Tải bản đầy đủ (.pdf) (222 trang)

So sánh đối chiếu phương thức danh hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 222 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------------

NGUYỄN THỊ BÍCH NGOAN

SO SÁNH ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC DANH HÓA
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

TP. HỒ CHÍ MINH - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------

NGUYỄN THỊ BÍCH NGOAN

SO SÁNH ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC DANH HÓA
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh – đối chiếu
Mã số: 62 22 01 10
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Tập thể hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Lê Trung Hoa
2. TS. Nguyễn Thị Kiều Thu
Phản biện độc lập:
1. PGS. TS. Trần Thủy Vịnh


2. PGS.TS. Phạm Văn Tình
Phản biện:
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp
Phản biện 2: PGS. TS. Trần Thủy Vịnh
Phản biện 3: PGS.TS. Dư Ngọc Ngân

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, nếu có bất kỳ sai phạm
nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 9 tháng 8 năm 2016

NCS. Nguyễn Thị Bích Ngoan


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài “So sánh đối chiếu phương thức
danh hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt, tôi đã nhận được rất nhiều sự
giúp đỡ tạo điều kiện của lãnh đạo và chuyên viên phòng sau đại học,
khoa văn học và ngôn ngữ của trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn. Tôi chân thành cảm ơn sự hỗ trợ đáng quý này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Lê Trung Hoa,
TS. Nguyễn Thị Kiều Thu, Thầy Cô đã rất tận tình hướng dẫn tôi
hoàn thành luận án này.Thầy Cô không chỉ là người hướng dẫn mà
còn là người đồng hành chia sẻ những khó khăn, trở ngại cùng tôi
trong suốt thời gian làm luận án.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Huỳnh Thị Hồng
Hạnh, TS. Trần Hoàng, PGS.TS Dư Ngọc Ngân, những Thầy Cô đã
nhiệt tình giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình hoàn thành luận án.
Tôi cũng xin trân trọng gởi lời cảm ơn đến quý Thầy Cô trong hội
đồng và các Thầy phản biện đã có những góp ý quý báu giúp tôi sửa
chữa, hoàn thiện luận án tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
luôn động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi hoàn thành luận án.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Bích Ngoan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

0.1 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, lí do chọn đề tài .............................................1
0.2 Mục đích, nhiệm vụ của luận án….....................................................................2
0.3 Lịch sử vấn đề.....................................................................................................3
0.4 Phương pháp nghiên cứu, nguồn dữ liệu ............................................……….13
0.5 Ý nghĩa của luận án .........................................................................................16
0.6 Bố cục của luận án ............................................................................................16
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................. 18
1.1. Khái quát về danh từ, động từ, tính từ, danh ngữ, mệnh đề trong tiếng Anh
và tiếng Việt ..................................................................................................... 18
1.2. Hiện tượng chuyển loại trong tiếng Anh và tiếng Việt .................................. 33

1.3. Hiện tượng/phương thức danh hóa ................................................................ 38
Tiểu kết .......................................................................................................... 45
Chương 2: SO SÁNH ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC DANH HÓA
ĐỘNG TỪ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT ..................................... 46
2.1 Danh hóa động từ trong tiếng Anh .............................................................. 46
2.1.1. Phương thức danh hóa thêm phụ tố vào sau động từ .................................. 47
2.1.2. Danh hóa động từ không có sự biến đổi hình thái (không cần kết hợp
yếu tố danh hóa) ............................................................................................. 63
2.1.3. Vận dụng phương thức danh hóa trong văn viết .................................... 64
2.2. Danh hóa động từ trong tiếng Việt ............................................................ 67
2.2.1. Danh hóa động từ bằng “sự, việc, cái, cuộc, nỗi, niềm, cơn, trận,
chuyến ..................................................................................................... 67
2.2.2. Danh hóa bằng lượng từ hoặc không cần kết hợp yếu tố danh hóa ........ 81
2.3. So sánh đối chiếu phương thức danh hóa động từ trong tiếng Anh
và tiếng Việt..................................................................................................... 84
2.3.1 Sự khác nhau giữa phương thức danh hóa động từ trong tiếng Anh
và tiếng Việt ...................................................................................................... 84


2.3.2 Sự giống nhau giữa phương thức danh hóa động từ trong tiếng Anh
và tiếng Việt........................................................................................................ 87
Tiểu kết ............................................................................................................. 90
Chương 3: SO SÁNH ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC DANH HÓA TÍNH TỪ
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT ............................................................. 92
3.1 Danh hóa tính từ trong tiếng Anh ............................................................... 92
3.1.1 Phương thức danh hóa tính từ trong tiếng Anh......................................... 92
3.1.2 Cấu trúc, ngữ nghĩa của tổ hợp danh hóa tính từ ....................................... 93
3.1.2.1 Danh hóa tính từ với mạo từ “the” ....................................................... 96
3.1.2.2 Danh hóa tính từ bằng cách phái sinh tính từ ...................................... 99
3.1.2.3 Danh hóa không cần kết hợp yếu tố danh hóa ..................................... 103

3.2 Danh hóa tính từ trong tiếng Việt ............................................................. 105
3.2.1 Phương thức danh hóa tính từ trong tiếng Việt............................................ 105
3.2.2 Cấu trúc, ngữ nghĩa của tổ hợp danh hóa tính từ ......................................... 107
3.2.2.1 Danh hóa tính từ với “cái”........................................................................ 107
3.2.2.2 Danh hóa tính từ với “sự” ......................................................................... 109
3.2.2.3 Danh hóa tính từ với “vẻ, việc, điều, điềm, tính” ...................................... 111
3.2.2.4 Danh hóa tính từ với lượng từ “những, mọi, một, bao/biết bao/nhiều” ... 112
3.1.2.5 Danh hóa không cần kết hợp yếu tố danh hóa .......................................... 114
3.3 So sánh đối chiếu phương thức danh hóa tính từ trong
tiếng Anh và tiếng Việt ....................................................................................... 115
3.3.1 Sự khác nhau giữa phương thức danh hóa tính từ trong tiếng Anh
và tiếng Việt ................................................................................................. 115
3.3.2 Sự giống nhau giữa phương thức danh hóa tính từ trong tiếng Anh
và tiếng Việt ................................................................................................. 117
Tiểu kết ............................................................................................................ 121
Chương 4: SO SÁNH ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC DANH HÓA MỆNH ĐỀ
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT ......................................................... 122
4.1. Danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh ........................................................... 122
4.1.1. Phương thức danh hóa ............................................................................... 122
4.1.2 Cấu trúc, ngữ nghĩa của tổ hợp danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh ......... 130


