạnh ý thức pháp luật thì có thể nói “giáo dục pháp luật nhằm nâng cao
ý thức pháp luật” cho một đối tượng hoặc nhóm đối tượng cụ thể.

9


Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình nghiên cứu liên quan đến giáo
dục pháp luật nói chung, như: Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1995), Một số
vấn đề giáo dục pháp luật ở miền núi, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Vụ Phổ
biến Pháp luật - Bộ Tư pháp (1997), Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai
đoạn hiện nay. Nxb. Thanh niên, Hà Nội; Nguyễn Duy Lãm (chủ biên, 1997), Một
số vấn đề về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Thanh
niên, Hà Nội; Hồ Quốc Dũng (1997), Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở
nước ta - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học; Hồ Việt Tiệp (2000),
Xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, số 9/2000, Hà Nội... Trong các đề tài khoa học, công trình nghiên
cứu, bài báo khoa học kể trên, các tác giả đã phác họa rõ nét một bức tranh về giáo
dục pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật của con người

Việt Nam. Bên cạnh đó, các đề tài, công trình trên cũng đã khái quát lý luận về giáo
dục pháp luật, như mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung, phương pháp và hình thức
giáo dục pháp luật nhằm cung cấp, trang bị những kiến thức pháp luật, nâng cao ý
thức pháp luật cho các tầng lớp xã hội.
Những công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật gắn với một đối tượng
cụ thể và ở một địa bàn nhất định
Chủ đề giáo dục pháp luật cho từng đối tượng cụ thể và tại từng địa bàn cụ
thể cũng được triển khai nghiên cứu tương đối đa dạng, phong phú.
- Khoa Nhà nước và Pháp luật (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
1999), Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị ở nước ta
hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ. Nội dung của đề tài khoa học này phân tích cơ sở
lý luận về giáo dục pháp luật; vai trò, nhiệm vụ của các trường Chính trị tỉnh đối với
công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức tại các địa phương, đánh giá
những kết quả đạt được và những hạn chế; trên cơ sở đó, tập thể tác giả đề xuất các
giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật trong hệ thống các
trường Chính trị tỉnh ở nước ta.

10


- Lê Đình Khiên (2002), Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản
lý hành chính ở nước ta hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học, Hà Nội. Trên nền
tảng lý luận về ý thức pháp luật (khái niệm, đặc trưng, chủ thể ý thức pháp luật...),
tác giả luận án đề xuất một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán
bộ quản lý hành chính ở nước ta.
- Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức ở
Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội. Luận án này
được hoàn thành tại Học viện Hành chính (Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh), trong đó tác giả luận bàn về giáo dục ý thức pháp luật chứ không
phải giáo dục pháp luật. Mặc dù cũng bàn đến các vấn đề về chủ thể, đối tượng, nội

dung, phương pháp, hình thức giáo dục ý thức pháp luật gắn với đối tượng cán bộ,
công chức; song về thực chất chúng đều dựa trên nền của giáo dục pháp luật.
- Nguyễn Quốc Sửu (2011), Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Trong cuốn sách, tác giả tập
trung phân tích tương đối toàn diện, có hệ thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn; làm rõ khái niệm mục đích, mục tiêu của giáo dục
pháp luật; đưa ra các tiêu chí để xác định, phân loại chủ thể, đối tượng, nội dung,
phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính; chỉ
ra những nét đặc thù về chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức
giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính, làm sáng tỏ yêu cầu khách
quan của việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức hành chính, từ đó, đề xuất và luận chứng tính khả thi của các giải pháp nâng
cao chất lượng giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vấn đề giáo dục pháp luật gắn với một đối tượng cụ thể và ở một địa bàn
nhất định cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều luận văn thạc sĩ luật học. Có thể điểm
qua một số luận văn được bảo vệ trong thời gian gần đây:

11


- Bùi Thị Diễm Trang (2010), Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật đối với
đoàn viên, thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tiến trình hội nhập phát
triển của đất nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trong luận văn này, tác giả đã tập trung làm sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm về
phổ biến, giáo dục pháp luật và hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; phân tích,
đánh giá đặc điểm và thực trạng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho đoàn
viên thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội; đề xuất những giải pháp khả thi

