CHỦ ĐỀ 9: Phân tích nội dung chức năng xét xử của Tòa án nhân
dân theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Đánh giá hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay
A. MỞ ĐẦU
Theo quy định tại điều 2, Hiến pháp 2013: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quốc hội đảm nhiệm quyền
lập pháp, Chính phủ đảm nhiệm quyền hành pháp và Tòa án đảm nhiệm quyền
tư pháp. Không chỉ vậy, trong bộ máy nhà nước còn có sự phân công, phân
nhiệm, phối hợp, kiểm soát giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân và các cơ quan khác trong việc thực hiện chức năng và nhiệm
vụ của từng cơ quan.
Hiến pháp và pháp luật nước ta đã quy định rõ từng chức năng của từng
cơ quan trong bộ máy nhà nước. Trong đó có quy định về chức năng của Tòa án,
trong khoản 1, điều 102, Hiến pháp 2013: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Từ
quy định này cho thấy, Tòa án nhân dân chiếm một vị trí vô cùng quan trọng
trong tổ chức bộ máy nhà nước. Hoạt động của từng cơ quan đạt hiệu quả cao
khi chức năng của từng cơ quan đó được tôn trọng chấp hành nghiêm chỉnh.
Nhưng thực tế cho thấy vẫn còn đó những sai phạm, tiêu cực trong quá trình
thực hiện chức năng của Tòa án nhân dân nói chung và chức năng xét xử nói
riêng. Hơn nữa, nước ta đang hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, điều đó đòi hỏi mọi người, trước hết là cán bộ, công chức trong
ngành tư pháp phải gương mẫu trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, thực
hiện đúng chức năng của cơ quan mình và tôn trọng chức năng của cơ quan
khác. Do đó, việc tìm hiểu chức năng xét xử của Tòa án nhân dân giúp chúng ta
hiểu rõ hơn và có cái nhìn khách quan hơn về thực trạng, tình hình của Tòa án
nhân dân để từ đó có quan điểm nhìn nhận đúng đắn nhằm xây dựng hệ thống tư
pháp ngày càng gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, từng bước đáp ứng được yêu
cầu của xã hội, của nhân dân.
B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về Tòa án nhân dân
1. Vị trí của Tòa án nhân dân
Vị trí của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được xác lập bởi nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước ta theo quy định của Hiến Pháp.Theo đó, Tòa án nhân dân là một hệ
thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Điều này được biểu hiện bởi các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa
án nhân dân do luật định. Bên cạnh đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do
Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, chịu sự
giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội hoặc
trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong thời gian Quốc hội
không họp.
2. Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
Khoản 1, điều 2, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định: “Tòa án
nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần
giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật,
tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống
tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.”
Như vậy, nhiệm vụ đầu tiên của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân. Đúng như nội dung của điều 3 Hiến pháp
2013: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.”. Để
thực hiện tốt nhiệm vụ này, Khoản 2, Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định:
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm
cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”.
Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân còn có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân. Mặt khác, thông qua hoạt động xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, Tòa
án nhân dân còn có trách nhiệm giáo dục người phạm tội, giáo dục công dân tôn
trọng và tuân thủ pháp luật, nâng cao ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm.
3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Trong tổ chức ngành Tòa án và hoạt động của các Tòa án nhân dân luôn
luôn thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm
quyền xét xử
Thứ hai, nguyên tắc đảm bảo chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.
Thứ ba, nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán; bầu, cử Hội thẩm.
Thứ tư, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia.
Thứ năm, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật.
Thứ sáu, nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa
số.
Thứ bảy, nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng, công
khai.
Thứ tám, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án nhân dân.
Thứ chín, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử.
Thứ mười, nguyên tắc trách nhiệm chứng minh tội phạm.
Mười một, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; quyền
bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự.
Mười hai, nguyên tắc tiếng nói, chữ viết dùng trước Tòa án nhân dân.
4. Hệ thống tòa án nhân dân
Theo khoản 2, điều 102 Hiến pháp năm 2013 và điều 3 luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2014 quy định hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm:
Tòa án nhân dân tối cao;
Tòa án nhân dân cấp cao;
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương;
Tòa án quân sự.
Trên cơ sở cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp trong luật tổ chức
Tòa án nhân dân 2014 và các văn bản pháp luật kèm theo, tổ chức của Tòa án
nhân dân được quy định căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và thực tiễn hoạt động
xét xử của từng cấp từ trung ương đến địa phương.