4.1.2.1 Danh hóa mệnh đề với “that” hoặc “the fact that” ................................ 130
4.1.2.2 Danh hóa mệnh đề bằng cách phái sinh động từ .................................... 135
4.2 Danh hóa mệnh đề trong tiếng Việt............................................................. 140
4.2.1 Phương thức danh hóa .............................................................................. 140
4.2.2 Cấu trúc, ngữ nghĩa của tổ hợp danh hóa mệnh đề .................................... 143
4.2.2.1 Danh hóa mệnh đề với “việc” ............................................................... 143
4.2.2.2 Danh hóa mệnh đề với “hiện tượng” .................................................... 145
4.2.2.3 Danh hóa mệnh đề với “vụ, trường hợp, tình trạng” ............................ 146

4.2.2.4 Danh hóa mệnh đề bằng cách biến vị ngữ của mệnh đề thành danh ngữ
hoặc định ngữ ........................................................................................................ 147
4.3 So sánh đối chiếu phương thức danh hóa mệnh đề trong
tiếng Anh và tiếng Việt ......................................................................................... 148
4.3.1 Sự khác nhau giữa phương thức danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh
và tiếng Việt ...................................................................................................... 148
4.3.2 Sự giống nhau giữa phương thức danh hóa mệnh đề trong tiếng Anh
và tiếng Việt....................................................................................................... 150
Tiểu kết ..................................................................................................................... 153
Kết luận ..................................................................................................................... 154
Danh mục tài liệu tham khảo .................................................................................. 158
Phụ lục về việc ứng dụng kết quả nghiên cứu........................................................ 173
....................................................................................................................................


1

MỞ ĐẦU
0.1 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, lí do chọn đề tài
Trong các địa hạt từ vựng - ngữ nghĩa học, hình thái học và cú pháp học,
từ và chức năng của nó trong câu là vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm, thu hút
nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà ngữ học. Ở địa hạt hình thái học
và cú pháp học, đối tượng này được nghiên cứu từ nhiều khía cạnh như cấu
tạo từ, phân loại từ, các dạng thức của từ và các phạm trù ngữ pháp tương
ứng.
Đời sống ngày càng thay đổi, nhu cầu sử dụng ngôn ngữ ngày càng gia
tăng. Để đáp ứng nhu cầu đó, ngôn ngữ ngoài những đặc tính bình ổn, kế
thừa, đồng thời cần phải được phát triển và biến đổi không ngừng. Sự phát
triển này thể hiện rất rõ trong hệ thống từ vựng của mỗi ngôn ngữ, trong đó có
hiện tượng danh hoá. Danh hóa là một phương thức tạo từ mà ở đó, tính từ,

động từ được sử dụng như (hoặc được chuyển đổi sang) danh từ. Khi việc
giao tiếp và trao đổi thông tin ngày càng gia tăng trong tất cả các lĩnh vực,
ngôn ngữ cho phép cô đọng thông tin đang trở thành một chủ đề quan trọng
trong ngôn ngữ học đương đại. Những khía cạnh khác nhau của hiện tượng
danh hóa đã được các nhà ngôn ngữ quan tâm và phân tích, tiêu biểu như
Halliday, Quirk (1964), Chomsky (1970) Gopnik (1972), Biber (1988),
Gross(1990), Swales (1990), Halliday và Martin (1993), Atkinson (1998),...
Danh hóa được nghiên cứu trong các ngôn ngữ khuất chiết biến hình nói
chung, tiếng Anh nói riêng như một hiện tượng của hình thái học và cú pháp
học. Trong lý luận ngôn ngữ học hiện đại, danh hóa là cách thức làm giàu vốn
từ vựng bằng cách phái sinh ra những từ mới trên cơ sở những từ đã có. Với
tính năng này, hiện tượng danh hóa ngày càng được sử dụng và nghiên cứu
nhiều hơn. Nói theo cách của Langacker [127, tr.22] Hiện tượng danh hóa
không chỉ có sức lan tỏa/ phổ biến mà còn rất quan trọng về mặt lý thuyết
(Nominalization is not only pervasive but theoretically significant...)


2

Trong các ngôn ngữ không biến hình, chẳng hạn như tiếng Việt,
phương thức danh hóa về mặt thuật ngữ - tên gọi – không được sử dụng, mặc
dầu bản chất của phương thức này có tồn tại, hiện diện trong các ngôn ngữ đó,
tuy nó không hoàn toàn giống với trong các ngôn ngữ biến hình, cả về cách
thức lẫn nội dung ngữ nghĩa. Chính vì vậy, với mong muốn tìm hiểu, khảo
cứu, phát hiện ra những nét tương đồng và dị biệt về phương thức biểu hiện
cũng như về ngữ nghĩa của phương thức danh hóa trong tiếng Anh và tiếng
Việt, từ đó đưa ra những nhận xét, nhận định về những đặc trưng có tính loại
hình của hiện tượng này trong hai ngôn ngữ nói trên nên chúng tôi đã chọn đề
tài của luận án này là: “So sánh đối chiếu phương thức danh hóa trong
tiếng Anh và tiếng Việt”.

