TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN
******
LA THỊ CÔNG
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 11, PHẦN “CÔNG
DÂN VỚI CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI” Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LÝ TỬ TẤN – HÀ NỘI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: GIÁO DỤC CÔNG DÂN
HÀ NỘI, 2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN
******
LA THỊ CÔNG
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 11, PHẦN “CÔNG
DÂN VỚI CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI” Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LÝ TỬ TẤN – HÀ NỘI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM VĂN HÙNG
HÀ NỘI, 2016
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên,em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo khoa Lý luận
chính trị - giáo dục công dân trường Đại học sư phạm Hà Nội, quý thầy cô đã
chỉ bảo, dạy dỗ và truyền đạt kiến thức cho em trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Phạm Văn Hùng
đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn cho em trong suốt quá trình hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và những người thân đã tạo điều
kiện, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Sinh viên
La Thị Công
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
GV
GDCD
HS
PPDH
PP
THPT
Viết đầy đủ
Giáo viên
Giáo dục công dân
Học sinh
Phương pháp dạy học
Phương pháp
Trung học phổ thông
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Môn GDCD ở trường phổ thông giữ vị trí và nhiệm vụ quan trọng trong
việc đào tạo thế hệ trẻ. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy rằng HS phổ thông rất
ít chú ý đến môn học này. Đó là do quan niệm chưa đúng về bộ môn GDCD –
môn phụ trong giáo dục ở các trường phổ thông. Tuy nhiên nguyên nhân quan
trọng phải thừa nhận là do chất lượng giảng dạy của chính những những giáo
viên dạy GDCD hiện nay. Hoạt động giảng dạy vẫn theo hướng vai trò trung
tâm, chủ đạo thuộc về giáo viên, còn HS chủ yếu vẫn thụ động, phụ thuộc vào
giáo viên trong quá trình học tập và tiếp nhận tri thức. Điều này đã làm giảm
đáng kể chất lượng dạy học. Cần tạo môi trường để HS tích cực tranh luận
đưa ra quan điểm của mình, từ đó xác định, điều chỉnh lại cho phù hợp, để
biến những kiến thức thành niềm tin, thành tri thức của mình.
Luật giáo dục năm 2005( sửa đổi, bổ sung năm 2009) tại khoản 2 điều 28
đã nêu rõ: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho HS”.
Bước vào thế kỉ XXI, Việt Nam cần và nên có những con người: vừa lao động
trí lực và thể lực, có kỷ luật, có khoa học, có năng xuất cao, vừa là con người có văn
hóa rộng rãi, không chỉ thấm nhuần văn hóa truyền thống của dân tộc mình, mà còn
biết trân trọng, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của dân tộc khác.
Để đào tạo những con người hội tụ cơ bản những phẩm chất trên đây,
yếu tố quyết định là giáo dục. Ở nhà trường phổ thông, cùng với các môn học
khác, bộ môn GDCD có khả năng và sở trường trong việc giáo dục thế hệ trẻ Sự
nghiệp giáo dục đào tạo có nhiệm vụ quan trọng, đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam trở
thành những con người phát triển toàn diện về các mặt “đức, trí, thể, mỹ”.
1
Thực tiễn dạy học môn GDCD ở trường THPT chưa hoàn thành được vị
trí, nhiệm vụ và chức năng của mình, chất lượng dạy học bị giảm sút. Yêu cầu
bức thiết lúc này là phải đổi mới bộ môn trên các phương diện: Nhận thức,
nội dung và phương pháp dạy học.
Có thể nói, định hướng chung của việc đổi mới PP dạy học là tăng cường
vai trò chủ động, tích cực, tự lực và sáng tạo của HS trong quá trình dạy học,
khắc phục tình trạng dạy học thầy thuyết trình, trò thụ động nghe, ghi chép.
Trong dạy học phát huy tính tích cực nhận thức cho HS là rất cần thiết, đó
chính là việc HS hoàn thành công việc một cách chủ động, tự giác, có nghị
lực, có hướng đích rõ rệt, nhằm nắm vững kiến thức, hình thành kỹ năng và kĩ
xảo để vận dụng những nội dung tri thức đã học vào thực tiễn
Từ những lí do nêu trên, tôi đã chọn vấn đề : Phát huy tính tích cực học
tập của HS trong dạy học môn GDCD lớp 11, phần “Công dân với các vấn đề
chính trị xã hội” ở trường THPT Lý Tử Tấn - Hà Nội, làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2.
Lịch sử nghiên cứu
Việc phát huy tính tích cực của người học trong quá trình dạy học
từ lâu đã được những nhà giáo dục coi là một trong những điều kiện cơ
bản nhất để đạt kết quả trong quá trình dạy học. Ngay từ thời cổ đại,
các nhà giáo dục đã chú ý đến việc tìm tòi các biện pháp để phát huy
tính tích cực nhận thức của người học. Socrate (469-399 TCN) là một
triết gia và cũng là một nhà giáo dục nổi tiếng. Phương pháp nổi bật
của ông trong giáo dục là dùng đàm thoại để tiến hành giáo dục. Ông
thường đặt câu hỏi để môn đệ phải tìm tòi, suy nghĩ trả lời, thấy được
cái sai, cái đúng. Khổng Tử (551 - 479 TCN) cũng cho rằng trong
giảng dạy người thầy chỉ “gợi lên một mối”, rồi để cho người học tự
mình suy nghĩ mà hiểu điều đó. Phương pháp này đã tạo điều kiện cho
người học phát huy khả năng suy luận và năng lực phát hiện, lý giải
vấn đề, phát huy tính tích cực nhận thức của mình.