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho đoàn viên
thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội, góp phần thực hiện tốt công tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho thế hệ trẻ trước những yêu cầu phát triển mới của đất nước.
- Nguyễn Thanh Tùng (2011), Giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo ở
tỉnh Đồng Nai hiện nay, Luật văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội. Tác giả tập trung phân
tích một số vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo ở tỉnh
Đồng Nai, đánh giá thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo
ở tỉnh Đồng Nai và nguyên nhân của thực trạng đó; trên cơ sở đó, đề xuất phương
hướng, giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào công
giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình luận văn thạc sĩ luật học, như:
Nguyễn Ngọc Hoàng (2000), Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học
chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội; Trần Văn Trầm
(2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội; Nguyễn Thị Phương
(2008), Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Bến Tre, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Hà Nội... Các luận văn kể trên ở những mức độ khác nhau đã tập trung nghiên cứu
về mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức giáo
dục pháp luật cho các đối tượng cụ thể; đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả
đạt được cũng như các hạn chế của công tác giáo dục pháp luật cho các đối tượng;
phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục pháp luật; từ đó, đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho các đối tượng.

12


Những công trình nghiên cứu trên đều có giá trị tham khảo đối với tác giả
luận văn ở chừng mực các nội dung có liên quan đến đề tài luận văn; song, điều
quan trọng hơn là vấn đề giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án
thì lại không có công trình nào kể trên đề cập đến.
Những công trình liên quan đến giáo dục pháp luật thông qua hoạt động

xét xử của Tòa án
Vấn đề giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án cũng đã
được một số tác giả đề cập, phân tích trong các công trình nghiên cứu. Theo sự cập
nhật thông tin của tác giả luận văn này, có thể liệt kê ra đây một vài công trình, bài
viết có liên quan ít nhiều đến chủ đề này:
- Dương Thanh Mai (1996), Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp
(bằng thực tiễn của tòa án và luật sư), Luận án Phó tiến sĩ luật học, Hà Nội. Trong
công trình này, từ sự luận bàn những vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật,
như khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức giáo dục pháp luật..., tác giả đi sâu vào
một hình thức giáo dục pháp luật đặc thù - giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
tư pháp, dựa trên thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa với sự tham gia của
Kiểm sát viên giữ quyền công tố, Thẩm phán và Luật sư. Tác giả cho rằng, bản thân
quá trình hoạt động tư pháp đã mang tính chất giáo dục pháp luật. Vấn đề đặt ra là
cần có giải pháp cụ thể để phát huy hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật qua
hoạt động tư pháp.
Điều đó cũng có nghĩa là, ngay tại phiên tòa, hoạt động tranh tụng, thẩm vấn
công khai, xét xử công khai bị cáo tại phiên tòa đã có tác dụng giáo dục pháp luật
đối với bị cáo, giúp bị cáo ít nhiều nhận ra tội lỗi của mình và tác động đến nhận
thức, ý thức pháp luật của những người tham dự phiên tòa. Công trình này có giá trị
tham khảo quý báu đối với tác giả không chỉ về mặt lý luận, mà còn gợi mở những
biện pháp thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
xét xử của Tòa án.
- Nguyễn Thị Tĩnh (2013), Giáo dục pháp luật trong hoạt động thu thập
chứng cứ tại Tòa án, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4/2013. Trong bài viết này,

13


tác giả khẳng định rằng, hoạt động thu thập chứng cứ tại Tòa án hàm chứa nhiều
khía cạnh của chức năng giáo dục pháp luật cho đông đảo quần chúng nhân dân.

Chẳng hạn, việc lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, trưng cầu giám định...
là những hoạt động chuyên môn nghiệp vụ nhằm bổ sung các chứng cứ cần thiết
cho việc giải quyết một vụ kiện. Nhìn từ góc độ giáo dục pháp luật, đây là một trong
những hoạt động truyền thụ kiến thức pháp lý. Bài viết chỉ nhìn từ góc độ dân sự và
không đề cập đến giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử.
Từ sự tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây, có thể khẳng định rằng, đã có
những nội dung nghiên cứu ở mức độ hạn chế về giáo dục pháp luật thông qua hoạt
động tư pháp của tòa án, tuy nhiên còn thiếu vắng những nghiên cứu có hệ thống và
chuyên biệt về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
tòa án; hơn nữa, đánh giá công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án tỉnh Đắk Lắk thì lại càng chưa có công trình nào đề
cập tới. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề nêu trên làm đề tài luận văn thạc sĩ
luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ sự phân tích cơ sở lý luận về tổ chức
thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, đánh giá thực
trạng tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án
tại Đắk Lắk, chỉ ra những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế của công tác này để
trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật và tổ chực thực hiện giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, làm rõ khái niệm, đặc trưng, vai
trò của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.