Với đề tài luận án như vậy, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu là
các ngữ liệu thể hiện danh hóa được lấy ra từ các văn bản văn học Anh, Việt
(xem bảng phụ lục tài liệu tham khảo cho luận án).
Hơn thế nữa, do hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt khác nhau về
loại hình nên những phương thức danh hoá giữa hai ngôn ngữ này cũng khác
nhau. Trước đây cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về hiện tượng danh hóa
nhưng nhìn chung chưa có một công trình nào so sánh một cách đầy đủ và
bao quát các trường hợp danh hóa ở hai cấp độ (từ vựng và ngữ pháp) trong
hai ngôn ngữ. Chính vì thế luận án như một lát cắt đa chiều nhằm so sánh đối
chiếu những điểm tương đồng và dị biệt trong phương thức danh hóa cũng
như ý nghĩa của những điểm này nhằm làm rõ hơn về đặc điểm loại hình của
hai ngôn ngữ nêu trên.
0.2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
0.2.1. Mục đích của luận án
- Luận án nhằm tìm hiểu các phương thức danh hóa trong tiếng Anh và
tiếng Việt để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt của hai ngôn ngữ Anh –
Việt.


3

- Giúp làm rõ hơn cơ chế vận hành của cấu trúc ngôn ngữ cũng như
những khác biệt về loại hình ở hiện tượng danh hóa này của hai ngôn ngữ
Anh –Việt.
- Giúp cho người học tiếng Anh và tiếng Việt ứng dụng ngôn ngữ tốt
hơn.
- Giúp cho việc chuyển dịch văn bản một cách chính xác và tinh tế
hơn.
0.2.2. Nhiệm vụ của luận án
Luận án có các nhiệm vụ sau:

- Nhận diện các phương thức danh hóa xuất hiện trong các văn bản văn
học tiếng Anh và tiếng Việt.
- Mô tả, phân tích những sản phẩm của quá trình danh hóa, từ đó tổng
kết, hệ thống các phương thức danh hóa, rút ra các mô hình danh hóa trong
hai ngôn ngữ.
- So sánh đối chiếu nhằm rút ra những điểm tương đồng và khác biệt
hữu quan trong hiện tượng danh hoá giữa hai ngôn ngữ Anh - Việt.
- Đưa ra một số lưu ý về hiện tượng danh hoá và cách chuyển dịch các
ngữ danh hóa tiếng Anh sang tiếng Việt và ngược lại, đồng thời đưa ra một số
lưu ý về cách dạy và học cho giáo viên và học viên khi học tiếng Anh, tiếng
Việt như một ngoại ngữ và như tiếng mẹ đẻ.
0.3 Lịch sử vấn đề
0.3.1 Tình hình nghiên cứu hiện tượng danh hóa trong tiếng Anh
Trong tiếng Anh, phương thức danh hóa được các nhà ngữ học quan tâm
và nghiên cứu khá nhiều. N. Chomsky có thể coi là người đầu tiên nghiên cứu
phương thức danh hóa. Ông có 3 bài viết nổi tiếng liên quan đến hiện tượng
trên, gồm: Một số nhận xét về hiện tượng danh hoá (Remarks on
nominalization); Cấu trúc sâu, cấu trúc bề mặt và cách diễn giải ngữ nghĩa
(Deep structure, surface structure and semantic interpretation); Một số vấn


4

đề có tính thực nghiệm trong lý thuyết của ngữ pháp cải biến (Some
empritical issuses in the theory of transformational grammar).
Trong công trình Remarks on nominalization của N.Chomsky, công trình
này được công bố lần đầu vào năm 1970. N. Chomsky đã tập trung khảo sát
quá trình danh hóa dẫn đến ba loại kết cấu danh tính khác nhau gồm:
1. Ngữ đoạn danh động tính (gerundive nominal), ví dụ:
(1) a. John’s refusing the offer (việc John từ chối lời mời chào)

b. John’s being eager to please (việc John hào hức làm vui lòng)
c. John’s criticizing the book (việc John bình phẩm cuốn sách)
2. Ngữ đoạn danh tính phái sinh (derived nominal), ví dụ:
(2) a. John’s refusal of the offer (sự từ chối lời mời của John)
b. John’s eagerness to please (sự háo hức làm vui lòng của John)
c. John’s criticism of the book (sự bình phẩm của John về cuốn
sách)
3. Ngữ đoạn danh tính “ hỗn hợp” (mixed form), ví dụ:
(3) a. John’s refusing of the offer (việc từ chối lời mời của John)
b. John’s proving of the theorem (việc chứng minh định lý của
John)
c. The growing of tomatoes (việc trồng cà chua)
Theo F.Newmeyer, N.Chomsky cho rằng ngữ đoạn danh động tính là
phái sinh từ câu (desentential) trong khi ngữ đoạn danh tính phái sinh thì
mang dáng dấp của danh từ ở cấu trúc sâu chứ không hề phái sinh từ câu mà
cũng không được cải biến từ động từ tương ứng [141, tr. 26-29].
Trong tiếng Anh, một trong những trường hợp có xảy ra hiện tượng pha
trộn từ loại thường được nhắc đến là quá trình danh hóa động từ như được
minh họa trong các ví dụ sau:
(4) a. Harriet repaired all the damage efficiently (Harriet sửa chữa
các thiệt hại một cách hiệu quả)
b. All the damage was efficiently repaired by Harriet.


5

c. Harriet’s repairing the damage so efficiently
d. Harriet’s efficient repairing of the damage
e. The efficient repairing of the damage by Harriet
f. Harriet/Her repairing the damage so efficiently