II. Phân tích nội dung chức năng xét xử của Tòa án nhân dân
1. Khái niệm hoạt động xét xử
Hoạt động tư pháp giữ vị trí quan trọng trong phạm vi hoạt động của nhà
nước ta. Các lĩnh vực hoạt động của nhà nước ta bao gồm: lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Các quyết định, các hành vi của mọi cơ quan nhà nước phải luôn tuân
thủ và chấp hành theo pháp luật. Do đó phát sinh nhu cầu phảo xem xét đến tính
hợp hiến hợp pháp trong hoạt động của các cơ quan.
Đối với công dân, tập thể khi thực hiện một hành vi pháp luật nhằm thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình có ba khả năng xảy ra. Thứ nhất là công dân,
tập thể tự giác và trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà không cần một
điều kiện nào. Khi đó, nội dung của điều luật coi như đã được thực hiện, nếu
thực hiện hành vi pháp luật của chủ thể không ảnh hưởng đến người khác. Thứ
hai, công dân, tập thể tự giác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhưng
không thể thiều được những thủ tục như là những điều kiện bắt buộc của quá
trình thực hiện quyền và nghĩa vụ đó. Khi này cần có những thủ tục nhất định
đảm bảo cho việc thực hiện của công dân. Thứ ba, khi công dân, tập thể vi phạm
đến quyền hoặc cản trở đến việc thưc hiện nghĩa vụ của người khác. Khi đó,
việc vi phạm có hay không ? ngay từ đầu chưa thể kết luận được và đó là những
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong việc thực hiện các hành vi pháp luật.
Nhìn chung, trong đa phần các trường hợp, việc áp dụng pháp luật phải có
thủ tục, phải có sự phán xét đúng sai cả về mặt thực chất lẫn pháp lý, nghĩa là
trong một nhà nước cần thiết phải có hoạt động xét xử.
Hoạt động xét xử được hiểu là hoạt động xem xét, đánh giá và ra phán
quyết nhân danh quyền lực nhà nước về tình hợp hiến, hợp pháp của các hành vi
pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các
chủ thể có lợi ích khác nhau. Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền
lực nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hoạt
động xét xử được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Hoạt động xét xử là hoạt động bảo vệ pháp luật, được tiến hành trên cơ sở
luật, không thế vượt quá giới hạn, phạm vi luật định. Do đó, thông quá hoạt
động xét xử, mục đích, ý nghĩa của quy phạm pháp luật được đảm bảo thực hiện.
Khi có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật, hoạt động xét xử có ý nghĩa
khôi phục giá trị của các quy định pháp luật đó. Ngoài ra, hoạt động xét xử còn
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Thông qua thực tiễn xét xử, có thể thấy
được hiệu quả cũng như thiếu sót của pháp luật, trên cơ sở đó có thể đưa ra
những giải pháp kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Hoạt động xét xử là hoạt động giải thích luật và mang tính sáng tạo cao.
Hoạt động xây dựng pháp luật được tiến hành trên cơ sở những quan hệ xã hội
tương đối ổn định. Nhưng khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn thì thấy phát sinh
những quan hệ xã hội với những biểu hiện rất đa dạng, phong phú. Khi đó, hoạt
động xét xử phải tiến hành giải thích luật trong các trường hợp cụ thể, điều này
đòi hỏi phải có tính sáng tạo cao. Các văn bản pháp luật không phải lúc nào
cũng rõ ràng dễ hiểu, nhiều khi rất mập mờ, có thể hiểu nhiều nghĩa. Khi đó,
người tiến hành hoạt động xét xử phải lựa chọn phương án giải thích tối ưu. Hơn
nữa, luật không dự kiến trước được mọi tình huống xảy ra trong xã hội dẫn đến
xảy ra tình trạng “lỗ hổng pháp luật”. Trong trường hợp này, người xét xử không
thể từ chối vì lý do không có luật mà phải tìm ra một giải pháp pháp lý bằng
cách dựa theo phong tục tập quán, tài liệu soạn các văn kiện luật và nhất là
những nguyên tắc tổng quát của pháp luật. Ngoài ra trong hệ thống pháp luật
nhiều khi xảy ra sự mâu thuẫn giữa các quy phạm pháp luật. Trường hợp này,
người thực hiện quyền tư pháp phải giải thích luật để lựa chọn quy phạm nào
được áp dụng, căn cứ vào hiệu lực, thời hạn, tính chất thuộc luật chung hay
chuyên ngành của quy phạm pháp luật.