14



- Phân tích đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk có ảnh
hưởng đến công tác giáo dục pháp luật của Tòa án; đánh giá thực trạng công tác tổ
chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk, rút ra những bài học kinh nghiệm.
- Nêu lên các quan điểm chỉ đạo và đề xuất, phân tích các giải pháp bảo đảm
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động xét xử của Tòa án.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức
thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh
Đăk Lăk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn ở việc phân tích lý luận, đánh
giá thực tiễn công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét
xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả
giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
Phạm vi nghiên cứu luận văn cũng được giới hạn theo không gian và thời
gian. Theo không gian, luận văn chỉ khảo sát thực tiễn công tác tổ chức thực hiện
giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk.
Theo thời gian, sự đánh giá chỉ giới hạn trong khoảng thời gian 05 năm (từ
năm 2012 đến năm 2016 (7/2016 ).

15


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là những nguyên lý của triết học Mác - Lênin về

lý luận nhận thức; tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo dục và giáo dục pháp
luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của giáo dục pháp luật;
chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục pháp luật. Ngoài ra, những quan
điểm lý luận, kết quả nghiên cứu thực tiễn về giáo dục pháp luật của các nhà khoa
học, những tác giả đi trước cũng là tài liệu tham khảo quan trọng của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch
sử và lôgíc, phương pháp so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa... để nghiên cứu các
vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án; sử
dụng phương pháp thu thập thông tin và phân tích tài liệu có sẵn để thu thập các số
liệu thực tế từ các hoạt động của ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk phục vụ cho việc đánh
giá thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
xét xử của Tòa án và luận chứng tính khả thi của các giải pháp mà luận văn đề xuất.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ khái niệm, mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội
dung, phương pháp và hình thức tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án; chỉ ra được vai trò, đặc trưng của công tác giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
- Đánh giá được thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đề xuất được các quan điểm và giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả công
tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo phân tích một cách hệ thống và tương
đối toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật

16



thông qua hoạt động xét xử của Tòa án; qua đó, luận văn cung cấp, bổ sung thêm
các căn cứ lý luận và thực tiễn, góp phần làm phong phú và hoàn thiện thêm lý luận
về giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
Tòa án nói riêng.
Với những kết quả đạt được, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học chuyên
ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; được ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk
sử dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ việc lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của tòa án.
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động xét xử của tòa án ở tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2016.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực
hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.

17


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN


1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng và thông
qua hoạt động xét xử của Tòa án
1.1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng
Dưới góc độ lý luận, giáo dục pháp luật có phải là một chức năng của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hay không? Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ
chức Toà án nhân dân (2014) quy định: “...Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp
phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống
tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.” [21]. Tại Điều 8 Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân (2014) cũng quy định: “Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình,
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án, Thi
hành án, .....phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng;
nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật.” [20]. Còn khoản 10 Điều 15 Luật Công
an nhân dân (2014) quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của của Công
an nhân dân là: “...thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ an ninh quốc
gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm...” [19].
Một số ý kiến cho rằng bản thân hoạt động tố tụng đã là hoạt động điều chỉnh
ý thức và hành vi của những người tham gia vào các quá trình tố tụng sao cho phù
hợp với các yêu cầu của pháp luật nên các quy định trên được hiểu là sự khẳng định
rằng giáo dục pháp luật như là một kết quả tất yếu của hoạt động tố tụng, chứ
không đặt vấn đề giáo dục pháp luật như một định hướng nội dung, một chức năng
riêng của các chủ thể tiến hành các hoạt động đó. Ví dụ, trong hoạt động xét xử các