(Kotjevskaja –Tamm, 1993)
Trong a và b, repaired là động từ, nhưng trong các ví dụ từ c đến f,
repairing vừa giống danh từ (vì xuất hiện sau Harriet’s và her) lại vừa giống
động từ (xuất hiện trước the damage, so efficiently, by Harriet, tức có cấu trúc
tham tố của một động từ).
Spencer cho rằng “repairing” trong các ví dụ trên là cùng một hình thái
danh tính (nominal form) và do đó ông cũng băn khoăn về mức độ động tính
của yếu tố này [155, tr.106]
Spencer không nêu ra các tiêu chí phân loại thật rõ ràng nên phần trình
bày của ông về các kiểu loại danh hóa thiếu nhất quán: các kiểu a,b,c, và e
thuộc lĩnh vực hình thái pha trộn ngữ nghĩa học, trong khi các kiểu d, và f lại
thuộc lĩnh vực ngữ nghĩa học trộn lẫn cú pháp. Điều này cũng làm người đọc
băn khoăn về cách ông xác định thế nào là danh hóa. [Nguyễn Thái Ân, 1]
Năm 1967, trong khi nghiên cứu về hiện tượng danh hóa từ động từ,
Vendler đã đề xuất kiểu phân loại động từ bốn cách (four-way classification
of verbs). Theo Vendler, tất cả các động từ có thể được phân loại như biểu thị
trạng thái (states), hoạt động (activities), sự tình/ quá trình điểm tính hữu
đích (achievements), hoặc sự tình/ quá trình đoạn tính hữu đích
(accomplishments). Ông sử dụng khái niệm achievements và accomplishments
để phân loại vị từ (predicates) theo bình diện đặc tính của thể (aspect): Vị từ
đoạn tính hữu đích biểu thị một sự tình chỉ quá trình đễn ra ngay lập tức;
chẳng hạn arrive là vị từ thuộc loại này và có đặc tính điểm tính (punctual);
còn vị từ đoạn tính hữu đích biểu thị mội loại sự tình có tính quá trình, có thời
đoạn nhưng rồi cũng đạt tới tột điểm; ví dụ: vị từ build thuộc loại này, có thời
lượng (durative) và hữu đích (telic).


6

Về phân loại các từ là sản phẩm của danh hóa, Vendler đã phân biệt

hai loại từ danh hóa, đó là: danh từ hoàn chỉnh (perfect nominals) và danh từ
không hoàn chỉnh (imperfect nominals).
+ Danh từ hoàn chỉnh (perfect) đi cùng với các từ hạn định (determiners), nó
có thể được bổ nghĩa bởi tính từ, chứ không phải trạng từ và không thể xuất
hiện trong nhiều thì khác nhau. Hơn nữa không thể dùng loại danh từ này ở
dạng phủ định. Tóm lại, danh từ hoàn chỉnh là những từ đã được danh hóa,
thường thì những từ này sẽ mất đi đặc tính động từ và nó sẽ có chức năng
giống như một danh từ thật sự. Đây chính là lý do vì sao Vendler đặt cho
chúng là perfect.
Ví dụ :
(5). a.The singing of the song (việc hát một bài hát)
b. Beautiful singing of the song (việc hát hay một bài hát)
c. Quickly cooking of the dinner
d. * Having cooked of the dinner
e. * Being able to cook of the dinner
f. * Not revealing of the secrect.
Trong các ví dụ trên chỉ có danh ngữ (a) và (b) mới đúng là danh từ hoàn
chỉnh (perfect nominals), những ngữ đoạn còn lại thì không phải. Bởi vì
danh ngữ (a) có từ hạn định the đi cùng, và (b) thì có tính từ đứng trước để
bổ nghĩa, hai ngữ đoạn trên đáp ứng điều kiện của một danh từ thực thụ đã
đề cập ở trên nên được gọi là danh từ hoàn chỉnh. Còn các ngữ đoạn còn
lại, ngữ đoạn (c) thì từ cooking được bổ nghĩa bởi trạng từ quickly, cho
thấy cooking không phải là danh từ, ngữ đoạn (d) và (e) lại được dùng ở
dạng hiện tại phân từ và từ cook có vai trò là động từ hơn là danh từ. Ngữ
đoạn (f) cũng không phải danh từ hoàn chỉnh bởi ngữ đoạn được dùng ở
dạng phủ định, một danh từ thực thụ không thể có not đứng trước.


7


+ Danh từ không hoàn chỉnh (imperfect) thì ngược lại, chúng có thể bổ nghĩa
bởi trạng từ chứ không phải tính từ, chúng có thể xuất hiện ở nhiều thì khác
nhau, và có thể được dùng ở dạng phủ định.
Ví dụ:
(6) a.* The singing the song
b.* Beautiful singing the song
c. Singing the song beautifully
d. Quickly cooking the dinner
e. Having cooked the dinner
f. Being able to cook dinner
g. Not revealing the secret.
Ở ví dụ (6) trừ hai ngữ đoạn (a)* và (b)*, 5 ngữ đoạn còn lại đều là danh
từ không hoàn chỉnh (imperfect nominals). Do đó, danh từ không hoàn chỉnh
có thể đứng bên ngoài vị trí danh ngữ, nhưng cấu trúc bên trong của nó có sự
tương đồng với cấu trúc của cụm động từ (verbal phrase) hoặc chủ ngữ mà nó
phái sinh. Và đây là nguyên do tại sao Vendler gọi chúng là imperfect, vì thế
chúng ta có thể dùng tên gọi của hai loại danh từ này để gọi tên cho những
danh từ tương ứng và cho những danh ngữ có chứa loại danh từ trên.
Năm 1987, Abney đã trình bày đánh giá chi tiết về cú pháp của vị danh từ
(động danh từ) - (gerund), và đây là một phần của lớp danh từ hoàn chỉnh và
không hoàn chỉnh. Ông chia vị danh từ thành 4 loại:
1. Acc-ing: John being a spy (việc John sẽ trở thành điệp viên)
2. Pro-ing: singing loudly (việc hát to)
3. Poss-ing: John’s knowing the answer (việc John biết trả lời câu hỏi)
4. Ing-of: singing of the song (việc hát một bài hát).
Tên gọi của 4 loại vị danh từ trên xuất phát từ chủ ngữ. Trường hợp thứ
nhất chủ ngữ là đối cách (accusative case), trường hợp thứ hai vị danh từ
không có một chủ ngữ rõ ràng, cụ thể và trường hợp thứ ba chủ ngữ có chứa
sở hữu cách (possessive), trường hợp này còn được gọi là cụm danh động từ



