Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Triết lí mới trong quản lí giáo dục đại học tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.3 KB, 15 trang )

Triết lí trong quản lí giáo dục đại học tại Việt Nam
1. Quan điểm triết lí giáo dục
Bài viết xin được trao đổi thêm về vấn đề này trong một góc nhìn
để chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về triết lý giáo dục Việt Nam, đặc
biệt trong công cuộc đổi mới nền giáo dục nước nhà.
Nói về triết lý, từ điển Việt Nam (Viện ngôn ngữ học, 2004) định
nghĩa:
"1.Triết lí (hay triết lý) là quan niệm chung của con người về nhân
sinh và xã hội;
2. Đó là thuyết lí về những vấn đề nhân sinh và xã hội".
Như thế, muốn hiểu thế nào là triết lý thì ta lại phải hiểu nhân sinh
là gì?
Do đó, theo tôi, định nghĩa này mới chỉ là tiếp cận ban đầu về mặt
khái niệm mà chưa đề cập đến ý nghĩa chính xác một cách khái quát và
đầy đủ.
Nói đến triết lý, ta hiểu đó là tổng thể những quan điểm, phương
châm thể hiện tư tưởng chỉ đạo theo chiều rộng và chiều sâu, quy định
chuẩn mực dùng làm tiêu chí cho mọi hành động của con người, bao hàm
sự tương quan trong một lĩnh vực nào đó, trong sự phát triển của xã hội.
Ví dụ triết lý bóng đá, triết lý giáo dục.
Nói đến triết lý giáo dục Việt Nam, nếu ai đó nói rằng ở Việt Nam
chưa có triết lý giáo dục thì tôi cho rằng điều đó là không đúng.
Do trong một thời gian dài chúng ta phải tập trung cho các cuộc
chiến tranh chống lại sự xâm lược, giải phóng dân tộc nên giáo dục đã có
một lỗ hổng lớn.
Suốt gần một nghìn năm bị Hán hóa, giáo dục Việt Nam bị ảnh
hưởng lớn bởi Nho giáo. Các quan quan niệm về con người và giáo dục

1



của Khổng Tử, quan niệm về Đức trị và Pháp trị trong Nho giáo đã có sự
ảnh hưởng sâu rộng đến giáo dục của nước ta, đặc biệt là thời phong kiến.

Thậm chí, ảnh hưởng của Nho giáo còn tác động cho tới ngày nay
với những câu khẩu ngữ như "Tiên học lễ, hậu học văn" hay " Cái gốc
của sự học là học làm người" theo quan niệm của người Trung Quốc.
Đó cũng được coi như những cơ sở đầu tiên hình thành triết lý giáo dục.
Ta cũng có thể bắt gặp những khẩu ngữ mang tính triết lý cho giáo dục
được hình thành trong các câu tục ngữ hay danh ngôn như "Học thầy
không tày học bạn", "Học thầy học bạn, vô vạn phong lưu", "Học, học
nữa, học mãi"...
Cho tới khi hòa bình lập lại sau hai cuộc chiến lớn chống đế quốc
và thực dân, giáo dục đã được quan tâm nhiều hơn.
Tại bản Hiến pháp đầu tiên thời kỳ độc lập và xây dựng Tổ quốc, là Hiến
pháp năm 1980 đã quy định:
"Nền giáo dục Việt Nam không ngừng được phát triển và cải tiến theo
nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,
nhà trường gắn liền với xã hội, nhằm đào tạo có chất lượng những người
lao động xã hội chủ nghĩa và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau"
(Điều 40).
Có thể nói đây là một quy định mang tính triết lý đầu tiên cho Giáo dục
Việt Nam.
Đến thời kỳ đổi mới, giáo dục và đào tạo đã được xem là quốc sách hàng
đầu, điều này đã được ghi nhận tại Điều 35 Hiến pháp năm 1992.
Cùng với quy định đó, Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định:
"Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài".