2. Phân tích nội dung chức năng xét xử theo Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014
Trong các bản Hiến pháp trước chưa quy định về Tòa án là cơ quan thực
hiện quyền tư pháp, cho đến khi Hiến pháp 2013 ra đời thì điều đó đã được
khẳng định tại khoản 1 điều 102: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Đây là định
hướng trong quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước ta theo kiểu nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung mới này phân định rõ: Quốc hội là cơ quan
thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và
Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Cụ thể hóa quy định này,
khoản 2 điều 2, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định: “Tòa án nhân
danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải
quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan,
toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn
cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội,
áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền
và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân”. Việc xét xử của Tòa án nhân dân được
tiến hành theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ được quy định trong các luật tố tụng.
Để đảm bảo hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân được đúng đắn, khách
quan, khắc phục được những sai sót trong quá trình xét xử, giải quyết các vụ án,
vụ việc, pháp luật quy định việc kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của
Tòa án cấp dưới để Tòa án cấp trên xem xé lại theo các thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm. “Khi bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực
pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” – khoản 2, điều 2, Luật tổ chức
Tòa án nhân dân 2014.
Để có thể thực hiện đúng chức năng của mình một các thuận lợi, Tòa án
nhân dân được Hiến pháp – đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân trao
cho các quyền được quy định tại điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, cụ
thể:
- Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền:
Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng
của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử;
xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm
đình chỉ vụ án;
Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan
điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can,
bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp;
Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung;
yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác
minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về
các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát
hiện có việc bỏ lọt tội phạm;
Ra quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự.
- Trong các lĩnh vực khác
Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và thực
hiện các quyền hạn khác theo quy định của luật tố tụng.
Xử lý vi phạm hành chính; xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước
và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con
người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật.
Ra quyết định thi hành bản án hình sự, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt, xóa án
tích, miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà
nước; thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật hình sự, Luật thi
hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự.
Ra quyết định hoãn, miễn, giảm, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp xử lý
hành chính do Tòa án áp dụng và thực hiện các quyền hạn khác theo quy định
của Luật xử lý vi phạm hành chính.
Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ
quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử
lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa
án giải quyết vụ án.
Ngoài ra Tòa án còn có quyền “ thực hiện quyền hạn khác theo quy định
của luật” – khoản 9, điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
III. Đánh giá thực trạng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hết sức tạo điều kiện về cơ sở
vật chất và kỹ thuật nên công tác xét xử trong những năm gần đây được cải thiện
rõ rệt.
- Công tác phối hợp hoạt động giữa Toà án với cơ quan điều tra, viện
kiểm sát và cơ quan thi hành án có sự gắn kết, nhịp nhàng và tạo được hiệu quả
trong quá trình xét xử.
- Đội ngũ cán bộ trong cơ quan Tòa án cũng như đội ngũ Thẩm phán ngày
càng được nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức nên hoạt động
có chất lượng, hiệu quả phục vụ tốt cho việc thực hiện chức năng xét xử của Toà
án.
- Có sự hướng dẫn, nỗ lực của toàn ngành cùng với sự quan tâm chỉ đạo
của Toà án nhân dân tối cao, sự giúp đỡ tạo điều kiện của các ngành, các cấp
chính quyền.
2. Khó khăn.
- Với các Tòa án ở nơi miền núi, hải đảo có địa hình phức tạp gây khó
khăn cho cán bộ Toà án trong quá trình đi lại, tống đạt các quyết định đến đương
sự.
- Sự hiểu biết về pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế. Nhiều người
giữ tâm lý “ngại” và “sợ” đến toà nên có những trường hợp được triệu tập còn
chưa tích cực tham gia phiên toà. Thậm chí còn có trường hợp thiếu hiểu biết
hoặc bị người khác xúi giục gây rối tại nơi xử án.
- Đối với những vụ án phức tạp, xét xử lưu động với lượng người tham
gia phiên toà tương đối lớn, nhiều thành phần xã hội nên rất dễ gây mất trật tự
phiên tòa. Công tác bảo vệ trật tự không đảm sẽ khiến ảnh hưởng đến chất lượng
hoạt động của phiên tòa.
- Chế độ đãi ngộ: lương bổng và phụ cấp cho Thẩm phán và cán bộ Tòa
án còn hạn chế, chưa phù hợp với khối lượng công việc, chất xám, cũng như áp
lực trong ngành.