2
Từ đầu thế kỷ XX đến nay, việc dạy học tích cực được đề cập đến
khá rầm rộ dưới nhiều thuật ngữ khác nhau như “dạy học lấy HS làm
trung tâm”, “dạy học hướng vào người học”, “dạy học tập trung vào
người học”, “PP dạy học tích cực”, “tư tưởng dạy học tích cực”… Từ
đó “phương pháp tích cực” được sử dụng một cách phổ biến ở châu Âu.
Cùng với xu thế trên của thế giới, ở Việt Nam việc dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực người học được nhấn mạnh trong đường lối giáo
dục của Đảng, Nhà nước. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII của
Đảng đã khẳng định “phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học”.
Để phát triển tư duy logic, tư duy biện chứng cho học sinh, cuốn
“Phát triển tư duy học sinh” (M.Aleecxeep chủ biên, 1976) đã đề cập
tới các phương pháp học tập như tổ chức học sinh đàm thoại tích cực,
sử dụng bảng phân loại hay sử dụng đồ dùng trực quan, sử dụng phim
ảnh. Tác giả nêu ra ý nghĩa của biện pháp này là giúp ghi nhớ kiến thức
một cách dễ dàng và phát triển khả năng tư duy, sự liên tưởng và rèn
luyện kỹ năng học tập cho học sinh.[1]
I.F Kharlamôp, nhà giáo dục Liên Xô, trong cuốn “Phát huy tính
tích cực của học sinh như thế nào”, đã chú ý đến tác dụng của việc phát
triển tư duy học tập của HS qua dạy học “nêu vấn đề”. Trong phương
pháp dạy học nêu vấn đề tác giả nêu ra rất nhiều biện pháp logic để giải
quyết nhiệm vụ nhận thức, thông qua các biện pháp đó mà tích cực hóa
hoạt động học tập của HS. Đồng thời ông cho rằng để giờ học đạt chất
lượng cao, nhiệm vụ trọng tâm là việc phát huy tính tích cực học tập
của học sinh.[22]
Tác giả Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Duy Nhiên (Nhà xuất bản Giáo
dục, 2009) với: “Dạy và học môn GDCD ở trường THPT những vấn đề
lí luận và thực tiễn”, các tác giả đi sâu vào khai thác những vấn đề
mang tính lí luận và thực tiễn của môn GDCD, từ đó tập trung đề ra các
3
3.
giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy, hướng dẫn học sinh tự học
môn GDCD đề từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả môn học.[8]
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt – Viện khoa học giáo dục trong cuốn
“Giáo dục học” tập I đã nhấn mạnh: Trong dạy học nhất định phải gắn
tri thức học sinh đã học với thực tiễn bằng những hoạt động cụ thể, có
như vậy mới đảm bảo tính nguyên tắc thống nhất giữa lí luận với thực
tiễn, một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học.[27]
Đinh Văn Đức, Dương Thị Thúy Nga, trong cuốn “Phương pháp
dạy học môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông” cho
rằng: “Có thể nói, định hướng chung của việc đổi mới phương pháp
dạy học là tăng cường vai trò chủ động, tích cực, tự lực và sáng tạo của
học sinh trong quá trình dạy học, khắc phục tình trạng dạy học thầy
thuyết trình, trò thụ động nghe, ghi chép”. [11]
Các nhà giáo dục học Việt Nam như Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt,
trong cuốn “Giáo dục học” đã nêu lên những phẩm chất quan trọng của
hoạt động nhận thức đó là: tính tự giác, tính tích cực, tính độc lập và tác
dụng của chúng đối với kết quả học tập của học sinh.
Những công trình nghiên cứu trên là những gợi mở quý báu về
mặt lí luận giúp tôi tìm được hướng giải quyết các nhiệm vụ của khóa
luận. Phát huy tính tích cực học tập của học sinh - vấn đề này đặc biệt
quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học ngày nay nói
chung và dạy học môn GDCD nói riêng.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở khoa học của vấn đề phát huy tính tích cực trong học tập
của học sinh qua đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc
phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học môn giáo dục công
dân lớp 11, phần “Công dân với các vấn đề chính trị xã hội” ở trường THPT
Lý Tử Tấn - Hà Nội.
4
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lí luận về việc phát huy tính tích cực trong học tập của HS
Điều tra, tìm hiểu thực tiễn dạy học GDCD ở trường THPT nói chung
và trường THPT Lý Tử Tấn nói riêng.
Đề xuất những biện pháp nhằm phát huy tính tích cực trong học tập của
HS trong dạy học môn GDCD ở trường THPT Lý Tử Tấn.
5.
Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu thực trạng phát huy tính tích
cực học tập môn giáo dục công dân và một số yếu tố ảnh hưởng đến
tính tích cực học tập của học sinh.
