Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

ĐẠI học NGOẠI THƯƠNG hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.31 KB, 43 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
Tiền tệ và ứng dụng của tiền tệ trong kinh tế

Hà Nội,2015

MỤC LỤC


Nội Dung
Phần mở đầu
Phần nội dung
I. TIỀN TỆ
1. Tiền tệ là gì?
2. Lịch sử ra đời của tiền tệ và lạm phát.
3. Giá trị và giá cả của tiền tệ.
4. Bản chất của tiền tệ.
5. Các đơn vị tiền tệ quốc tế.
6. Các đơn vị tiền tệ kế toán.
II. Ứng dụng của tiền tệ trong nền kinh tế
1. Vai trò và Chức năng của tiền tệ.
2. Đặc lợi phát hành tiền tệ.
Phần kết luận

Trang
1
2->12

13




Phần mở đầu
Tiền tệ đóng một vai trò quan trọng không chỉ đối với sự phát
triển của nền kinh tế nước nhà mà còn đối với bất kì quốc gia nào trên
toàn thế giới. Tiền tệ có giá trị không phải vì nó có giá trị tự thân mà vì
những gì tiền tệ có thể trao đổi được . Giá trị của tiền là số lượng hàng
hóa và dịch vụ mua được bằng một Dollar. Nói cách khác giá trị của tiền
là nghịch đảo giá trị hàng hóa. Các ngân hàng quốc gia thường theo đuổi
một mục đích thực tế và cố định khi điều chỉnh lượng tiền . Mục đích này
thường là bình ổn giá , tức là chống lại lạm phát . Để có thể giới hạn tỷ lệ
lạm phát ở một mức độ hợp lý với nền kinh tế quốc dân, ngân hàng quốc
gia cố gắng giữ lượng tiền đồng bộ với sự phát triển kinh tế. Lượng tiền
tăng quá nhanh hay tốc độ quay vòng của tiền tăng lên trong khi lượng
tiền không thay đổi sẽ dẫn đến mất cân bằng giữa tiền đang có và hàng
hóa. Sự mất cân bằng này sẽ làm tăng mức giá chung và người ta gọi đó
là lạm phát . Lạm phát là một nhân tố thiết yếu trong quá trình lịch sử
hình thành và phát triển của tiền tệ . Tuy nhiên không thể không kể đến
những đặc điểm nổi bật khác của tiền tệ: giá trị và giá cả, bản chất đặc
trưng, đơn vị tiền tệ quốc tế , đơn vị tiền tệ kế toán. Lạm phát có thể được
phân loại theo vận tốc ( lạm phát vừa phải , lạm phát phi mã , siêu lạm
phát) hay theo giai đoạn ( giai đoạn tăng tốc, giai đoạn ổn định, giai đoạn
giảm tốc). Lượng tiền có thể tăng do chính sách lãi suất của ngân hàng
quốc gia hay vì nợ quốc gia tăng đột ngột . Khi lượng tiền giảm đi hay tốc
độ quay vòng tiền giảm xuống trong khi lượng tiền không đổi thì giá cả
có thể sẽ giảm liên tục trong một thời gian, người ta gọi đó là giảm phát.
Lượng tiền giảm đi cũng có thể là do các biện pháp của ngân hàng quốc
1



gia gây ra khi vận tốc quay vòng tiền giảm đi( khi người dân hay doanh
nghiệp hạn chế tiêu dùng và đầu tư hơn và tiền được tiền được tiết kiệm
nhiều hơn là tiêu dùng). Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu về quy luật lưu
thông tiền tệ, vì sao lại có lạm phát xảy ra và những biện pháp khắc phục
lạm phát. Từ đó phân tích chức năng, vai trò và đặc lợi phát hành tiền tệ.