18


vụ án của Tòa án, chỉ cần Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật để ra được bản án,
quyết định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối
với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi liên quan trực tiếp đến vụ án đó thì

tự khắc đã tác động giáo dục sâu sắc lên nhận thức, tình cảm và hành vi của họ.
Quan niệm trên có phần đúng dưới góc độ đánh giá khả năng tác động giáo
dục “tự thân” của pháp luật và của thực tiễn thi hành pháp luật, nhưng chưa đủ dưới
góc độ của yêu cầu giáo dục pháp luật nhằm hình thành một cách vững chắc ý thức
pháp luật và lối sống theo pháp luật của cán bộ, công chức và nhân dân. Yêu cầu đó
đòi hỏi những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát
viên...) không chỉ bằng lòng với tác dụng giáo dục của kết quả cuối cùng (bản án,
quyết định hay một hành vi thực hiện pháp luật cụ thể...), mà còn phải biết và phải
có trách nhiệm chủ động khai thác mọi khả năng giáo dục thông qua quá trình tiến
hành hoạt động tố tụng để định hướng và tạo tiền đề tư tưởng thuận lợi cho việc đạt
được kết quả cuối cùng đó. Các yếu tố của ý thức pháp luật như hiểu biết, nhận thức
về các nguyên tắc pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể được áp dụng, cảm
nhận về giá trị xã hội, tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật và của những
người đại diện cho pháp luật, ý thức về bổn phận đạo đức và trách nhiệm pháp lý
của cá nhân rõ ràng là phụ thuộc không chỉ vào kết quả cuối cùng của hoạt động tố
tụng - dù đó là yếu tố rất quan trọng; mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như
cách thức, như thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng, trình độ văn hoá pháp lý của
những người tiến hành tố tụng, môi trường pháp lý nơi diễn ra các hoạt động tố
tụng, mức độ chuẩn bị và tham gia chủ động của chính đối tượng được tác động bởi
hoạt động tố tụng. Đó chính là các yếu tố có ý nghĩa bảo đảm và củng cố hiệu quả
tác động giáo dục “tự thân” của hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, những yếu tố đó chỉ
phát huy tác dụng nếu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tích cực và
hành động có chủ đích để sử dụng chúng với ý thức coi đó là một phương pháp hoạt
động, một chức năng riêng của mình.
Bên cạnh đó, hoạt động tố tụng, đặc biệt là hoạt động xét xử của Toà án luôn
thu hút sự quan tâm, tham gia hoặc theo dõi của công luận, chính vì vậy mà tác

19



động giáo dục của các hoạt động tố tụng thường không giới hạn tại địa điểm diễn ra
hoạt động đó hay trong phạm vi giữa chủ thể và đối tượng trực tiếp của hoạt động
(như giữa các cơ quan tố tụng và những người tham gia tố tụng tại phiên toà); mà
còn có tác động rộng rãi đến dư luận xã hội, đến những người quan tâm sự kiện
pháp lý đó. Điều này đòi hỏi Toà án phải có định hướng giáo dục và tiến hành việc
tác động giáo dục có chủ đích ngay trong từng giai đoạn tố tụng lên nhận thức, thái
độ và tình cảm của từng đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình xét xử, đồng thời
phải tổ chức việc thông tin công khai, chính thức ở mức độ cần thiết (trong khuôn
khổ luật cho phép) trước và sau phiên toà nhằm tạo tính tích cực pháp luật trong xã
hội, hỗ trợ cho việc tiếp nhận, đánh giá chính xác, khách quan tác động của giáo dục
pháp luật và tác dụng phòng ngừa xã hội của hoạt động xét xử.
Như vậy, yêu cầu khách quan của xã hội và yêu cầu của công tác giáo dục
pháp luật đều đòi hỏi phải mở rộng và nâng cao tác động giáo dục “tự thân” của
hoạt động tố tụng bằng việc định hướng giáo dục pháp luật thành một chức năng
đồng hành với chức năng, nhiệm vụ khác của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy
nhiên cho đến nay, trên thực tế, quan điểm đó vẫn chưa thống nhất; bởi vậy, xây
dựng được một quan điểm chung về chức năng giáo dục pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng là một đòi hỏi có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
Dưới góc độ thực tiễn, chức năng giáo dục pháp luật được thực hiện như thế
nào trong các hoạt động tố tụng? Có quan niệm cho rằng giáo dục pháp luật là chức
năng hỗ trợ cho các chức năng chính của hoạt động tố tụng, do đó hình thức để thực
hiện chức năng giáo dục pháp luật chỉ là định hướng giáo dục trong từng giai đoạn,
từng hoạt động cụ thể nhằm triển khai các chức năng khác. Chẳng hạn, trong hoạt
động tư vấn pháp luật của Luật sư, chức năng giáo dục không thể hiện thành các
nhiệm vụ độc lập cũng dẫn đến tình trạng một số Luật sư chỉ chú trọng thực hiện
các dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng mà không quan tâm đến trách nhiệm giải
thích, giúp cho họ hiểu biết về các vấn đề pháp lý liên quan; thậm chí có một số ít
Luật sư còn cố ý làm cho pháp luật và các quá trình tố tụng trở nên phức tạp hơn để
buộc những khách hàng ít hiểu biết pháp luật phải cậy nhờ, gắn bó lâu dài với mình.