2



Bên cạnh đó, bản Hiến pháp này còn quy định cụ thể hơn:
"Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng
động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, đạo đức, ý chí vươn lên góp
phần làm cho dân giầu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Đây là những tiền đề, cơ sở đầu tiên mang tính triết lý để xây dựng một
nền giáo dục độc lập và tự chủ sau này.
Cùng với sự đổi mới và phát triển chung trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, các Luật và các chủ trương của Đảng và Nhà nước cũng được ban
hành.
Văn bản luật đầu tiên đặt cơ sở cho việc phát triển và đi vào ổn định của
nền Giáo dục là Luật phổ cập giáo dục Tiểu học năm 1991. Những quy
định mang tính triết lý cho giáo dục được thể hiện trong Luật này như:
"Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân,
có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và
thể chất của trẻ em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn
diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa" (điều 2);
"Giáo dục Tiểu học phải bảo đảm cho học sinh nắm vững các kỹ năng
nói, đọc, viết, tính toán, có những hiểu biết cần thiết về thiên nhiên, xã
hội và con người; có lòng nhân ái, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu quý
anh chị em; kính trọng thầy giáo, cô giáo, lễ phép với người lớn tuổi; giúp
đỡ bạn bè, các em nhỏ; yêu lao động, có kỷ luật; có nếp sống văn hoá; có
thói quen rèn luyện thân thể và giữ gìn vệ sinh; yêu quê hương đất nước,
yêu hoà bình" (điều 3).
Cho tới năm 2005, văn bản pháp luật quy định khá đầy đủ về giáo dục ra
đời, đó là Luật Giáo dục.

3



Trong văn bản này đã có nhiều những quy định thể hiện tính triết lý trong
giáo dục và sau đó đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Cụ thể, điều 2 quy định về mục tiêu của giáo dục:
"Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", điều 3 quy định tính chất và nguyên
lý giáo dục:
"Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân
dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng;
Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội".
Cùng với các quy định đó là những quy định: "Học tập là quyền và nghĩa
vụ của công dân", "Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển" cũng bao
hàm tính triết lý cao. Bên cạnh đó, Luật Giáo dục còn quy định những
quan điểm và mục tiêu cụ thể đối với tất cả các cấp học và bậc học trong
hệ thống giáo dục quốc dân mang đậm tính triết lý.

Cụ thể hóa thêm một bước, năm 2012, văn bản Luật Giáo dục Đại học ra
đời.
Đây là văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh một lĩnh vực giáo dục ở
trình độ cao, nâng tầm kiểm soát về mặt quản lý Nhà nước thêm một
bước.


4


Văn bản này quy định mục tiêu chung của giáo dục Đại học bao gồm:
Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa
học, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế; đào
tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực
hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học
và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng
sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc;
có ý thức phục vụ nhân dân.
Cùng với các mục tiêu chung đó, Luật còn quy định những mục tiêu cụ
thể đối với từng loại hình đào tạo là Cao đẳng, Đại học, Thạc sĩ và Tiến sĩ
ở điều 5.
Cùng với nhịp đảm bảo yêu cầu quản lý và phát triển giáo dục toàn diện,
năm 2014 Quốc hội tiếp tục ban hành Luật giáo dục nghề nghiệp.
Theo quy định của Luật này, mục tiêu chung của giáo dục nghề nghiệp
được xác định là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo;
có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo,
thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo
đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người
học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc
làm hoặc học lên trình độ cao hơn.
Như thế, nhìn một cách tổng quan, giáo dục của Việt Nam đã được quan
tâm một mức khá toàn diện, trong các văn bản pháp luật đã thể hiện
những nội dung có tính triết lý cao, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển
chung.


5


Cùng với những Luật này là những văn khác của Chính phủ, Bộ Giáo dục
và Đào tạo nhằm cụ thể hóa và điều chỉnh những vấn đề cụ thể, góp phần
thiện thêm về pháp luật trong lĩnh vực giáo dục.
Triết lý giáo dục thể hiện tại Nghị quyết 29 của Đảng
Năm 2011 đánh dấu một bước chuyển mới trong giáo dục, đó là Đại hội
Đảng toàn quốc khóa XI khai mạc vào mùa xuân với chủ trương đổi mới
căn bản và toàn diện về giáo dục.
Tiếp đó, tháng 11/2013, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã tiến
hành Hội nghị Trung ương 8. Theo đó, Hội nghị Trung ương 8 đã ban
hành Nghị quyết số 29 với chủ điểm là đổi mới căn bản và toàn diện về
giáo dục.
Cùng với việc ban hành Hiến pháp mới năm 2013 thì có thể nói nói đây là
những chủ trương thể hiện tư tưởng đổi mới toàn diện đất nước của Đảng
và Nhà nước ta.
Hiến pháp năm 2013 quy định:
"Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài" (Điều 61).
Đây là một quy định bao hàm tính triết lý ở tầm vĩ mô, trong góc nhìn
phát triển toàn diện về giáo dục.
Với lộ trình đó, Nghị quyết số 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI tại Hội nghị 8 đề ra những quan điểm và mục tiêu đói với vấn đề
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam, mà theo như sự khẳng
định của nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận thì
đó là những triết lý của Giáo dục Việt Nam (Báo Điện tử Giáo dục Việt
Nam).