2


Phần nội dung
II. Tiền tệ
1.Tiền tệ là gì?
Tiền tệ là tiền khi chỉ xét tới chức năng là phương tiện thanh toán,
là đồng tiền được luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng
hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền kinh tế. Vì định nghĩa như vậy,
tiền tệ còn được gọi là "tiền lưu thông". Tiền tệ có thể mang hình thức
tiền giấy hoặc tiền kim loại (tiền xu) do Nhà nước (ngân hàng trung
ương, Bộ Tài chính, v.v...) phát hành. Khi phân biệt tiền tệ của quốc gia
này với tiền tệ của quốc gia khác, người ta dùng cụm từ "đơn vị tiền tệ".
Đơn vị tiền tệ của nhiều quốc gia có thể có cùng một tên gọi (ví
dụ: dollar, franc...) và để phân biệt các đơn vị tiền tệ đó người ta thường
phải gọi kèm tên quốc gia sử dụng đồng tiền (ví dụ: dollar Úc). Với sự
hình thành của các khu vực tiền tệ thống nhất, ngày nay có nhiều quốc gia
dùng chung một đơn vị tiền tệ như đồng EUR. Đơn vị tiền tệ của Việt
Nam được gọi là đồng, ký hiệu dùng trong nước là "đ", ký hiệu quốc tế
là VND, đơn vị nhỏ hơn của đồng là hào (10 hào = 1 đồng)
và xu (10 xu = 1 hào). Tiền tệ là phương tiện thanh toán pháp quy nghĩa
là luật pháp quy định người ta bắt buộc phải chấp nhận nó khi được dùng
để thanh toán cho một khoản nợ được xác lập bằng đơn vị tiền tệ ấy. Một
tờ séc có thể bị từ chối khi được dùng để thanh toán nợ nhưng tiền giấy

và tiền kim loại thì không. Tuy nhiên tiền kim loại có thể là phương tiện
thanh toán pháp quy bị luật pháp của một quốc gia giới hạn không vượt
quá một số lượng đơn vị tiền tệ nào đó tuỳ theo mệnh giá của những đồng
tiền kim loại ấy. Theo luật pháp của Việt nam, tiền giấy và tiền kim loại
là phương tiện thanh toán pháp quy không giới hạn.
3


2. Lịch sử ra đời của tiền tệ và lạm phát
Lịch sử của tiền tệ chính là lịch sử phát triển các hình thái giá trị
từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn cho đến hình thái đầy đủ nhất là
tiền tệ. Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: Đây là hình thái phôi
thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá,
trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy
vật khác. Ví dụ: 1m vải = 10 kg thóc. Ở đây, giá trị của vải được biểu
hiện ở thóc. Còn thóc là cái được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá
trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên của mình, thóc trở thành hiện thân của
vải. Sở dĩ như vậy vì bản thân thóc cũng có giá trị. Hàng hoá (vải) mà giá
trị của nó được biểu hiện ở một hàng hoá khác (thóc) thì gọi là hình thái
giá trị tương đối. Còn hàng hoá (thóc) mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện
giá trị của hàng hoá khác (vải) gọi là hình thái vật ngang giá. Hình thái
vật ngang giá có 3 đặc điểm: giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức
biểu hiện giá trị; lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện lao động
trừu tượng; lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện lao động xã
hội. Hình thái giá trị tương đối và hình thái vật ngang giá là hai mặt liên
quan với nhau, không thể tách rời nhau, đồng thời là hai cực đối lập của
một phương trình giá trị. Trong hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỷ
lệ trao đổi chưa thể cố định. Chức năng của tiền tệ và quy luật lưu thông
tiền tệ:Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua các chức năng của nó. Theo
C.Mac tiền tệ có 5 chức năng:

-

-Thước đo giá trị: Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị

của các hàng hóa. Muốn đo lường giá trị của các hàng hóa, bản thân tiền
tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là
tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hóa không cần thiết phải là tiền mặt
mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng tượng. Sở dĩ
có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hóa
trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao


động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Giá trị hàng hóa
được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa. Do đó, giá cả là hình
thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả hàng hóa do các yếu
tố sau đây quyết định: + Giá trị hàng hóa + Giá trị của tiền + Ảnh hưởng
của quan hệ cung cầu hàng hóa Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản
thân tiền tệ cũng phải được đo lường. Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền
tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ.
Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và các
phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm
tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo
giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hóa khác;
là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ.
Giá trị của hàng hóa tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao
động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Giá trị hàng hóa tiền tệ (vàng)
Thay đổi không ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả
của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Thí dụ 1USD vẫn
bằng 10 xu. - Phương tiện lưu thông: Với chức năng làm phương tiện lưu
thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa. Để làm chức

năng lưu thông hàng hóa ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hóa lấy tiền
làm môi giới gọi là lưu thông hàng hóa. Công thức lưu thông hàng hóa là:
H – T – H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa đã làm cho hành
vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian.
Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng
hoảng kinh tế. Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức
vàng thoi, bạc nén. Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá
trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó.
Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị. Như vậy,
giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình trạng
này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta


đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương
tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình
đó, khi đúc tiền nhà nước giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ.
Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó.
Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có
giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi
quốc gia.
+

Phương tiện cất trữ: Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút

khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì:
tiền đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thức giá trị, nên cất trữ tiền là
một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền
phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền
trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho
lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được