3. Tích cực
Trong điều kiện thiếu cán bộ, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc hạn
chế, số lượng các loại vụ án phải giải quyết rất lớn (trên 360 nghìn vụ án năm
2012), nhưng ngành Tòa án đã đạt được những kết quả quan trọng: tỷ lệ số vụ án
được thụ lý tăng lên (trên 332 nghìn vụ, đạt 92%); nhiều vụ án lớn, đặc biệt
nghiêm trọng đã được các tòa án khẩn trương nghiên cứu để đưa ra xét xử kịp
thời, nghiêm minh. Chất lượng công tác xét xử được nâng lên; hình phạt mà tòa
án áp dụng đối với các bị cáo về cơ bản đảm bảo đúng pháp luật, tương xứng với
tính chất, mức độ hành vi phạm tội; các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
được quan tâm tập trung giải quyết để nâng cao chất lượng và không quá thời
hạn theo quy định của pháp luật. Những sai sót, khuyết điểm trong công tác
chuyên môn từng bước được khắc phục; công tác xây dựng ngành có tiến bộ,
công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử, xây dựng và hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật đạt hiệu quả; triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp có
bước tiến bộ.
4. Hạn chế
Vẫn còn hiện tượng các bản án, quyết định của Tòa án bị hủy; tiến độ và
chất lượng giải quyết nhiều vụ án, nhất là các vụ án về kinh tế, tham nhũng lớn,
trọng điểm còn chưa kịp thời, nghiêm minh; tranh tụng tại phiên tòa còn hạn
chế.
Việc xem xét, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, nhất là
trong lĩnh vực dân sự, tuy đã được quan tâm nhưng vẫn còn chậm, tồn đọng
nhiều.
Đội ngũ cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân về cơ bản vẫn chưa
khắc phục được tình trạng “thiếu về số lượng, yếu về trình độ, năng lực nghiệp
vụ”; vẫn còn một số cán bộ suy thoái về đạo đức, lối sống hoặc vi phạm pháp
luật bị xử lý, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan Tòa án; dư luận xã
hội còn nhiều nghi ngờ về tính khách quan, nghiêm minh của hoạt động xét xử.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của Ngành chưa đáp ứng
được yêu cầu. Công tác cải cách hành chính tư pháp đã được quan tâm nhưng
vẫn chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ.
Đây là những yếu kém, bất cập của ngành mà toàn thể cán bộ trong ngành
cần thảo luận nghiêm túc để rút kinh nghiệm, tìm giải pháp khắc phục.
IV. Kiến nghị giải pháp khắc phục
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết các loại án; kiên
quyết không để xảy ra trường hợp kết án oan người không phạm tội và bỏ lọt tội
phạm; chấm dứt việc trả hồ sơ bổ sung, việc cho bị cáo hưởng án treo và áp
dụng hình phạt cải tạo không giam giữ không đúng quy định của pháp luật, nhất
là các bị cáo bị xét xử về tham nhũng; đảm bảo việc giải quyết, xét xử và ra bản
án đúng pháp luật; khắc phục tình trạng bản án, quyết định tuyên không rõ ràng
gây khó khăn cho công tác thi hành án. Khắc phục triệt để tình trạng để kéo dài
thời hạn giải quyết các vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tình trạng đã trả lời không có căn cứ kháng
nghị nhưng sau đó lại phải kháng nghị để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc
thẩm; nâng cao tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Bảo đảm ra
quyết định thi hành án hình sự đúng thời hạn, việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành
án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù phải đúng pháp luật.
Thứ hai, bên cạnh các biện pháp về công tác tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, cần thường xuyên kiểm tra việc tổ chức công tác xét xử ở Tòa án các
cấp, làm tốt công tác giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án
cấp dưới để kịp thời phát hiện, khắc phục, rút kinh nghiệm về những sai sót
nghiệp vụ trong hoạt động xét xử. Tòa án nhân dân tối cao phải làm tốt việc tổng
kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, kịp thời tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc của thực tiễn xét xử các loại vụ án.
Thứ ba, các Tòa án cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp
luật hiện hành về tố tụng, nâng cao bản lĩnh Thẩm phán; đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa; tranh tụng tại phiên tòa làm rõ sự thật về
các tình tiết của vụ án là hết sức quan trọng để các phán quyết của Tòa án có sức
thuyết phục cao. Đồng thời, ngành Tòa án nhân dân cần tiếp tục nghiên cứu, đề
xuất bổ sung pháp luật tố tụng phù hợp theo hướng hoạt động xét xử phải công
khai, minh bạch, đảm bảo sự tham gia giám sát của nhân dân thông qua các cơ
quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đối với hoạt động xét xử của Tòa
án; quy định cụ thể vai trò Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và
Luật sư trong việc tranh tụng tại phiên tòa, cũng như trình tự, thủ tục tiến hành
việc tranh tụng.