6.
Phương pháp nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu của khóa luận dựa trên phương pháp luận khoa học
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời kết
hợp các phương pháp: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp
quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp thống kê, phương pháp
phỏng vấn, phương pháp tập hợp và xử lý tài liệu.
7.
Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 2 chương:
Chương I: Cơ sở khoa học của việc phát huy tính tích cực học tập của
học sinh trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 11, phần “Công dân
với các vấn đề chính trị xã hội”.
Chương II: Một số biện pháp phát huy tính tích cực học tập của học
sinh trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 11, phần “công dân với
các vấn đề chính trị xã hội” ở trường THPT Lý Tử Tấn – Hà Nội.
PHẦN NỘI DUNG
5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÍCH
CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN LỚP 11, PHẦN “CÔNG DÂN VỚI CÁC VẤN ĐỀ
CHÍNH TRỊ XÃ HỘI”.
1.1. Cơ sở lí luận của việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 11, phần “Công dân
với các vấn đề chính trị xã hội”.
1.1.1. Quan niệm tính tích cực và phát huy tính tích cực học tập của học
sinh
Quan niệm về tính tích cực
Trong học tập, hoạt động nhận thức của HS đi từ nhận thức cảm tính đến
nhận thức lí tính và trở về với thực tiễn. Quá trình này chỉ được hình thành
khi HS có những phẩm chất: Tự giác, tích cực, độc lập nhận thức dưới sự điều
khiển của thầy giáo. Từ thái độ tự giác nhận thức, mới phát triển ý thức tích
cực nhận thức của HS, chỉ có tích cực nhận thức HS mới có sự độc lập, sáng
tạo trong nhận thức. Như vậy, tích cực nhận thức là yếu tố trung gian, quan
trọng trong hoạt động nhận thức của học sinh, khái niệm đó được hiểu như thế
nào?
Theo từ điển tiếng Việt [ Viện ngôn ngữ học, 1999], tích cực nghĩa là có
ý nghĩa, có tác dụng khẳng định, thúc đẩy sự phát triển. Người tích cực là
người tỏ ra chủ động, có những hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng
phát triển.
Khái niệm tính tích cực ở mỗi lĩnh vực khoa học lại có nhiều nét riêng:
Lĩnh vực triết học quan niệm “tính tích cực” là ý thức sáng tạo trong hoạt
động tư duy của mỗi con người, để đạt được mục đích của sự nhận thức. Vì
vậy theo Mác “ nghiên cứu tính tích cực phải xuất phát từ chính chủ thể hiện
thực, và làm khách thể hóa của nó trở thành đối tượng xem xét của mình. [27]
Khoa học giáo dục trong nước quan niệm “ tính tích cực” là các hoạt
động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang chủ động,
từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức, để nâng cao
hiệu quả học tập.
6
Theo tác giả Trần Bá Hoành, Lê Tràng Định, Phó Đức Hòa: “ Tính tích
cực hoạt động học tập, về thực chất, là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở
khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh
tri thức”.[20]
Theo một nghĩa khác, tích cực là đem hết khả năng và tâm trí vào việc
làm. Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã
hội. Để tồn tại và phát triển, con người luôn luôn tìm tòi và khám phá, cải
biến. Tuy vậy, tính tích cực có mặt tự phát và tự giác. Mặt tự phát của tính
tích cực là những yếu tố tiềm ẩn bên trong, bẩm sinh, thể hiện tính tò mò, hiếu
kì, linh hoạt trong đời sống hàng ngày. Mặt tự giác của tính tích cực là trạng
thái tâm lí, tính tích cực có mục đích, đối tượng rõ rệt, do đó có hành động để
chiếm lĩnh đối tượng đó. Tính tích cực tự giác thể hiện ở óc quan sát, tính phê
phán trong tư duy, trí tò mò khoa học. Có tính tích cực tự giác, có ý thức, con
người có thể đạt được nhiều tiến bộ trong đời sống và phát triển nhanh hơn so
với tính tích cực tự phát. Vì vậy hình thành và phát triển tính tích cực là một
trong những nhiệm vụ chủ yếu nhằm đào tạo những con người năng động góp
phần phát triển cộng đồng.
Từ những quan niệm trên, có thể hiểu rằng “ tính tích cực” là ý thức, thái
độ hoạt động tích cực của mỗi người trong quá trình nhận thức, nhằm đạt
được hiệu quả cao những mục đích đã đề ra trong hoạt động. Tính tích cực là
cơ sở thuận lợi để phát triển các năng lực khác trong hoạt động nhận thức của
mỗi người.
Quan niệm về tính tích cực học tập của học sinh:
Tính tích cực học tập của HS là sự ý thức tự giác của HS về mục đích
học tập, thông qua đó HS sử dụng ở mức độ cao các chức năng tâm lí
để giải quyết các nhiệm vụ học tập có hiệu quả.
7
Các cấp độ của tính tích cực học tập
Dưới góc độ lí luận dạy học, quá trình phát triển của tính tích cực nhận
thức trải qua các giai đoạn chủ yếu sau:
Thứ nhất là, tính tự giác: Là giai đoạn xác định ý thức, thái độ, tinh thần
trách nhiệm học tập. Nó là cơ sở của tính tích cực học tập của HS.