đưa vào lưu thông. Ngược lại nếu sản xuất giảm lượng hàng hóa lại ít thì
một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. + Phương tiện thanh
toán: Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả
tiền mua chịu hàng… Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến
trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao
dịch này trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả
hàng hóa. Nhưng vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa
vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ
mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu
trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu
người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống
chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào
đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ
thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
+

Tiền tệ thế giới: Khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới quốc


gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải
có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức
năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng, phương tiện
thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội.
+

Tóm lại: 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hóa quan

hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự
phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
b)


Quy luật lưu thông tiền tệ: Tiền là hình thức biểu hiện giá trị

của hàng hóa, nó phục vụ cho sự vận động của hàng hóa. Lưu thông hàng
hóa và lưu thông tiền tệ là hai mặt của quá trình thống nhất với nhau. Lưu
thông tiền tệ xuất hiện và dựa trên cơ sở của lưu thông hàng hóa. Ở mỗi
kỳ nhất định, lưu thông hàng hóa bao giờ cũng đòi hỏi một lượng tiền cần
thiết cho sự lưu thông. Số lượng tiền này được xác định bởi quy luật
chung của lưu thông tiền tệ. Quy luật này được thể hiện như sau: P.Q M=
V Trong đó: M: số lượng tiền cần thiết trong lưu thông P: giá cả của đơn
vị hàng hóa Q: khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa vào lưu thông V: số
vòng lưu thông của đơn vị tiền tệ Khi tiền vừa làm chức năng phương
tiện lưu thông, vừa làm chức năng phương tiện thanh toán thì lượng tiền
cần thiết cho lưu thông được xác định như sau: PQ − ( PQb − PQk ) +
PQd M= V Trong đó: PQ: tổng số giá trị hàng hóa và dịch vụ đem lưu
thông PQ b : tổng giá cả hàng hóa bán chịu PQ k :tổng giá cả hàng hóa
khấu trừ nhau PQ d : tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán Quy luật lưu
thông tiền tệ này là phổ biến đối với mọi nền kinh tế hàng hóa. Theo “
vietnamnet.vn” thì ước tính mới nhất của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) của Việt Nam vào tháng 12/2007 đã tăng 12,6% so với
tháng 12/2006. Đây là mức tăng giá cao nhất trong vòng 12 năm qua.
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo CPI tháng 12 mỗi năm
so với tháng 12 năm trước. Đúng là giá lương thực thực phẩm, giá dầu


tăng cao trong năm 2007. Do hai nhóm hàng hoá này đều là sản phẩm
ngoại thương chủ đạo của Việt Nam và đồng thời chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu CPI, đây chắc chắn là một trong những nguyên nhân gây ra
lạm phát cao ở Việt Nam trong suốt năm 2007. Nhưng nếu giá lương thực
thực phẩm và giá dầu lửa thế giới là nguyên nhân chính, thì các nước

trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan cũng phải chịu sức ép tăng giá
tương tự. Tuy nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam trong năm 2007
lên tới hai chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái
Lan 2,9%. Khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam với các quốc gia có lạm
phát thấp hơn, như Trung Quốc, Thái Lan, đó là tốc độ tăng cung tiền.
Tính tới cuối tháng 6/2007, lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi
ngân hàng ở Việt Nam đã tăng tới 21,1% so với đầu năm. Con số tương
ứng của Trung Quốc và Thái Lan lần lượt là 10% và 1,4%. Tăng trưởng
kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng
phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung
tiền và tăng GDP quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh. Năm 2007 lạm
phát của Việt Nam đã lên đến 12,6%, mức tăng kỷ lục trong một thập kỷ
qua. Về cơ bản, lạm phát luôn được xem là một hiện tượng tiền tệ, nghĩa
là lượng tiền tăng quá mức so với khối lượng hàng hóa trao đổi trong nền
kinh tế. Ở Việt Nam, nhằm hỗ trợ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn ở
tốc độ cao, lượng tiền được mở rộng liên tục trong nhiều năm trở lại đây
và nhiều người nghi ngờ rằng đó là lý do của lạm phát. Tuy vậy, cũng
trong năm qua nhiều yếu tố khách quan đã tác động đến giá cả, chẳng hạn
như lũ lụt, bệnh dịch trên gia cầm – những yếu tố tác động đẩy giá lương
thực thực phẩm tăng cao, giá một số nguyên vật liệu hàng công nghiệp
tăng do nhu cầu của Trung Quốc tăng mạnh, và đặc biệt là giá xăng dầu
tăng vọt. Song, cho đến thời điểm cuối năm, khi tất cả các yếu tố trên
được tổng hợp và phân tích bằng các công cụ khác nhau thì vai trò chính
của chính sách tiền tệ và tín dụng không thể bỏ qua. Trong năm 2007, giá