6



Tuy nhiên, không chỉ đến bây giờ ta mới có triết lý giáo dục, mà triết lý
giáo dục Việt Nam đã được đề cập rải rác ở những văn bản có tính pháp
lý cao nhất như đã dẫn ở trên.
Trên thực tế, trước đây Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục
và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến
năm 2000 cũng đã có những ý tứ thể hiện triết lý giáo dục.
Ở đây, chúng ta cùng tìm hiểu những triết lý mà Nghị quyết số 29 đã đề
cập. Cụ thể, Nghị quyết đã đề ra quan điểm chỉ đạo xuyên suốt quá trình
đổi mới mang tầm triết lý trên bảy nội dung:
1) Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được
ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội.
2) Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn
đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội
dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi
mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động
quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình,
cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học,
ngành học.
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát
triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế
giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc.
Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng
loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng
tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.


7


3) Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
4) Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp
quy luật khách quan.
Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú
trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
5) Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa
các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn
hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào tạo.
6) Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và
đào tạo.
Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa
các vùng, miền.
Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt
khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và
các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và
đào tạo.
7) Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo,
đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để
phát triển đất nước.
Với những quan điểm này, Nghị quyết số 29 đã thể hiện những triết lý
giáo dục khá sâu sắc, định hướng cho tính giáo dục đúng đắn và phát

triển. Bên cạnh đó, Nghị quyết 29 cũng đã đề ra những mục tiêu chung
8


cần thực hiện là sự cụ thể của triết lý giáo dục. Cụ thể: "Tạo chuyển biến
căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng
ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học
tập của nhân dân.
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc,
yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản
lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội
học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại
hoá, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và
đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.
Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực".
Ở đây, Nghị quyết 29 cũng đề ra những mục tiêu cụ thể cần đạt đối với
các cấp học và bậc học khá chi tiết, thể hiện và truyền tải cái đích của
triết lý toàn diện đối với giáo dục Việt Nam. Cụ thể:
Đối với giáo dục Mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu
biết, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt
cho trẻ bước vào lớp 1.
Hoàn thành phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015,
nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí
trước năm 2020.
Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường Mầm non. Phát triển giáo dục
Mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa
phương và cơ sở giáo dục.


9


Đối với Giáo dục Phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu,
định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng,
truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng
thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn
thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm
2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri
thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau Trung
học Cơ sở; Trung học Phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị
cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng.
Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm
từ sau năm 2020. Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ
tuổi đạt trình độ giáo dục Trung học Phổ thông và tương đương.
Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ
năng và trách nhiệm nghề nghiệp.
Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và
trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành,
bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao
động trong nước và quốc tế.
Đối với giáo dục Đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi
dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri
thức, sáng tạo của người học.
Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và
trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia;

trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc
tế.
10


Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ
và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội
nhập quốc tế.
Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở
vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập
nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất
lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi
nghề; bảo đảm xóa mù chữ bền vững.
Hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức học
tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học và giáo dục từ xa.
Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt
Nam ở nước ngoài, có chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng
Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài, góp phần phát huy sức mạnh của văn hóa Việt Nam, gắn bó với
quê hương, đồng thời xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các
nước.

Như thế, với những triết lý giáo dục đã được định hình, sẽ dấy lên một
niềm hy vọng đối với một nền giáo dục toàn diện, có bài bản.
Vấn đề là với những quy định của Luật và Nghị quyết, Giáo dục cần phải
được quan tâm đúng mức, để có được sự ổn định và phát triển một cách
có hệ thống và có định hướng, chứ không phải chỉ là những triết lý mang
tính khẩu hiệu chung chung.
Những triết lý này của Giáo dục Việt Nam sẽ mở ra một hướng đi mới,
quan niệm đúng đắn hơn về giáo dục của nước nhà.