Thứ hai là, tính tích cực: Có sự kết hợp của nhận thức, tình cảm, ý chí.
Thứ ba là, tính độc lập: Tương đương với tính tích cực sáng tạo. Là giai
đoạn cao nhất của tính tích cực, biểu hiện ở chỗ HS tự mình phát hiện được
vấn đề, tự mình đề xuất được cách giải quyết vấn đề.
Tính tích cực hoạt động học tập, về tính chất là tính tích cực nhận thức,
đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng, trí tuệ và nghị lực cao trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực học tập ở HS THPT đạt cấp độ từ thấp
đến cao như:
Bắt chước: HS cố gắng thực hiện theo các mẫu hoạt động của thầy cô. Nhờ
đó, kinh nghiệm được tích lũy qua kinh nghiệm của người khác. Bắt chước là
tính tích cực ở mức độ thấp. Có thể giáo viên thay đổi một chút dữ liệu là HS
lúng túng không làm được. Nhưng đó lại là tiền đề cơ bản giúp các em HS
nắm được bài giảng để có điều kiện nâng tính tích cực lên mức cao hơn.
Tìm tòi: HS độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm hiểu cách giải quyết khác
nhau về một vấn đề. Ý thức tìm tòi giúp các em say mê tìm ra kiến thức mới,
khai thác kiến thức đã học theo nhiều hướng, kiểm tra lại kiến thức đã học.
Sáng tạo: HS tìm được cách giải quyết mới, các em sẽ tìm được những
kiến thức mới không nhờ vào gợi ý của người khác.
Nhận biết tính tích cực học tập của học sinh dựa vào ba dấu hiệu:
Thứ nhất là dấu hiệu bên ngoài, thể hiện qua thái độ, hành vi và hứng thú
học tập.
8
Thứ hai là dấu hiệu bên trong, như sự căng thẳng trí tuệ, năng lực hoạt
động, sự phát triển của tư duy, cảm xúc, ý chí.
Thứ ba là kết quả học tập – đây là dấu hiệu quan trọng. Chỉ có tích cực học
tập một cách thường xuyên, liên tục, tự giác mới có kết quả học tập tốt.
Phát huy tính tích cực học tập của học sinh
Phát huy tính tích cực
Về ngữ nghĩa, phát huy tính tích cực là tác động làm cho ai đó trở
nên năng động hơn, linh hoạt hơn so với trạng thái trước đây. Trong lí
luận dạy học, phát huy tính tích cực được sử dụng theo nghĩa làm cho tích
cực hơn, so sánh với trì trệ, thụ động.
Vấn đề phát huy tính tích cực được đặt ra từ lâu, được giải thích từ
nhiều lập trường khác nhau, được bàn đến bằng những thuật ngữ khác
nhau: phát huy tính tích cực của học sinh; nâng cao tính tích cực, tự giác,
chủ động của HS; phát huy trí lực của HS; phát huy tính tích cực, sáng
tạo, năng động của người học,… Theo tính chất và chức năng của lý luận
dạy học thì việc xem xét bản chất của phát huy tính tích cực phải được đặt
ra trong một giới hạn nhất định. Vì thế, cần hiểu chính xác phát huy tính
tích cực có nghĩa là làm cho người học sống và làm việc tích cực đến mức
tối đa so với tiềm năng và bản chất của mỗi người, so với những điều kiện
và cơ hội thực tế mà mỗi người có được.
Phát huy tính tích cực học tập của học sinh
Có thể nói tính tích cực là một trong những phẩm chất quan trọng
trong hoạt động nhận thức, mặt chất lượng của nhân cách, là điều kiện cơ
bản giúp HS nắm vững tài liệu học tập, biết hướng sự chú ý, tập trung của
mình vào hoạt động học tập, hình thành nhu cầu nhận thức, sẵn sàng tích
cực hoạt động sức lực và trí tuệ để hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
Con người là một chủ thể có ý thức trong hoạt động xã hội. Sự phát
triển của con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó hoạt động tích
cực của bản thân họ là yếu tố quyết định trực tiếp. Do đó muốn phát triển
con người phải tích cực trong hoạt động của mình, cho dù mọi điều kiện,
hoàn cảnh học tập có thuận lợi đến đâu chăng nữa, nếu không có sự nỗ lực
của bản thân thì sự học tập không thể đạt được kết quả cao. Yếu tố quyết
9
định trực tiếp chất lượng học tập đó là sự nỗ lực, tích cực, cố gắng của
mỗi cá nhân.
Trong việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, việc phát huy
tính tích cực của HS trong học tập là một biện pháp chủ yếu để nâng cao
chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thông. Vấn đề phát huy tính tích
cực học tập của HS có ý nghĩa rất lớn đối với việc dạy học nói chung, dạy
học GDCD nói riêng ở nhà trường THPT.