hàng lương thực thực phẩm (chiếm gần 43% trọng số trong tỷ số giá tiêu
dùng) được xem là nhân tố chính làm tăng chỉ số giá chung. Trong khi
đó, giá cả của các nhóm hàng hóa khác, đặc biệt là nguyên vật liệu của
ngành xây dựng (như sắt, thép, ximăng…) cũng tăng vọt bởi sự gia tăng

của giá dầu nhập khẩu. Nhưng so với những nước láng giềng, được xem
là có cùng nhóm nhân tố ảnh hưởng, thì lạm phát của họ gần như là được
kiểm soát hoàn toàn. Điều này có nghĩa là nguyên nhân chính của lạm
phát ở Việt Nam phải được lý giải ở một nguyên nhân khác. Gần đây,
một lượng lớn vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam, dưới dạng đầu tư trực
tiếp (FDI) lẫn đầu tư gián tiếp (FPI). Trong tình huống này, Ngân Hàng
Nhà Nước (NHNN) đã có sự lựa chọn giữa hai chính sách:
-

Nới lỏng tỷ giá để tiền đồng Việt Nam tăng giá nhằm hạn chế

sức ép lên lạm phát, điều này có thể dẫn đến làm tổn thương xuất khẩu và
khuyến khích nhập khẩu. - Hoặc là mua vào lượng lớn ngoại tệ dẫn đến
tăng dự trữ và giữ cho tỷ giá ổn định (hoặc là phá giá đôi chút cho đến
giữa năm 2007) để hỗ trợ xuất khẩu và tăng trưởng thúc đẩy GDP. Và
NHNN đã lựa chọn chính sách thứ hai bằng cách để cho cung tiền tăng và
cũng không sử dụng chính sách vô hiệu hóa thông qua các công cụ như
phát hành trái phiếu lãi suất cao để thu hút bớt lượng tiền dư thừa. Chính
sách trên của NHNN đã làm tổng cầu tăng mạnh và tạo ra sức ép lên tổng
cung như một tình trạng “thắt cổ chai” trong toàn bộ các khu vực của nền
kinh tế. Sẽ không đúng nếu cho rằng nguyên nhân của lạm phát là đến từ
một khu vực này hoặc một khu vực khác, chẳng hạn bắt nguồn từ những
yếu tố bên ngoài như giá dầu. Chính phủ có lẽ phải rà soát lại toàn bộ
chính sách vĩ mô và quyết định những chính sách dựa trên trọng số tác
động của chúng.
1.

Rà soát lại mục tiêu tăng trưởng GDP hằng năm theo hướng

thấp và ổn định hơn cho đến khi nào lạm phát trở lại mức 5-6% . Đây là

hướng hữu hiệu và trực tiếp nhất để kiểm soát lạm phát đang ở mức báo


động. Mục tiêu hàng đầu là nên giảm tổng cầu của nền kinh tế. Chính phủ
phải cân nhắc lại những chính sách hiện tại của mình, nhất là việc khuyến
khích một tỷ lệ đầu tư cao trong GDP như là một phương cách để đạt tăng
trưởng cao. Kết quả là tỷ số ICOR của Việt Nam hiện nay rất cao và điều
này thể hiện sự kém hiệu quả của lượng vốn đầu tư. Đây cũng là thời
điểm mà Chính phủ nên khuyến khích những dự án đầu tư, trong khu vực
công lẫn tư nhân, sử dụng ít nguồn lực nhưng đem lại năng suất cao hơn
nhằm thúc đẩy hiệu quả của lượng vốn chi tiêu. Đây cũng là cách làm
giảm sức ép lên tình trạng thắt cổ chai của phí cung trong tất cả các khu
vực trong nền kinh tế nhằm giảm sức ép lên lạm phát.
2.

Để đạt được những mục tiêu trên, Chính phủ cần tạo cho

NHNN một cơ chế độc lập hơn trong những quyết định chính sách sau:
- Hạn chế mở rộng tiền tệ và tín dụng, đặc biệt là hạn chế tín
dụng ngân hàng cho các cá nhân vay để mua chứng khoán và bất động
sản; doanh nghiệp nhà nước; các chương trình cho vay xã hội. - Tăng lãi
suất cho vay trong hệ thống ngân hàng, một phần sẽ tác động lên lãi suất
cho vay liên ngân hàng và các hoạt động cho vay cầm cố các giấy tờ có
giá. - Tăng thêm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
3.