20


Cũng tương tự như vậy, trong hoạt động điều tra, hoạt động xét xử, do chưa thống
nhất về cách thức thực hiện chức năng giáo dục nên cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Toà án chưa khai thác hết các khả năng tác động giáo dục lên đối tượng trong khi
tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình, làm hạn chế khả năng của các chủ thể
tìm kiếm, sử dụng các hình thức giáo dục pháp luật có tính phổ cập khác để kết hợp
với giáo dục trong hoạt động tố tụng.
Từ thực tế nêu trên, chức năng giáo dục pháp luật của các cơ quan tiến hành
tố tụng phải được thực hiện theo hai phương thức chính: Một là, định hướng và thực
hiện giáo dục pháp luật ngay trong từng hoạt động tố tụng như một nhiệm vụ độc
lập của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đối với các đối tượng
tham gia vào các hoạt động đó. Hai là, sử dụng kết hợp những hình thức giáo dục
pháp luật khác cùng với hoặc tiếp sau hoạt động tố tụng để hỗ trợ, củng cố và nâng
cao hiệu quả giáo dục trong hoạt động tố tụng ở quy mô rộng lớn hơn và lâu bền
hơn.
Như vậy, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng là việc các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện một cách có tổ chức, có
chủ định việc cung cấp cho các đối tượng những hiểu biết cụ thể về các vấn đề pháp
luật liên quan đến hoạt động tố tụng đang được tiến hành, giúp hình thành ở họ ý
thức trách nhiệm, trạng thái tâm lý, tình cảm pháp luật đúng đắn làm cơ sở cho
hành vi xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật; qua đó, hỗ trợ, củng cố và phát
huy tác dụng của chính hoạt động tố tụng.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án
Xét xử, theo cách hiểu của các nhà luật học, là hoạt động xem xét, đánh giá
bản chất pháp lý của vụ việc thực tế đã xảy ra nhằm đưa ra một phán xét đúng đắn
về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc; từ đó, nhân danh Nhà nước đưa ra một
phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ
việc (xét xử vụ án, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính...). Xét xử

cũng được hiểu theo nghĩa là một giai đoạn tố tụng quan trọng được tiến hành dưới
hình thức phiên tòa nhằm xem xét, phán xét, nhân danh Nhà nước đưa ra một phán

21


quyết theo trình tự luật định về vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án. Hoạt động xét
xử của Tòa án gần như là khâu cuối của hoạt động tố tụng, bởi nếu không có kháng
cáo hoặc kháng nghị thì hồ sơ vụ án sẽ được khép lại và phán quyết của Tòa án sẽ
có hiệu lực thực thi trên thực tế.
Chức năng chính của Toà án là thực hiện hoạt động xét xử. Thông qua hoạt
động xét xử nói chung, cùng với việc đưa ra phán quyết, Toà án có thể thực hiện
hoạt động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, như thông qua các hoạt động
xét xử tại tại phiên toà, thông qua hoạt động thông tin, báo chí hoặc các hoạt động
khác (tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại trường học, địa phương...); song, hình
thức tập trung nhất và mang tính đặc thù nhất vẫn là giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử tại phiên toà.
Thông qua việc giáo dục pháp luật tại một phiên toà xét xử, những người
tham gia vào quá trình tố tụng (đối tượng trực tiếp, đặc biệt là đương sự, bị cáo và
thân nhân của bị cáo) hoặc những người theo dõi phiên toà (đối tượng gián tiếp) có
thể hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định pháp luật được áp dụng để giải
quyết vụ án (cả về luật nội dung và luật tố tụng); từ đó, có thể tự đánh giá về hành
vi và trách nhiệm pháp lý của mình, giúp hình thành ở họ những cảm xúc về sự
công bằng, nghiêm minh của pháp luật, củng cố lòng tin và thái độ tôn trọng pháp
luật, tôn trọng các đại diện của công lý, giúp họ định hướng hành vi phù hợp với
những bản án đúng người, đúng tội, quyết định đúng đắn của Hội đồng xét xử, giúp
định hướng dư luận xã hội, nhờ đó mà phát huy tác dụng phòng ngừa tội phạm của
hoạt động xét xử cũng như hoạt động giáo dục pháp luật.
Định hướng về việc giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa
án trên thực tế được thực hiện bằng việc Tòa án bảo đảm thực hiện các nguyên tắc,