8

(NGP), còn trường hợp cuối cùng với cái tên gọi là “ing-of” chính là dựa vào
hình thức của nó.
Theo Vendler, danh từ hoàn chỉnh (perfect nominals) bao gồm cấu trúc
ing-of và loại danh từ phái sinh (derived nominal) chẳng hạn như “the
destruction of the city” (việc phá hủy thành phố), còn danh từ không hoàn
chỉnh (imperfect nominals) bao gồm cả 3 loại còn lại (Poss-ing, Pro-ing, Accing).
Grimshaw (1990), trong các công trình nghiên cứu của mình, đã đưa
ra một trọng tâm mới trong nghiên cứu về danh từ được chuyển hóa (danh từ
phái sinh). Grimshaw đã chỉ ra rằng danh từ phái sinh không tạo thành một
lớp đồng nhất. Trên thực tế, chúng có thể được chia thành ba lớp chính mà bà
gọi là ‘danh từ sự kiện phức tạp’, ‘danh từ sự kiện đơn giản’ và ‘danh từ kết
quả’. Chỉ có lớp ‘danh từ sự kiện phức tạp’ bắt buộc phải có kết cấu tham tố
(Argument Structure/AS), trong khi hai lớp còn lại thiếu kết cấu tham tố. Ví
dụ sau đây cho chúng ta thấy sự tương ứng ở giữa danh từ có kết cấu tham tố
(AS) và danh từ tham chiếu (Referential nominals/ R):
Danh từ có kết cấu tham tố (Argument Structure)
(7)

a. the instructor’s (intentional) examination of the student
(bài kiểm tra (có chủ định) dành cho sinh viên của trợ giáo)
b. the frequent collection of mushroom (by students)
(việc hái nấm thường xuyên (bởi sinh viên)
c.

the monitoring of wild flowers to document their

disappearance

(sự theo dõi hoa dại để minh chứng sự biến mất của chúng)
d. the destruction of Rome in a day
(sự phá hủy thành Rome trong một ngày)
Danh từ tham chiếu (Referential nominals)
(8)
viên)

a. the instructor’s examination/exam (bài kiểm tra của giáo


9

b. John’s collections (bộ sưu tập của John)
c. these frequent destructions (sự phá hủy thường xuyên)
Ravelli [148, tr. 141], trong một nghiên cứu liên quan đến phương thức
danh hóa, đã đề xuất hai phương thức có thể được sử dụng trong việc phân
tích việc thực hiện ẩn dụ của các quá trình như những danh từ được phái sinh
từ động từ, đó là sự phái sinh (derivation) và mối quan hệ đồng nguyên/cùng
gốc (agnation). Việc phái sinh từ là công cụ chủ yếu để biến diễn hình thành
tham thể được biểu thị bằng những danh từ có đặc tính động từ. Ông sử dụng
các bên đồng nguyên để biểu thị mối quan hệ giữa một cấu trúc danh hóa và
từ tương ứng không mang tính danh từ.
Ví dụ: his arrival – he arrived
Việc sử dụng mối quan hệ đồng nguyên trong phân tích ẩn dụ của hiện
tượng danh hóa cho phép chúng ta hiểu đầy đủ ý nghĩa của biểu thức ẩn dụ
của quá trình bằng cách so sánh nó với các hình thức quan hệ tương ứng với
việc thực hiện đồng dạng của nó, vì vậy, mỗi phương thức danh hóa động từ
có thể được liên quan đến một quan hệ đồng nguyên.
Trong công trình nghiên cứu của Banks [86, tr.129], ông đã đưa ra lập
luận rằng có một số lựa chọn có sẵn trong một ngôn ngữ tạo ra các hình thức

danh hóa của các quá trình, mặc dù không phải tất cả các lựa chọn có sẵn
trong một ngôn ngữ là có hiệu lực cần thiết cho một động từ đồng nguyên vì:
1) Danh hóa là hình thái đồng nhất với động từ đồng nguyên (agnate
verb) (ví dụ: haul [(v): lôi ,kéo; (n): sự lôi/kéo mạnh], estimate [(v): đánh giá,
ước lượng; (n): sự đánh giá, sự ước lượng, change [(v) thay đổi;(n): sự thay
đổi ...)
2) Danh hóa không có động từ đồng nguyên, nhưng nó biểu thị một
quá trình (ví dụ: trend [(v): có xu hướng, hướng về; (n): phương hướng, xu
hướng], occasion. [(v): gây ra, là nguyên nhân ..; (n) cơ hội, thời điểm, lý
do...)


10

3) Danh hóa có một động từ đồng nguyên nhưng không đồng nhất về
hình thái, ví dụ: growth (sự phát triển), preference (sở thích), reading (đọc)...
Năm 1985, trong công trình nghiên cứu theo khuynh hướng ngữ pháp
chức năng, lần đầu tiên, M. Halliday đã nêu ra khái niệm ẩn dụ ngữ pháp như
là kết quả của phương thức danh hóa trong tác phẩm An introduction to
functional grammar và khái niệm ẩn dụ ngữ pháp này được một số nhà ngữ
học thuộc trường phái Ngữ pháp chức năng sau này phát triển thêm.
Theo cách nhìn của các tác giả thuộc phái ngữ pháp chức năng, cách
biểu hiện tiêu biểu và tự nhiên trong ngôn ngữ là thực thể (entity) được mã
hóa bằng danh từ, tính chất (quality) bằng tính từ và quá trình (process) bằng
động từ. Tuy nhiên, danh từ hoàn toàn có thể được dùng để diễn tả tính chất
hoặc quá trình và đó là phép ẩn dụ ngữ pháp [Halliday,114, tr. 321-329;
Taverniers,157, tr. 20]. Đây chính là phương thức danh hóa mà các nhà ngôn
ngữ học khác đã đề cập.
Khi bàn về danh hóa trong mệnh đề, M.Halliday cho rằng bất kỳ quá
trình nào trong một tiểu cú cũng gồm có ba yếu tố: (i) bản thân quá trình

đó,(ii) các tham tố (participant) trong quá trình, (iii) các chu cảnh
(circumstance) có liên quan đến quá trình [114, tr.101-102].
Ngoài ra, còn một số tác giả khác như Lees, V.Adams, J.yoon, R.Quirk
cũng đã đưa ra một số quan điểm riêng của mình về phương thức danh hóa.
Thời gian gần đây tác giả Liesbet Heyvaert đã bình luận về tư tưởng của một
số nhà ngôn ngữ học đối với phương thức danh hóa, đồng thời làm sáng tỏ
một số vấn đề có liên quan khác [115].
0.3.2. Tình hình nghiên cứu phương thức danh hóa trong tiếng Việt
Phương thức danh hoá được các nhà Việt ngữ học chú ý khi nghiên cứu
ngôn ngữ trên các bình diện cú pháp, ngữ nghĩa, chức năng và đặc biệt là
trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy.
Trong tiếng Việt, hầu như các nhà Việt ngữ học đều nhận thấy sự tồn tại
của phương thức danh hoá. Tác giả Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Người ta