Cho phép tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn nhằm giảm lạm phát;

mặc dù điều này có thể làm giảm xuất khẩu: đồng Việt Nam sẽ tăng giá
trong vài tháng tới, nhất là khi thông báo gần đây của NHNN

(25/12/2007) cho phép nới rộng 50% biên độ tỷ giá giao dịch của tiền
đồng, từ +/- 0,5% đến +/- 0,75%. Ngân hàng đã cho phép tỷ giá được linh
hoạt hơn thông qua những biến động nhỏ hằng ngày.
4.

NHNN phát hành trái phiếu có lãi suất cao nhằm giảm tính

thanh khoản đang vượt mức trong nền kinh tế.
5.

Nếu cần thiết, nên kiểm soát các dòng vốn đi vào nhằm giảm

tác động tạo ra sức ép lên lạm phát. Điều này phải được xử lý một cách


khéo léo nhằm tránh những tác động bất lợi lên thị trường chứng khoán
còn non trẻ. Chính phủ phải cân nhắc lại những chính sách hiện tại của
mình, nhất là việc khuyến khích một tỷ lệ đầu tư cao trong GDP như là
một phương cách để đạt được tăng trưởng cao. Kết quả là chỉ số ICOR
của Việt Nam hiện nay rất cao và điều này thể hiện sự kém hiệu quả của
lượng vốn đầu tư. Theo “vietnamnet.vn” việc chống lạm phát năm 2008
này phải được đặt lên hàng đầu, hơn cả mục tiêu tăng trưởng. Vì suốt bốn
năm liền lạm phát cao, cộng lại đã lên tới 40%. Điều này đồng nghĩa với
việc đồng tiền bị mất giá, đội giá thành sản phẩm lên cao, tăng thêm dự
án treo, còn đời sống người dân bị ảnh hưởng nặng. Đây cũng là nguyên
nhân gây ra bất ổn cả trên thị trường bất động sản và chứng khoán. Cùng
điều kiện, hoàn cảnh, các nước trong khu vực lạm phát thấp hơn Việt
Nam. Nếu môi trường VN bất ổn định, lòng tin của nhà đầu tu sẽ giảm đi,
ảnh hưởng đến cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư bỏ đi cũng
sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn. Lạm phát ảnh hưởng cũng sẽ làm

cho mức cạnh tranh trong nước giảm đáng kể. Theo
“tintuc.timnhanh.com” thì Việt Nam phấn đấu tới cuối năm 2009 đưa tỷ
lệ lạm phát trở về một con số. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
đã đề nghị các địa phương chuẩn bị xây dựng kế hoạch 2009 trên tinh
thần tiếp tục duy trì tăng trưởng GDP từ 7-8% và phấn đấu tới cuối năm
2009 đưa tỷ lệ lạm phát trở về một con số. Thủ tướng đã phát biểu chỉ
đạo như trên tại lớp bồi dưỡng về “Phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế” cho trên 180 cán bộ chủ
chốt thuộc 59 tỉnh, thành phố do Bộ Nội vụ tổ chức tại TP.HCM ngày 138. Những yêu cầu mà Nhà nước đặt ra cho các địa phương trong năm
2009 cũng vẫn là ưu tiên đầu tư cho các công trình cấp thiết, dành một
phần ngân sách để đảm bảo an sinh xã hội, giảm bội chi ngân sách...


Trước bối cảnh giá cả lạm phát tăng cao, tác động đến đời sống
hạnh phúc của nhân dân, Thủ tướng đề nghị các địa phương tiếp tục thực
hiện tốt 8 nhóm giải pháp của Chính phủ, trong đó tập trung tháo gỡ cho
sản xuất và xuất khẩu, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
đầu tư và triển khai tốt các nguồn vốn đầu tư, nhất là giải ngân nhanh các
nguồn vốn đầu tư và các thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, các chính sách
ban hành phải được triển khai tới tận người dân như hỗ trợ người nghèo,
ngư dân, chế độ khám chữa bệnh, học phí... Thủ tướng lưu ý lãnh đạo các
địa phương tập trung chỉ đạo công tác phòng chống bão lụt, hạn chế thấp
nhất thiệt hại về người và tài sản của nhân dân, kiểm soát chặt chẽ môi
trường, nhất là việc đầu tư xây dựng các khu công nghiệp.
3. Giá trị và giá cả của tiền tệ
Tiền tệ có giá trị không phải vì nó có giá trị tự thân mà vì
những gì tiền tệ có thể trao đổi được. Giá trị của tiền tệ là số lượng hàng
hóa và dịch vụ mua được bằng một đơn vị của tiền tệ, ví dụ số lượng
hàng hóa và dịch vụ mua được bằng một Dollar. Nói cách khác giá trị của
tiền tệ là nghịch đảo của giá cả hàng hóa.