Tính tích cực học tập của HS phát triển theo bề rộng và chiều sâu, từ
đó được nâng cao. Trước tiên cá nhân có tính tích cực học tập ở một hay
một vài môn học, ở mức độ hoàn thiện thấp, sau sẽ phát triển tính tích cực
sang những môn khác, đến mức hoàn thiện nhất là có tính tích cực cao ở
toàn bộ quá trình học tập. Sự mở rộng và sâu sắc dần của tính tích cực học
tập chính là bản chất của việc nâng cao tính tích cực của người học trong
quá trình học tập.
Hoạt động học tập trên lớp của học sinh mong muốn nghiên cứu, tìm
hiểu để giải quyết vấn đề mà giáo viên đưa ra trong nội dung bài học. Với
mục đích đó, các em tập trung chú ý cao độ theo dõi bài giảng của thầy
nhằm hiểu được nội dung, lí giải được bản chất của vấn đề trong học tập
môn GDCD. Các em tích cực tri giác để hiểu nội dung cụ thể của một
hiện tượng hay một vấn đề, điều này giúp học sinh hào hứng học tập. Từ
đó các em có một tâm thế chủ động trong học tập, chủ động với những
kiến thức mình đã lĩnh hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các
vấn đề tiếp theo.
1.1.2. Phát huy tính tích cực học tập của học sinh là đòi hỏi trong dạy học
môn giáo dục công dân.
Tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh
trung học phổ thông.
Tính tích cực học tập môn GDCD của HS là ý thức tự giác của HS về
mục đích học tập môn GDCD, thông qua đó HS giải quyết các nhiệm vụ học
tập bộ môn có hiệu quả. Như vậy, tính tích cực học tập môn GDCD của HS
được biểu hiện ở các mặt:
10
+ Mặt nhận thức: HS nhận thức được mục đích, ý nghĩa của môn GDCD.
+ Mặt hành động: Huy động các chức năng tâm lí để từ đó tìm ra cách
thức học môn GDCD phù hợp.
+ Mặt thái độ: HS có thái độ học tập đúng đắn ( nhu cầu, sở thích, động
cơ,…) với môn GDCD.
+ Hoạt động học tập có hiệu quả: biểu hiện ở kết quả học tập môn GDCD.
Tính tích cực học tập môn GDCD biểu hiện ở những dấu hiệu như: Hăng
hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích
phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải
thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kỹ năng
đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học, kiên trì
hoàn thành các bài tập môn GDCD, không nản trước những tình huống khó
khăn, thích tìm tòi khám phá những điều chưa biết dựa trên những cái đã biết,
sáng tạo vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống.
• Mục tiêu môn giáo dục công dân:
Về kiến thức: cung cấp cho HS những hiểu biết ban đầu về thế giới quan
duy vật và PP luận biện chứng; hiểu các giá trị đạo đức, pháp luật cơ bản của
con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; biết được bản chất của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; vai trò của nhà nước trong việc
đảm bảo thực hiện pháp luật, hoạch định chính sách và quản lí kinh tế; hiểu
đường lối, quan điểm của Đảng; các chính sách quan trọng của Nhà nước về
xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong gia đoạn hiện nay; hiểu trách nhiệm của
công dân trong việc thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách,
pháp luật của nhà nước; hiểu trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tham gia phát
triển kinh tế của công dân.
Về kỹ năng: trên cơ sở những kiến thức được cung cấp, HS biết cách vận
dụng những kiến thức đó vào phân tích, đánh giá các hiện tượng, các sự kiện,
các vấn đề trong thực tiễn xã hội cuộc sống phù hợp với lứa tuổi; biết lựa
chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với các giá trị xã hội; bảo vệ
11
cái tốt, cái đúng cái đẹp và đấu tranh, phê phán, lên án đối với những hành vi,
hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống phù hợp với khả năng của bản thân.
Về thái độ: HS biết yêu cái tốt, cái đúng, cái đẹp, không đồng tình với
các hành vi, việc làm tiêu cực; biết yêu quê hương, đất nước, biết trân trọng
và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc; tin tưởng vào đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng, tôn trọng các chính sách, pháp luật của Nhà
nước và các quy định chung của cộng đồng. Có ước mơ và mục đích sống tốt
đẹp.
• Nội dung và cấu trúc chương trình:
Môn GDCD được phân phối thành 5 phần:
Phần 1: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học.
Phần 2: Công dân với đạo đức.
Phần 3: Công dân với kinh tế.
Phần 4: Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội.
Phần 5: Công dân với pháp luật.