Thứ tư, làm tốt công tác xây dựng ngành, tập trung kiện toàn, củng cố bộ
máy và đội ngũ Thẩm phán, nhất là đối với Tòa án nhân dân cấp huyện, tương
lai là Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, nơi giải quyết phần lớn các loại vụ án
theo thủ tục sơ thẩm, tập trung để nâng cao chất lượng xét xử, hạn chế tình trạng
khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị tràn lan, gây quá tải cho tòa án cấp trên. Chủ
động tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý Tòa án các cấp; hoàn thiện cơ chế quản
lý đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng “Bộ tiêu chuẩn” các chức danh công
chức ngành Tòa án nhân dân. Đổi mới cơ chế, phương pháp tuyển dụng, đánh
giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ; phát hiện, thu hút, bồi dưỡng và đãi ngộ đối với
công chức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt; làm tốt việc luân chuyển, điều
động, chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và
thử thách, nhất là đối với cán bộ thuộc diện quy hoạch các chức vụ lãnh đạo Tòa
án các cấp; chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện phẩm chất,
đạo đức, nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội
ngũ Thẩm phán, cán bộ Tòa án; có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý
nghiêm minh những cán bộ Tòa án có hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật, vi
phạm phẩm chất đạo đức, lối sống.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện thường xuyên việc kiểm điểm tự phê bình và
phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI của Đảng “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh phong trào thi đua
“Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân,
giúp dân và học dân” và Cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân
dân”. Đồng thời, ngành Tòa án nhân dân cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sửa
đổi, bổ sung chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là Thẩm
phán phù hợp với đặc thù công tác của Tòa án.
Thứ sáu, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Một mặt tiếp tục
đổi mới, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của ngành
phù hợp với tiêu chuẩn từng chức danh, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học và các kiến thức
kinh tế, xã hội bổ trợ. Đồng thời, ngành Tòa án nhân dân cần tiếp tục tăng cường
hợp tác với các đối tác truyền thống và mở rộng hợp tác với các đối tác mới về
lĩnh vực đào tạo, trao đổi kinh nghiệm cải cách tư pháp, tích cực tham gia các
diễn đàn quốc tế liên quan tới công tác tòa án.
Thứ bảy, ngành Tòa án nhân dân cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng các đề
án phục vụ yêu cầu cải cách tư pháp theo sự phân công của Bộ Chính trị và Ban
Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương. Nghiên cứu, đề xuất về phát triển án lệ
trong hoạt động xét xử, nhằm góp phần bảo đảm hướng dẫn áp dụng pháp luật
thống nhất và nâng cao chất lượng xét xử của ngành Tòa án.
C. KẾT LUẬN
Hoạt động của tòa án với chức năng xét xử là một phần hoạt động của nhà
nước do các tòa án nhân dân đảm nhiệm. Hoạt động này càng ngày càng trở nên
một phần hoạt động quan trọng của nhà nước Việt Nam trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền. Khác với trước đây các tòa án không chỉ đảm nhận
việc xét xử các vụ án hình sự, hoạt giải quyết các vụ việc tranh chấp dân sự, mà
còn mở rộng ra vụ việc của các lĩnh vực khác như kinh tế, lao động, hành chính,
chính trị… Mọi tranh chấp của xã hội dần dần sẽ được giải quyết trên cơ sở
công lý của các loại tòa án. Hoạt động của tòa án sẽ tạo nên cơ sở niềm tin của
nhân dân vào nhà nước.
Việc nghiên cứu về chức năng xét xử của Tòa án nhân dân giúp em nâng
cao hiểu biết, bổ sung vốn kiến thức đã được học tại nhà trường. Đồng thời, giúp
cho mọi người có cách nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, xác thực về
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định của Tòa án nhân dân,
từ đó có những ý kiến đề xuất giúp cơ quan Tòa án hoàn thành tốt nhiệm vụ
trong công cuộc đổi mới.
Không chỉ vậy, qua đề tài: “Phân tích nội dung chức năng xét xử của toà
án nhân dân theo luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014. Đánh giá thực trạng hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay” giúp em thấy được
những thuận lợi, khó khăn, hạn chế cần có hướng khắc phục để nâng cao hiệu
quả hoạt động của Tòa án nhân dân.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2015), Giáo trình Luật hiến pháp, Nxb Hà
Nội, Hà Nội
2. Khoa luật Trường Đại học quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật hiến
pháp, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
4. Quốc Hội (2014), Luật tổ chức Tòa án Nhân dân ngày 24/11, Hà Nội
5.
/>
sang-nganh-toa-an-da-dat-duoc-nhieu-ket-qua-dang-khich-le-153/