Giá cả của tiền tệ chính là lãi suất, nói một cách khác, giá cả của
tiền tệ là số tiền mà người ta phải trả cho cơ hội được vay nó trong một
khoảng thời gian xác định.Giá trị của tiền tệ là 1 lượng vàng nguyên chất
nhất định làm đơn vị tiền tệ.
3. Tính chất của tiền tệ
Để có thể thực hiện được các chức năng của tiền, tiền tệ (hay tiền
trong lưu thông) phải có các tính chất cơ bản sau đây:


Tính được chấp nhận rộng rãi: đây là tính chất quan trong nhất của
tiền tệ, người dân phải sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu
khác đi nó sẽ không được coi là tiền nữa. Kể cả một tờ giấy bạc
do ngân hàng trung ương phát hành cũng sẽ mất đi bản chất của nó


khi mà trong thời kỳ siêu lạm phát, người ta không chấp nhận nó như
là một phương tiện trao đổi.


Tính dễ nhận biết: Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ
nhận biết, người ta có thể nhận ra nó trong lưu thông một cách dễ
dàng. Chính vì thế những tờ giấy bạc dongân hàng trung ương phát
hành được in ấn trông không giống bất cứ một tờ giấy chất lượng cao
nào khác.



Tính có thể chia nhỏ được: tiền tệ phải có các loại mênh giá khác
nhau sao cho người bán được nhận đúng số tiền bán hàng còn người
mua khi thanh toán bằng một loại tiền có mệnh giá lớn thì phải được

nhận tiền trả lại. Tính chất này giúp cho tiền tệ khắc phục được sự bất
tiện của phương thức hàng đổi hàng: nếu một người mang một con bò
đi đổi gạo thì anh ta phải nhận về số gạo nhiều hơn mức anh ta cần
trong khi lại không có được những thứ khác cũng cần thiết không
kém.



Tính lâu bền: tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng
cất trữ giá trị cũng như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng
không thể dùng để làm tiền, chính vì vậy những tờ giấy bạc được in
trên chất liệu có chất lượng cao còn tiền xu thì được làm bằng kim
loại bền chắc.



Tính dễ vận chuyển: để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ,
mang theo, tiền tệ phải dễ vận chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ
giấy bạc và những đồng xu có kích thước, trọng lượng rất vừa phải
chứ tiền giấy không được in khổ rộng ví dụ như khổ A4.



Tính khan hiếm: Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất
khan hiếm vì nếu có thể kiếm được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ
không còn ý nghĩa trong việc cất trữ giá trị và không được chấp nhận
trong lưu thông nữa. Vì thế trong lịch sử những kim loại hiếm như


vàng, bạc được dùng làm tiền tệ và ngày nay ngân hàng trung

ương chỉ phát hành một lượng giới hạn tiền giấy và tiền xu.


Tính đồng nhất: tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống
hệt nhau không phân biệt người ta tạo ra nó lúc nào, một đồng xu
5.000 VND được làm ra cách đây 2 năm cũng có giá trị như một đồng
xu như thế vừa mới được đưa vào lưu thông. Có như vậy tiền tệ mới
thực hiện chức năng là đơn vị tính toán một cách dễ dàng và thuận
tiện trong trao đổi.
4. Các đơn vị tiền tệ quốc tế
Một số đơn vị tiền tệ quốc gia của những nền kinh tế phát
triển của thế giới hoặc của khu vực được sử dụng nhiều và do đó
chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại và tài chính quốc tế
như Dollar Mỹ, Euro, Yên Nhật, Bảng Anh.
5. Các đơn vị tiền tệ kế toán
Một số đơn vị tiền tệ không thực tế xuất hiện trong lưu thông mà

chỉ được dùng cho mục đích tính toán để thuận tiện trong quan hệ tài
chính, thương mại quốc tế còn khi thanh toán phải được quy đổi ra các
đơn vị tiền tệ lưu thông, trong đó phổ biến là:


Quyền rút vốn đặc biệt - SDR: có mã ISO là XDR, đây là đơn vị
tiền tệ được Quỹ tiền tệ quốc tế, một số tổ chức quốc tế sử dụng, nó
cũng được dùng để tính toán cước phí bưu chính, viễn thông quốc
tế. XDR gồm một giỏ các loại tiền phổ biến trong thương mại và tài
chính quốc tế và hiện nay gồm EUR, USD, JPY, GBP với quyền số và
giá trị được Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) tính toán 5 năm một
lần. IMF cũng công bố tỷ giá của XDR so với USD hàng ngày để
phục vụ cho thanh toán.