Năm phần của chương trình có quan hệ hữu cơ với nhau, đồng thời có
quan hệ chặt chẽ với chương trình GDCD ở trung học cơ sở theo nguyên tắc
đồng tâm và phát triển. Phần thứ nhất bao gồm một số nội dung chủ yếu như
triết học nhằm trang bị cho học sinh cơ sở ban đầu về thế giới quan, phương
pháp luận trong cuộc sống, là căn cứ lí luận cho các nội dung tiếp theo của
chương trình. Phần thứ hai gồm những tri thức về đạo đức là sự tiếp nối của
phần đạo đức của môn GDCD bậc Trung học cơ sở, những chuẩn mực đạo
đức học sinh được học ở các lớp dưới được nâng lên thành những giá trị đạo
đức, tư tưởng, chính trị, lối sống của con người Việt Nam thời kì công nghiệp
hóa hiện đại hóa, nhằm giúp học sinh giải quyết hợp lí, có hiệu quả các mối
quan hệ xã hội. Trong phần 3 và phần 4 (công dân với kinh tế; Công dân với
các vấn đề chính trị - xã hội), đây là những tri thức thuộc bộ môn kinh tế
chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Với những hiểu biết tối thiểu, cơ
bản về phương hướng phát triển kinh tế, về các vấn đề chính trị xã hội, học
sinh có thể xác định được phương hướng học tập, lựa chọn ngành nghề hoặc
các lĩnh vực khác sau khi ra trường và xác định được trách nhiệm của mình
đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Học sinh học các tri thức của
12
phần 5 (Công dân với pháp luật), đây là những tri thức thuộc bộ môn pháp
luật, là sự phát triển tiếp nối phần pháp luật ở bậc Trung học cơ sở, nhằm
cung cấp những hiểu biết cơ bản về bản chất, vai trò, vị trí của pháp luật, giúp
học sinh chủ động, tự giác điều chỉnh hành vi của cá nhân và đánh giá được
hành vi của người khác theo quyền hạn và nghĩa vụ của công dân trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ những điều trên tôi nhận thấy giáo dục phẩm chất chính trị tư tưởng
đạo đức cho HS là nhiệm vụ của tất cả các môn học và mọi hoạt động giáo
dục của nhà trường. Nhưng theo chức năng của mình, môn GDCD có vị trí rất
quan trọng, trực tiếp trang bị cho HS cơ sở lí luận và hành vi ý thức về những
quan niệm đạo đức, ý thức chính trị, chế độ xã hội, pháp luật, quyền và nghĩa
vụ của nhân dân, các chính sách của đảng và nhà nước.
Đặc điểm nội dung phần công dân với các vấn đề chính trị xã hội
Cùng với các môn khoa học cơ bản trong chương trình giáo dục phổ
thông trung học ở nước ta hiện nay, GDCD có một vai trò quan trọng trong
đào tạo, phát triển năng lực con người – những công dân tương lai của thế kỉ
XXI. Đây là một môn khoa học chính trị - xã hội nhằm trang bị cho HS kiến
thức cơ bản về thế giới quan và PP luận duy vật biện chứng, những phạm trù
đạo đức và một số phạm trù và qui luật kinh tế cơ bản; bản chất nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hiểu được bản chất, vai trò của pháp
luật với sự phát triển của nhân loại. Thông qua tri thức về các vấn đề chính trị
xã hội được trình bày trong 8 bài phần công dân với các vấn đề chính trị xã
hội lớp 11, thông qua những bài giảng, tiết dạy của giáo viên HS biết tự giác
sống và học tập theo những chính sách mà đảng và nhà nước đề ra.
Về cấu trúc nội dung chương trình phần công dân với các vấn đề chính trị
xã hội gồm 8 bài, thời lượng phân phối như sau:
Bài 8: Chủ nghĩa xã hội (2 tiết)
Bài 9: Nhà nước xã hội chủ nghĩa (3 tiết)
Bài 10: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (2 tiết )
13
Bài 11: Chính sách dân số và giải quyết việc làm (1 tiết)
Bài 12: Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường (1 tiết )
Bài 13: Chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa
(3 tiết)
Bài 14: Chính sách quốc phòng và an ninh (1 tiết)
Bài 15: Chính sách đối ngoại (1 tiết)
Bám sát chuẩn của chương trình, trong phần này cấu trúc thành hai mạch
cơ bản sau:
Mạch thứ nhất: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội: Trong một số vấn đề
ấy, chọn ba vấn đề: Chủ nghĩa xã hội, Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, Nền dân
chủ Xã hội chủ nghĩa. Đây là những vấn đề rất cơ bản, rất thiết yếu, nhưng rất
khó (cả về lí luận và thực tiễn), rất nhạy cảm. Nguyên tắc chung khi trình bày
ba vấn đề này là không trình bày theo PP lịch sử (mô tả Chủ nghĩa tư bản
chuyển sang Chủ nghĩa xã hội, hết nhà nước tư sản chuyển đến nhà nước Xã
hội chủ nghĩa, từ nền dân chủ tư sản đến nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa…) mà
trình bày theo phương pháp logic (khái quát về tính tất yếu, khách quan đi lên
Chủ nghĩa xã hội, đặc trưng cơ bản của Chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bản chất
và chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bản chất
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mạch thứ 2: Một số chính sách của nhà nước ta: trong chương trình cũ,
một số chính sách của nhà nước được bố trí ở chương trình GDCD lớp 12,
nay chuyển xuống chương trình GDCD lớp 11. Trong chương trình cũ, quy
định trình bày 4 chính sách, trong chương trình mới không trình bày chính
sách xã hội nhưng bổ sung thêm hai chính sách (chính sách dân số và giải
quyết việc làm, chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường). Số lượng và thứ
tự trình bày các chính sách chỉ có ý nghĩa tương đối. Trách nhiệm công dân
đối với các chính sách được coi trọng ở tất cả các bài.