thủ tục, trình tự tố tụng cơ bản liên quan đến các quy định về hình thức, lễ nghi, trật
tự phiên toà... Trước tiên, đó là việc Toà án bảo đảm nguyên tắc Hiến định: Toà án
xét xử công khai, trừ những trường hợp do luật định, dù có xét xử kín thì Toà án
vẫn phải tuyên án công khai. Dựa trên nguyên tắc xét xử công khai, Thẩm phán chủ
tọa phiên toà phải dự kiến thành phần tham dự phiên toà, trong đó có những người

22


mà tác động giáo dục của việc xét xử sẽ rất cần thiết cho việc nhận thức và định
hướng lại hành động của họ trong tương lai; hoặc mời những cá nhân, tổ chức có
trách nhiệm quản lý, giáo dục bị cáo... Một bản án công bằng, nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật là hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đi vào
lòng người nhất, “tâm phục, khẩu phục” nhất.
Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa về giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
xét xử của Tòa án như sau: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa
án là việc Toà án trước phiên toà, tại phiên toà hoặc sau phiên toà thực hiện một
cách có tổ chức, có chủ định việc cung cấp, trang bị cho các đối tượng những tri
thức, hiểu biết cụ thể về các vấn đề pháp luật liên quan đến hoạt động xét xử đang
được tiến hành, giúp hình thành ở đối tượng ý thức trách nhiệm, trạng thái tâm lý,
tình cảm pháp luật đúng đắn, tạo cơ sở cho hành vi xử sự phù hợp với yêu cầu của
pháp luật, qua đó hỗ trợ, củng cố và phát huy tác dụng của chính hoạt động xét xử
của Tòa án.
1.1.2. Đặc trưng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
Tòa án
Chức năng chính của Toà án là thực hiện hoạt động xét xử các vụ án, mọi
nhiệm vụ khác của Toà án, trong đó có hoạt động giáo dục pháp luật, đều nhằm
thực hiện tốt nhất chức năng xét xử theo luật định. Toà án có thể thực hiện hoạt
động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, nhưng tập trung và đặc thù nhất vẫn
là giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử. Hoạt động giáo dục pháp luật

thông qua hoạt động xét xử có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa
án về bản chất là một hình thức giáo dục pháp luật, song lại hàm chứa đầy đủ các
thành tố của hoạt động giáo dục pháp luật. “Đó là dạng hoạt động được thực hiện
thông qua sự tương tác giữa chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng tiếp nhận giáo
dục pháp luật” [33, tr. 125]; là hoạt động có mục đích, có định hướng, có tổ chức, có
kế hoạch, tuân theo những nội dung giáo dục pháp luật cụ thể được chủ thể xây dựng