11

dùng phép biến đổi khác nhau để tạo ra những loại câu phức hợp, câu nghi
vấn, câu phủ định, câu mệnh lệnh, câu bị động hoặc chuyển về danh ngữ, tức
là phép danh ngữ hóa (nominalization) [16, tr. 74].
Phương thức danh hóa cũng đã được chú ý nhưng nhìn chung quan niệm
của các nhà Việt ngữ học vẫn chưa thống nhất. Theo Phan Khôi [37, tr.151]:
“Khi muốn có một danh từ chỉ về động tác, trạng thái phải mượn động từ hay
hình dung từ và đặt lên trên đó chữ “cái (đẹp)” hay “ sự (học)” chẳng hạn.
Ông còn cho rằng những cách nói như cái chết, cuộc đi chơi… là nói theo lối
Pháp. Nguyễn văn Tu [73, tr. 131-132] khi bàn về mối quan hệ về nghĩa của
từ khi chuyển loại có đưa ra 2 ví dụ về danh hoá như một phần của chuyển
loại; Hồ Lê [40, tr. 337-340] thì miêu tả từ ghép chính phụ là danh từ, ông đã
đưa một vài ví dụ là sản phẩm các tổ hợp của cái, nỗi, sự với động từ, tính từ
song hoàn toàn không nhằm mục đích minh hoạ cho phương thức danh hoá;

Đái xuân Ninh [47, tr.102] đã dẫn những tổ hợp định danh như: cái đẹp, cái
hay, nỗi lo, sự lãnh đạo nhằm minh chứng cho phương pháp phái sinh từ
vựng để biểu thị những khái niệm trừu tượng, bằng cách kết hợp động từ, tính
từ với những hình vị nhánh. Kết quả của phương thức danh hóa được dùng để
thể hiện một phương thức cấu tạo từ chứ không được mô tả.
Đỗ hữu Châu [12, tr.118-119] cũng đã đưa ra một số từ như, sự, việc, cuộc,
nỗi, niềm, cơn, trận nhưng không phải để mô tả chúng trong vai trò làm công
cụ danh hoá động từ, tính từ mà là để làm sáng tỏ khái niệm từ hư – từ loại.
Bùi Đức Tịnh cho rằng [69, tr.61]: “Loại từ thường được đặt trước những
tính từ và động từ để biến thành danh từ: sự chăm chỉ, vẻ đẹp, tính cần cù;
nỗi nhớ thương, sự phát triển, việc đo lường”. Nguyễn tài Cẩn [7], Diệp
quang Ban [5] đều có đề cập đến một vài sản phẩm của phương thức danh hoá
nhưng chỉ dùng chúng như những ví dụ miêu tả một tiểu loại trong từ loại
danh từ; Đinh văn Đức [22, tr.46] khẳng định trong tiếng Việt “mỗi động từ,
tính từ có khả năng có một danh từ tương ứng bằng cách kết hợp với yếu tố
ngữ pháp chuyên dùng” song ông cũng không mô tả, khảo sát phương thức


12

này. Trong các công trình nghiên cứu về từ, cấu tạo từ, từ loại tiếng Việt của
Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Phú Phong, Nguyễn Kim
Thản,.. cũng như các nghiên cứu về loại từ tiếng Việt của Lý Toàn Thắng, Hà
Quang Năng, Lưu Vân Lăng, Cao Xuân Hạo…một số cấu trúc- ngữ nghĩa kết
quả của phương thức danh hóa cũng được đưa ra nhưng cũng không được đi
sâu mô tả. Nhiều nhà Việt ngữ học xếp các yếu tố ngữ pháp chuyên dùng (để
danh hóa) vào nhóm các từ chỉ đơn vị hay loại từ hành động nên các công
trình nghiên cứu về loại từ, từ chỉ đơn vị cũng có nhắc đến những yếu tố này
song cũng chỉ dừng lại ở mức đề cập mà không mô tả. Ngoài ra Nguyễn Thị
Thuận [66], đã khái quát hóa phương thức danh hóa, nêu lên được các yếu tố

danh hóa và ngữ nghĩa của các yếu tố đó khi kết hợp với động từ hoặc tính từ
cũng như mệnh đề trong tiếng Việt hiện đại. Nguyễn Văn Vui và Phan Văn
Hòa có hai bài báo đề cập đến danh hóa: Chức năng văn bản của danh hóa
trong báo chí Anh –Việt từ cách nhìn của ngữ pháp chức năng [74]; Phương
thức hoạt động của danh hóa như một công cụ ẩn dụ ngữ pháp trong tiếng
Anh và tiếng Việt theo quan điểm ngữ pháp chức năng [33].
Luận án này tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về phương thức cũng như là ngữ
nghĩa của các yếu tố danh hóa, khảo sát dữ liệu để làm rõ hơn cách sử dụng,
những điểm tương đồng và dị biệt về mặt ngữ nghĩa của một vài yếu tố danh
hóa khi thay thế cho nhau trong cùng ngữ cảnh. Nhiệm vụ chính của luận án
chủ yếu đi sâu vào so sánh đối chiếu phương thức danh hóa giữa tiếng Anh và
tiếng Việt ở cấp độ từ (danh hóa động từ, tính từ) và trên từ (danh hóa mệnh
đề).
Luận án chỉ ra phạm vi khả năng danh hoá của mỗi yếu tố danh hoá cũng
như sự khác biệt ý nghĩa giữa các yếu tố trong nội bộ nhóm, và đưa ra những
tiêu chí giúp cho người học có thể sử dụng chính xác yếu tố danh hoá và hiểu
thấu đáo hơn cũng như có thể tạo ra những tổ hợp danh từ thể hiện những sắc
thái ý nghĩa khác nhau. Kết quả của luận án có thể góp phần làm cho người