14
Có thể nhận thấy, tri thức của phần này chủ yếu được xây dựng dựa trên
các môn khoa học cơ bản là Chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, xã hội
học,...và một số vấn đề về chủ trương chính sách đường lối của Đảng, của
Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, còn tích hợp nhiều
nội dung giáo dục xã hội cần thiết cho các công dân trẻ tuổi như: Giáo dục
dân số, giáo dục môi trường, giáo dục giới tính, giáo dục lòng yêu nước...
nhằm hướng HS vươn tới những giá trị cơ bản của người công dân Việt Nam
trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với những hiểu biết tối
thiểu, cơ bản về phương hướng phát triển kinh tế, về các vấn đề chính trị - xã
hội HS có thể xác định được phương hướng học tập, lựa chọn ngành nghề
hoặc các lĩnh vực khác sau khi ra trường và xác định được trách nhiệm của
mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
• Mục tiêu của phần công dân với các vấn đề chính trị - xã hội:
Về kiến thức: Hiểu được tính tất yếu và đặc điểm của thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, hiểu được bản chất của Nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, nắm được nội dung cơ bản của một số chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Về kỹ năng: Biết vận dụng kiến thức để phân tích sự khác nhau về bản
chất giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với các nhà nước trước đó, biết thực hiện
các quyền dân chủ và tham gia tuyên truyền các chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước. Biết tìm hiểu và phân tích, đánh giá một số vấn đề gần gũi trong
đời sống chính trị - xã hội hiện nay.
Về thái độ: Có ý thức đúng đắn về trách nhiệm của công dân đối với việc
xây dựng và bảo về Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tin tưởng và tự
giác thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
• Những dấu hiệu biểu hiện tích cực học tập môn học, phần học:
Dấu hiệu 1: Thái độ kỷ luật với học tập
15
Thể hiện khát vọng vươn lên nắm tri thức và giải quyết nhiệm
vụ học tập. Thể hiện ở hứng thú, say mê lao động, có trách
nhiệm thực hiện nhiệm vụ yêu cầu học tập giáo viên đề ra.
Thể hiện không vi phạm kỷ luật học tập: lơ là, nói chuyện
riêng, làm việc riêng, không học bài làm bài tập theo yêu cầu
của giáo viên.
Tập trung ở việc hoạt động và hoàn thành các nhiệm vụ đặt
ra, nỗ lực vượt khó khăn, sáng tạo trong giải quyết vấn đề học
tập.
Dấu hiệu 2: Có hoạt động trí tuệ và nỗ lực cao trong học tập
Thể hiện trong quá trình lĩnh hội tài liệu, ở khả năng hoạt
động trí tuệ, hoạt động tư duy phân tích, tổng hợp, khái quát
hóa, hệ thống hóa kiến thức.
Thể hiện sự ghi nhớ, đánh giá, ứng dụng linh hoạt, sáng tạo
kiến thức vào giải quyết nhiệm vụ học tập.
Thể hiện nỗ lực trong học tập, khắc phục trở ngại về thể lực,
trí lực và điều kiện học tập, cố gắng học tập không ngừng.
Dấu hiệu 3: Kết quả học tập
Thể hiện việc tự kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm
vụ học tập, nhanh chóng tìm ra sai sót để khắc phục.
Thể hiện ở điểm số cao sau mỗi bài kiểm tra.
Tóm lại để đạt kết quả cao, HS cần chủ động trong học tập. Tính tích cực
học tập với các dấu hiệu trên có trong HS với các mức độ khác nhau. Nhưng nó
chỉ được bộc lộ và phát huy khi HS có động lực và đạt tới lợi ích nhất định.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 11, phần “Công dân với các
vấn đề chính trị xã hội” ở trường THPT Lý Tử Tấn - Hà Nội.
1.2.1. Vài nét về trường THPT Lý Tử Tấn
16
Trường THPT Lý Tử Tấn được thành lập ngày 20 tháng 5 năm 2005
với qui mô HS trên 30 lớp với tổng số HS 1047 em, trong đó có 428 em HS
khối 10, 305 em HS khối 11, 314 em HS khối 12.
Khu vực tuyển sinh chủ yếu là con em thuộc miền tây huyện Thường
Tín, ngoài ra còn một số HS ở các xã lân cận và HS toàn thành phố. Khu vực
miền tây Thường Tín chủ yếu là các xã thuần nông, thu nhập thấp, kinh tế khó
khăn. Để tạo thuận lợi cho số HS khu vực này được tiếp tục theo học thuận
lợi, với mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục
vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tiến tới phổ cập giáo
dục trung học cho nhân dân trong huyện. Do trường mới thành lập, bề dày
truyền thống còn ít. Đầu vào tuyển sinh còn thấp, trong vài năm gần đây gặp khó
khăn trong việc tuyển sinh nên trường phải xin tuyển HS toàn thành phố.