Franc Poincaré: được sử dụng chủ yếu trong các quy định quốc tế
liên quan đến trách nhiệm vật chất (ví dụ: Công ước Warszawa về
trách nhiệm của các hãng hàng không quốc tế trong vận chuyển
người, hành lý, hàng hóa bằng máy bay). Nó được định nghĩa là
65,5 mg vàng 900 phần nghìn. Tuy nhiên loại đơn vị tiền tệ kế toán
này ngày nay hầu như đã được thay thế bởi XDR.



ECU (viết tắt của cụm từ tiếng Anh "European Currency Unit"): là
đơn vị tiền tệ kế toán được xây dựng trên cơ sở giỏ tiền tệ của các
nước thuộc Cộng đồng châu Âu có mã ISO là XEU trước khi nó được
thay thế bằng đồng Euro (mã ISO là EUR) với tỷ lệ 1:1. Tuy nhiên
việc thay thế này đã nảy sinh một số rắc rối khi có tranh tụng pháp lý
ở ngoàiCộng đồng châu Âu về việc đồng EUR có phải là đồng tiền
thay thế XEU hay không.



Ngoài các đơn vị tiền tệ kế toán khá phổ biến trong thương mại và
tài chính quốc tế nêu trên, trong ngành hàng không dân dụng thế giới,
một đơn vị tiền tệ kế toán là NUC(viết tắt của cụm từ
tiếng Anh "Neutral Unit of Currency") được sử dụng để tính cước phí
vận chuyển hàng không. Tỷ giá của nó so với USD luôn là 1.
II. Ứng dụng của tiền tệ trong nền kinh tế
1. Vai trò và chức năng của tiền tệ

Vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở ba

mặt:-Thứ nhất: tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát
triển nền kinh tế hàng hóa. C.Mác đã chỉ ra rằng, người ta khổng thể tiến
hàng sản xuất hàng hóa nếu như không có tiền và sự vận động của nó.Khi
tiền tệ tham gia trong chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu
thông là cho việc đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa trở nên giản
đơn, thuận lợi và thống nhất, làm cho sự vận động của hàng hóa trong lưu
thông tiến hành một cách trôi chảy. Mặt khác, khi sử dụng tiền trong sản


xuất kinh doanh giúp cho người sản xuất có thể hạch toán được chi phí và
xác định kết quả sản xuất kinh doanh, thực hiện được tích lũy tiền tệ để
thực hiện tái sản xuất kinh doanhTiền tệ trở thành công cụ duy nhất và
không thể thiêu để thực hiện yêu cầu quy luật giá trị. Vì vậy, nó là công
cụ không thể thiếu được để mở rộng và phát triển nền kinh tế hàng hóa
.-

Thứ hai: tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các

quan hệ quốc tế. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển
chuyển sang nền kinh tế thị trường thì tiền tệ không những là phương tiện
thực hiện các quan hệ kinh tế xã hội trong phạm vi quốc gia mà còn là
phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế.Cùng với ngoại thương, các quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế,
tiền tệ phát huy vai trò của mình để trở thành phương tiện cho việc thực
hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế, nhất là đối với các mối quan hệ
nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế giới hình thành và phát triển làm cho
xu thế hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, tài chính, tiền tệ ngân
hàng, hợp tác khoa học kỹ thuật giữa các nước .

-

Thứ ba: tiền tệ là một công cụ để phục vụ cho mục đích của

người sử dụng chúng.Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển
cao thì hầu hết các mối quan hệ kinh tế-xã hội đều được tiền tệ hóa, mọi
cá nhân, tổ chức, cơ quan…đều không thể thoát ly khỏi các quan hệ tiền
tệ. Trong điều kiênh tiền tệ trở thành công cụ có quyền lực vạn năng xử l
và giải tỏa mối ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xã hội không những
trong phạm vi quốc gia mà còn phạm vi quốc tế. Chính vì vậy mà tiền tệ
có thể thỏa mãn mọi mục đích và quyền lợi cho những ai đang nắm giữ
tiền tệ. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ thì thế lực
của đồng tiền vẫn còn phát huy sức mạnh của nó.

.

CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ:
Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua các chức năng của nó. Theo C.
Mác tiền tệcó 5 chức năng:- Thước đo giá trị. Tiền tệ dùng để biểu hiện


và đo lường giá trị của các hàng hoá.Muốn đo lường giá trị của các hàng
hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệlàm chức năng thước
đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá khôngcần thiết
phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách
tưởngtượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và
giá trị của hàng hoátrong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ
lệ đó là thời gian lao động xã hộicần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá
đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiềngọi là giá cả hàng hoá. Do
đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hànghoá. Giá cả

hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:+ Giá trị hàng hoá.+ Giá trị
của tiền.+ ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.Để làm chức năng
thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường.Do đó, phải
có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của
kimloại dùng làm tiền tệ. ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác
nhau. Đơn vị tiền tệvà các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác
dụng của tiền khi dùng làm tiêuchuẩn giá cả không giống với tác dụng
của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là thướcđo giá trị, tiền tệ đo lường
giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đolường bản
thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo
sựthay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó.
Giá trị hàng hoátiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức
năng" tiêu chuẩn giá cả của nó,mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế
nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen.
-

Phương tiện lưu thông: Với chức năng làm phương tiện lưu

thông, tiền làm môigiới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức
năng lưu thông hàng hoá ta phải cótiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền
làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.Công thức lưu thông hàng hoá là:
H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổihàng hoá đã làm cho hành vi
bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian vàkhông gian. Sự


không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng
hoảngkinh tế.Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức
vàng thoi, bạc nén. Dầndần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá
trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dầnvà mất một phần giá trị của nó.
Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủgiá trị.Như vậy, giá

trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tìnhtrạng này
vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi
hànglấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện
lưu thông, tiềnkhông nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó,
khi đúc tiền nhà nước tìmcách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị
tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngàycàng thấp so với giá trị danh nghĩa
của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy.Bản thân tiền giấy
không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công nhậntrong
phạm vi quốc gia.
-

Phương tiện cất trữ. Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được

rút khỏi lưu thôngđi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì:
tiền là đại biểu cho của cải xãhội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là
một hình thức cất trữ của cải. Để làm chứcnăng phương tiện cất trữ, tiền
phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữlàm cho tiền
trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết
cholưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ
được đưa vào lưuthông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại
ít thì một phần tiền vàng rútkhỏi lưu thông đi vào cất trữ.- Phương tiện
thanh toán. Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ,nộp
thuế, trả tiền mua chịu hàng ... Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát
triển đếntrình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình
thức giao dịch này trước tiên.
2. Đặc lợi phát hành tiền tệ


Lợi ích mà ngân hàng trung ương (hoặc cơ quan chính phủ có
quyền phát hành tiền) có được nhờ phát hành tiền tệ được gọi là đặc lợi

phát hành tiền tệ. Đây là phần giá trị chênh lệch giữa giá trị danh nghĩa
(hay giá trị quy định) căn cứ vào con số của tờ bạc hoặc đồng xu và chi
phí sản xuất, đưa vào lưu thông cũng như thu hồi các đồng tiền đó.

Phần kết luận
Gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa – tiền
tệ. Trong sự phát triển của nền kinh tế của các nước trên thế giới, vấn đề
tiền tệ là vấn đề rất được xã hội quan tâm do tiền tệ ra đời làm cho việc
trao đổi hàng hóa, dịch vụ được dễ dàng, thuận tiện hơn . Tiền tệ được
phát triển qua các giai đoạn khác nhau, sự thay thế nhau của các loại tiền
trong từng thời kỳ. Ở Việt Nam cũng vậy, sự thay đổi của tiền tệ, thay đổi
hình thái tiền tệ( kim loại, giấy, polime, thẻ…) , lịch sử tiền tệ cũng chịu
ảnh hưởng của lịch sử xã hội. Sự thay đổi đi lên của tiền tệ điều đó cũng
là một phần để đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất nước . Chính sự
phát triển và vai trò quan trọng của tiền tệ mà tiểu luận được xây dựng
với đề tài : ‘‘Tiền tệ và ứng dụng của tiền tệ trong kinh tế’’. Tìm hiểu về
đề tài này không chỉ cho phép chúng em biết thêm những kiến thức về
lịch sử xuất hiện của tiền tệ mà còn hiểu biết sâu sắc hơn những những
thực tế xoay quanh chế độ tiền tệ , những ảnh hưởng của tiền tệ đối với
nền kinh tế của đất nước Việt Nam.


2


3


4



5


×