13

nước ngoài học tiếng Việt hiểu rõ những đặc điểm ngữ nghĩa khác nhau của
các biện pháp danh hoá, để có thể diễn đạt phong phú hơn, sinh động hơn.
Tóm lại, trong tiếng Anh, phương thức danh hóa được nghiên cứu
nhiều ở hai cấp độ: danh hoá từ vựng (danh hoá động từ, tính từ), và danh hoá
cú pháp (danh hoá mệnh đề). Các nghiên cứu này có thể xuất phát từ việc
miêu tả, lý giải hiện tượng danh hoá về cấu trúc cú pháp, về bình diện ngữ
nghĩa, ngữ dụng hay trên các quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận. Tuy nhiên
tiêu chí phân loại danh hóa trong tiếng Anh cũng chưa thật rõ ràng và đôi khi

thiếu nhất quán, có những trường hợp thuộc lĩnh vực hình thái học nhưng lại
pha trộn ngữ nghĩa học và ngược lại, nên người học tiếng Anh cũng gặp khó
khăn khi xác định khi nào, trường hợp nào, mới thật sự là phương thức danh
hóa danh hóa.
Đồng thời, các nhà ngữ học thừa nhận sự tồn tại của phương thức danh
hoá trong tiếng Anh và tiếng Việt và thừa nhận tính danh từ của tổ hợp: yếu
tố danh hóa + động từ/ tính từ/ mệnh đề.Tuy nhiên họ vẫn chưa thống nhất về
quan niệm: xem tổ hợp này là từ, danh ngữ, là một cấu trúc danh tính, hay
một cấu trúc ngữ pháp gồm một danh từ khái quát + động từ/ tính từ, cũng
như chưa có quan niệm thống nhất về khái niệm danh hoá, chưa có tiêu chí
phân biệt phương thức này này với các phương thức có cấu trúc gần nó. Riêng
các nhà Việt ngữ học chưa mô tả một cách có hệ thống phương thức danh hóa
trên các phương diện cấu trúc, ngữ nghĩa, dụng học hay tri nhận.
0.4 Phương pháp nghiên cứu, nguồn ngữ liệu
Để đạt được các nhiệm vụ đề ra ở trên, luận án sẽ sử dụng những phương
pháp nghiên cứu sau:
-

Phương pháp miêu tả, phân tích
Phương pháp này được sử dụng để miêu tả, phân tích các phương thức

danh hóa và ngữ nghĩa- kết quả của phương thức danh hóa – của hai ngôn
ngữ Anh, Việt, rút ra những nhận xét chung về đặc trưng loại hình của
phương thức danh hóa trong hai ngôn ngữ.


14

Thủ pháp thống kê
Thủ pháp này sử dụng để thống kê tần số, tần suất sử dụng các yếu tố danh

hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt. Trong luận án. Chúng tôi thống kê thủ
công để khảo sát tần số xuất hiện của các yếu tố danh hóa động từ trong tiếng
Anh lẫn tiếng Việt (vì danh hóa động từ là phương thức danh hóa phổ biến
nhất so với danh hóa tính từ và danh hóa mệnh đề), cụ thể là khảo sát 6 truyện
tiếng Anh và tiếng Việt. Kết quả thống kê được tổng hợp thành bảng biểu,
nhằm cho thấy yếu tố danh hóa nào xuất hiện nhiều nhất trong hai ngôn ngữ,
từ đó cho phép chúng ta đánh giá đại lượng đã thu được từ góc độ ngẫu nhiên
hay có tính quy luật, xác định các đặc trưng cơ bản của phương thức danh hóa
và ngữ nghĩa của các tổ hợp danh hóa trong hai ngôn ngữ Anh và Việt.
Ngoài ra, chúng tôi cũng khảo sát số lượng sinh viên tham gia các bài tập
về hiện tượng danh hóa (ở phần phụ lục của luận án), số sinh viên làm đúng
các bài tập được thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm, từ kết quả trên, luận án cũng
đưa ra một số khuyến nghị cho việc dạy và học tiếng Anh như một ngoại ngữ
có liên quan đến hiện tượng danh hóa.
Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp này được sử dụng để so sánh, đối chiếu phương thức và
ngữ nghĩa của hiện tượng danh hóa trong hai ngôn ngữ, từ đó rút ra những đặc
trưng, đặc thù có tính loại hình của phương thức này trong hai ngôn ngữ nói
trên.
Nguồn ngữ liệu
Chúng tôi sẽ phân tích khảo sát ngữ liệu trong các tác phẩm văn học tiếng
Anh và tiếng Việt, tác phẩm được chọn ngẫu nhiên và những tác phẩm này
cũng tiêu biểu cho các thời kỳ, giai đoạn khác nhau của văn học, bao gồm các
tác phẩm sau:
1. Andrew X.pham (2007) (dịch giả), Last night I dreamed of peace
(Bản dịch của quyển: Nhật ký Đặng Thùy Trâm), NXB Rider, UK.


15


2. Charles Dickens (tác giả) (1839), Phan Ngọc (dịch giả) Oliver
Twist, quyển 1, NXB Chapman & Hall,UK.
3. Charles Dickens (tác giả) (1839), Phan Ngọc (dịch giả) Oliver
Twist, quyển 2.
4. Charlotte Bronte (2012), The professor, NXB HarperCollins,
London.
5. Emily Jan Bronte,(tác giả) (1847), Dương Tường (dịch giả), The
Wuthering Heights (Đồi gió hú), NXB Thomas Cauley Newby,UK.
6. Elizabeth Laird (2006), Red sky in the morning, Nxb William
Heinemann Limited, London.
7. Jonathan Swift (1926), Gulliver’s Travels, Nxb Benjamin Motte,
UK.
8. Đặng Thùy Trâm (2015), Nhật ký Đặng Thùy Trâm, NXB Hội Nhà
Văn.
9. Lê Lựu, (2006), Chuyện làng Cuội, NXB Văn Học.
10. Lưu Trọng Lư, (1988), Khói lam chiều, NXB Văn học.
11. Margaret Mitchel (tác giả), Dương Tường (dịch giả), (1987), Gone
with the wind (Cuốn theo chiều gió), NXB Hà Nội.
12. Khái Hưng, (2011) Nửa chừng xuân, NXB Dân Trí.
13. Ngô Tất Tố, (2012), Lều chõng, NXB Văn học.
14. Nguyễn Ngọc Tư, (2012), Sông, Nhà xuất bản Trẻ.
15. Nguyễn Huy Thiệp, (2001), Mưa Nhã Nam, NXB văn Học, Hà
Nội.
16. Hoàng Đình Quang, (2006), Cánh đồng lưu lạc, NXB Văn Hóa Sài
Gòn.
17. Vũ Trọng Phụng, (2010), Số đỏ, Nhà xuất bản văn hóa thông tin.
18. Trần Xuân Ngà, (2004), Truyện trăm năm, NXB Văn hóa dân tộc.