Về cơ sở vật chất: Trường có bố trí 2 phòng thực hành máy tính gồm
50 máy tính cho HS thực hành môn tin và 2 phòng máy chiếu. Các phòng học,
phòng chức năng, phòng thực hành, phòng bộ môn… được thiết kế theo mô
hình chuẩn quốc gia, nhà trường có có đầy đủ các phòng thực hành bộ môn,
phòng tập đa năng, phòng máy chiếu, sân chơi, bãi tập…
Đội ngũ nhà trường với tổng số cán bộ - giáo viên - nhân viên là 79
người. Trong đó ban giám hiệu có 3 người gồm 1 hiệu trưởng và 2 phó hiệu
trưởng. Có 6 tổ chuyên môn và 1 tổ văn phòng. Trong đó, bộ môn GDCD có
2 đồng chí. Hàng năm 100% cán bộ, giáo viên tham gia viết sáng kiến kinh
nghiệm và đã đạt nhiều giải qua các đợt tham gia. Đội ngũ cán bộ giáo viên
nhà trường đều đạt trình độ chuẩn, tâm huyết với nghề, có năng lực chuyên
môn và trình độ nghiệp vụ sư phạm đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới giáo dục.
Trong đó, có 15 thầy cô giáo trên chuẩn (trình độ thạc sỹ), 10 thầy cô đang
theo học thạc sỹ; nhiều năm liền giáo viên đạt chiến sỹ thi đua cấp cơ sở,
được tặng nhiều bằng khen của thành phố và của ngành giáo dục.
Các tổ chuyên môn của nhà trường luôn tích cực chủ động tham gia các
phong trào thi đua dạy tốt, các cuộc thi giáo viên giỏi cấp trường, cụm, thành
phố, đạt thành tích cao.Công tác giáo dục luôn được nhà trường quan tâm,
17
chú trọng. Với đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên môn, vững về tư tưởng, tận
tâm, sáng tạo, đẹp về phẩm chất, đánh giá thực chất kết quả học tập của HS,
không chạy theo bệnh thành tích, nhà trường giáo dục với phương châm “HS
là trung tâm của mọi hoạt động”, “Rèn nền nếp, dạy kỹ năng, trao kiến thức”,
không chỉ quan tâm đến công tác giáo dục, mà còn chú trọng đến việc đức
dục và văn thể mỹ, tạo cho các em HS cảm giác “mỗi ngày đến trường là một
ngày vui”.
1.2.2. Thực trạng việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Về thực trạng dạy và học môn giáo dục công dân trong nhà trường
phổ thông hiện nay.
Để hiểu được thực trạng việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
trong dạy học môn GDCD lớp 11, phần “công dân với các vấn đề chính trị xã
hội” ở trường THPT Lý Tử Tấn - tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra cho 2
giáo viên dạy môn GDCD ( phụ lục 1) và cho 100 học sinh lớp 11( phụ lục 2)
tại trường THPT Lý Tử Tấn. Qua thống kê số liệu đã điều tra và nghiên cứu
từ thực trạng học tập môn GDCD của trường, tôi đã thu được kết quả ở các
mặt sau đây:
- Sự nhận thức của học sinh về tầm quan trọng, ý nghĩa môn học GDCD
Nhận thức là kim chỉ nam cho hoạt động, nếu có nhận thức đúng đắn, HS
sẽ có cách thức học tập phù hợp. Qua khảo sát, tôi nhận thấy đa số các em
HS tại trường THPT Lý Tử Tấn – Hà Nội có nhận thức đúng đắn về tầm
quan trọng của môn GDCD. Điều này thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng, ý nghĩa môn GDCD.
GDCD là một môn học
Đồng ý
Có nội dung gần gũi, thiết thực với
cuộc sống.
Có vai trò rất quan trọng trong sự
phát triển đạo đức, nhân cách HS.
18
Tỉ lệ (%)
Lưỡng Không đồng
lự
ý
93
0
7
86
14
0
Rất cần thiết trong chương trình
THPT vì góp phần phát triển một
cách toàn diện ở HS.
Đây là một môn không thi tốt nghiệp
nên không cần dành nhiều thời gian
cho nó.
Giúp cho HS có những kỹ năng sống
cần thiết.
Giúp HS nhận thức được quy luật
của thế giới khách quan để từ đó vận
dụng vào thực tế cuộc sống.
Giúp HS phát triển về mặt tình cảm
( biết yêu thương, giúp đỡ người
thân và mọi người xung quanh).
Giúp HS biết lí giải những sự vật
hiện tượng nảy sinh trong cuộc sống.
Giúp HS biết suy nghĩ chín chắn
hơn trước khi phát biểu hay quyết
định một việc nào đó.
Giúp HS biết cách cư xử tốt hơn với
mọi người xung quanh.
Em thấy các kiến thức ấy ít giúp ích
cho em trong cuộc sống.
Ý kiến khác: (nếu có ghi rõ nội
dung)
88
12
0
7
14
79
82
12
6
62
26
12
77
23
10
25
45
30
68
27
5
77
9
14
11
17
72
0
0
0
Xem bảng 1 thấy rằng:
93 % HS cho rằng đây là một môn học có nội dung gần gũi, thiết thực
với cuộc sống; 86 % HS đồng ý môn này có vai trò rất quan trọng trong sự
phát triển đạo đức, nhân cách và 88 % HS đồng tình đây là một môn học rất
cần thiết trong chương trình THPT vì góp phần phát triển toàn diện ở HS.
Đây là một thực tế, vì hầu như tất cả các trường THPT nói chung và
Trường THPT Lý Tử Tấn nói riêng đều quán triệt tinh thần không xem
19