23


dành riêng cho đối tượng, dựa trên các phương pháp giáo dục và hình thức giáo dục
phù hợp với điều kiện thực tế của hoạt động xét xử.
Trong giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, sự tương tác giữa chủ
thể giáo dục và đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật được thể hiện thông qua hoạt
động truyền đạt của chủ thể giáo dục (phổ biến, thuyết trình, tuyên truyền thông tin,
kiến thức pháp luật) và hoạt động lĩnh hội của đối tượng giáo dục pháp luật (nghe,
tiếp thu các thông tin, kiến thức pháp luật). Hoạt động truyền đạt và hoạt động lĩnh
hội luôn nằm trong mối liên hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau.
Tính có mục đích của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
phản ánh những đòi hỏi tất yếu, khách quan của tinh thần thượng tôn pháp luật, xây
dựng lối sống, làm việc theo pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục đích mà công tác giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động xét xử hướng tới là khắc phục nguyên nhân thiếu hiểu biết pháp luật
dẫn tới hành vi phạm tội; tiếp thu, lĩnh hội những kiến thức, hiểu biết pháp luật cần
thiết để tuân thủ, chấp hành pháp luật, biết sống, làm việc theo pháp luật. Mục đích
đó chỉ có thể đạt được khi mỗi cá nhân chủ động, tự giác chiếm lĩnh những thông
tin, kiến thức pháp luật mà chủ thể cung cấp cho họ, biến việc tiếp thu, lĩnh hội tri
thức pháp luật trở thành nhu cầu nội tại, mục đích tự thân của mỗi người [33,
tr.127].

Tính có tổ chức, có kế hoạch của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt
động xét xử thể hiện sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của chủ thể giáo dục pháp luật
trong việc xác định, lựa chọn những nội dung giáo dục pháp luật thực sự cần thiết,
phù hợp với nhu cầu của các đối tượng; từ đó, tìm ra những phương pháp, h́nh thức
giáo dục pháp luật phù hợp để có thể hiện thực hóa một cách tối ưu mục đích giáo
dục pháp luật cho đối tượng.
Thứ hai, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử có tính tính đa chủ
thể và đa đối tượng. Chủ thể thực hiện công tác giáo dục pháp luật đồng thời là chủ
thể tiến hành hoạt động tố tụng tại phiên tòa. Các chủ thể giáo dục pháp luật trong
một phiên toà trước tiên là những người tiến hành hoạt động xét xử (Thẩm phán,

24


Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên toà...) và những người tham gia tố tụng khác
(Kiểm sát viên, Luật sư...). Các chủ thể này đều có một nhiệm vụ chung là góp phần
vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án làm cơ sở để ban hành được bản án,
quyết định nghiêm minh, đúng người, đúng tội, lỗi, đúng pháp luật, thông qua đó
mà đạt được những mục đích giáo dục pháp luật đã đề ra. Tuy nhiên, các chủ thể
này lại có những phương cách, biện pháp tác động giáo dục rất khác nhau phụ thuộc
vào vai trò và nhiệm vụ tố tụng cụ thể của từng người tại phiên toà. Chẳng hạn,
Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố trong các vụ án nên vai trò giáo dục của
Kiểm sát viên tại phiên toà được thể hiện đặc biệt tập trung qua bản cáo trạng, tranh
luận với người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và kết luận của
Kiểm sát viên sau quá trình tranh luận công khai, bình đẳng. Việc xét hỏi, tranh luận
công khai, khách quan và toàn diện là căn cứ pháp luật để truy tố, buộc tội hoặc
miễn tố một cách xác đáng, bảo đảm không để lọt tội phạm đồng thời không làm
oan người vô tội. Điều này thể hiện rõ mục tiêu giáo dục pháp luật trong hoạt động
công tố không phải là để kết tội, mà là để công lý được thực thi - đó là bài học sâu
sắc về tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật.

Đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật đồng thời là đối tượng trực tiếp hoặc
gián tiếp của hoạt động xét xử. Hoạt động giáo dục pháp luật tại phiên toà không
chỉ hướng tới những người tham gia tố tụng (bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...) mà còn hướng những
người tham dự, theo dõi phiên toà. Về tổng thể, đối tượng giáo dục pháp luật là
những người có mặt tại phiên toà theo luật định liên quan đến việc giải quyết vụ án
hoặc vì lý do riêng có liên quan đến vụ án. Điểm thuận lợi của công tác giáo dục
pháp luật tại phiên toà là các đối tượng đều có sự quan tâm tới vụ án. Do đó, về cơ
bản, họ sẽ lắng nghe, phân tích, đánh giá các sự kiện, lời nói, hành động của những
người tiến hành xét xử để từ đó rút ra những kết luận, xác định thái độ, tình cảm và
định hướng hành vi riêng của mình đối với vụ án hoặc trong các tình huống tương tự.
Tuy nhiên, các đối tượng này lại rất đa dạng, khác nhau về mọi mặt, từ quyền và nghĩa

25


×