16


Ngoài ra, luận án cũng có dẫn các ngữ liệu được lấy từ một số báo,
tạp chí, Internet hoặc những câu nói thường gặp trong cuộc sống hàng
ngày.
0.5. Ý nghĩa của luận án
0.5.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học vì các kết quả nghiên cứu
của công trình có thể góp phần bổ sung, hoàn thiện, hệ thống hóa phương
thức và ngữ nghĩa của hiện tượng danh hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt, qua
đó đưa ra một bức tranh có tính so sánh đối chiếu những nét tương đồng và
khác biệt có tính loại hình của phương thức này trong hai ngôn ngữ nói trên.
0.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu của công trình là tài liệu tham khảo hữu ích
cho các nhà nghiên cứu, các nhà sư phạm, các học viên khi gặp hiện tượng
danh ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt, đồng thời có thể vận dụng các tri
thức, các tài liệu từ công trình này trong việc dịch thuật, soạn thảo văn bản có
chứa phương thức danh hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt
0.6 Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án bao gồm bốn chương, như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận.
Chương này trình bày các vấn đề lý thuyết cơ sở, có liên quan đến đề tài
luận án như vấn đề cấu tạo từ và cấu tạo hình thái, vấn đề chuyển loại từ, vấn
đề danh hóa, vấn đề từ loại và tiêu chí phân định từ loại, …
Chương 2: So sánh đối chiếu phương thức danh hoá động từ trong tiếng
Anh và tiếng Việt
Trong chương này, luận án trình bày phương thức danh hóa và ngữ nghĩa
của các danh ngữ - kết quả của việc danh hóa động từ trong tiếng Anh và
tiếng Việt, từ đó rút ra những điểm tương đồng và khác biệt về phương thức
danh hóa trong hai ngôn ngữ nói trên.



17

Chương 3: So sánh đối chiếu phương thức danh hoá tính từ trong tiếng
Anh và tiếng Việt
Trong chương Ba, luận án tập trung vào trình bày phương thức danh hóa
tính từ và ngữ nghĩa, cấu trúc của các tổ hợp danh hóa tính từ giữa hai ngôn
ngữ Anh, Việt, và trên cơ sở đó đưa ra những điểm tương đồng và khác biệt
của phương thức danh hóa tính từ trong hai ngôn ngữ nêu trên.
Chương 4: So sánh đối chiếu phương thức danh hoá mệnh đề trong tiếng
Anh và tiếng Việt
Cũng giống như cấu trúc của chương hai và ba, trong chương bốn chúng
tôi cũng tiến hành so sánh đối chiếu phương thức danh hóa cũng như ngữ
nghĩa của các tổ hợp danh hóa mệnh đề của hai ngôn ngữ. Từ đó chúng tôi
đưa ra những điểm tương đồng và khác biệt về phương thức danh hóa mệnh
đề trong hai ngôn ngữ nói trên.
Ngoài ra luận án có thư mục tài liệu tham khảo gồm tài liệu bằng tiếng
Việt, tiếng Anh và phần phụ lục về việc ứng dụng kết quả nghiên cứu đối với
việc sử dụng phương thức danh hóa của người Việt học tiếng Anh.


18

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái quát về danh từ, danh ngữ, động từ, tính từ, mệnh đề trong
tiếng Anh và tiếng Việt
1.1.1 Khái quát về danh từ, danh ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt
1.1.1.1 Khái quát về danh từ trong tiếng Anh và tiếng Việt
“Danh từ là từ loại quan trọng bậc nhất trong số các từ của một ngôn

ngữ nói chung và của tiếng việt nói riêng. Danh từ có một số lượng rất lớn
trong vốn từ vựng và có một chất lượng hết sức quan trọng trong cơ cấu ngữ
pháp” [Đinh văn Đức,22, tr.454]
Về mặt ý nghĩa, danh từ là những từ có ý nghĩa khái quát chỉ sự vật và
các khái niệm trừu tượng. Về mặt ngữ pháp, danh từ là những từ có khả năng
đứng giữa và kết hợp hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp với số từ (hay những phụ
từ chỉ lượng - những, các, mọi, mỗi, mấy; hay những đại từ chỉ lượng - bao
nhiêu, bấy nhiêu,...) và với từ chỉ định (này, kia, ấy, đó, nọ,...) để tạo ra cấu
trúc danh ngữ [40, tr. 37].
Có nhiều quan niệm khác nhau về danh từ và cho đến nay vẫn chưa có
được một định nghĩa danh từ nào có khả năng tổng hợp đầy đủ mọi đặc điểm
của danh từ trong các ngôn ngữ. Nhìn chung có thể khái quát các kiểu định
nghĩa danh từ thành ba hướng chính như sau:
1. Ngữ pháp truyền thống thường dựa vào nghĩa để tách danh từ ra
khỏi những từ loại khác với định nghĩa kiểu danh từ là từ gọi tên người, nơi
chốn hay sự vật.
2. Ngữ pháp cấu trúc luận cũng như ngữ pháp tạo sinh dựa vào tiêu chí
hình thức để nêu những đặc trưng của danh từ. Theo các nhà ngôn ngữ này
danh từ là lớp từ có khả năng kết hợp với yếu tố chỉ lượng, kết hợp với mạo
từ, có khả năng đảm nhận vị trí trung tâm trong cấu trúc danh ngữ.


×