2. Cần một triết lý mới cho quản lí giáo dục đại học ở Việt Nam

11


Vấn đề đầu tiên cho một đổi mới toàn diện và triệt để giáo dục đại
học Việt Nam là xây dựng một triết lý giáo dục đại học mới mà nội dung
cơ bản của nó là lý lẽ triết học mới về mục tiêu, chương trình, phương
pháp, thiết kế hệ thống và mô hình quản lý…
Có thể nói rằng cho đến nay xã hội Việt Nam và chính sách giáo dục Việt
Nam vẫn cần phải thay đổi tư duy đóng khung coi giáo dục đại học
(GDĐH) đơn thuần là đào tạo nghề nghiệp; mục tiêu GDĐH phải thể hiện
được 4 trụ cột của giáo dục là: học để biết, học để làm việc, học để chung
sống và học để làm người.
Không vì bất cứ lý do gì mà GDĐH chỉ có chức năng đào tạo nghề
nghiệp. Còn rất, rất nhiều điều sinh viên cần học trước khi ra trường hòa
nhập với xã hội. Trong thời buổi công nghệ thông tin phát triển, rất nhiều
điều có thể tìm thấy trên mạng sau vài phút tra cứu thì cũng có rất nhiều
điều học sinh, sinh viên chỉ cần hiểu, vận dung mà không cần phải nhớ
nữa.
Theo Drew G. Faust - Hiệu trưởng ĐH Harvard: tinh hoa nằm ở chỗ đại
học chỉ chịu trách nhiệm với quá khứ và tương lai của dân tộc, chứ không
phải chỉ nhắm ở cái mức kết quả thực tiễn trong vòng mươi lăm năm
trước mắt. Cái học ở trong đại học là “cái học đúc khuôn cho cả đời
người, cái học chuyển đạt gia tài của ngàn năm trước, cái học tạo ra vóc
dáng cho tương lai”. Cam kết của đại học là vô thời hạn, thành tựu không
tiên đoán được, không đo lường được, nỗ lực làm việc không phải để tăng
sức cạnh tranh mà là để “định nghĩa cái gì đã làm chúng ta là người qua
bao nhiêu thế kỷ“, cái gì giúp ta “hiểu ta là ai, từ đâu đến, đi về đâu và tại
sao”. Triết lý về con người mới cần phải được thể hiện trong mục tiêu

GDĐH. Đối với tương lai, giáo dục, nghiên cứu, giảng dạy luôn luôn
nhắm vào thay đổi, “biến đổi cá nhân khi họ học, biến đổi thế giới khi
khám phá của ta thay đổi cái biết của ta về nó, biến đổi xã hội khi hiểu
12


biết của ta được diễn dịch thành chính sách… Phát triển hiểu biết tức là
thay đổi”.
Thiết kế hệ thống cần đa dạng hóa để thích ứng với một nền giáo dục cho
số đông. Triết lý GDĐH Việt Nam cũng cần thể hiện cho được sự chuyển
đổi rất cơ bản từ một nền GDĐH tinh hoa sang đại học cho số đông đang
diễn ra hiện nay trên đất nước ta. Cấu trúc của một nền đại học cho số
đông phụ thuộc vào nhiều tham số như là có yêu cầu nhất thể (unified) về
hệ thống hay không? Hệ lưỡng nguyên (công tư) hay được chia thành
nhiều phân hệ, mối quan hệ giữa phân hệ công và tư, chính sách tuyển
sinh, chương trình học tập, cơ cấu ngân sách, các truyền thống hàn lâm và
văn hóa… tạo nên một sự đa dạng tất yếu trong hệ thống. Cấu trúc của hệ
thống đó chịu ảnh hưởng bởi một số lớn các xu thế, một số trong đó có
tính đối kháng, ví dụ như: Cách điều hành và định chế từ trên xuống mâu
thuẫn với những khởi động từ dưới lên của các nhà đầu tư tư nhân và các
doanh nghiệp và bởi ảnh hưởng sâu rộng của công nghệ kỹ thuật số; sự
mở rộng toàn cầu hóa và các chính sách siêu quốc gia mâu thuẫn với việc
cần thiết phải chăm lo nhu cầu tại chỗ và dân tộc; những mối quan hệ rắc
rối giữa khu vực nhà nước có tính chủ đạo với sự gia tăng ngày càng lớn
của những nhà cung cấp giáo dục tư nhân.
Mô hình quản lý cần phải mềm dẻo để đạt tới sự bình đẳng xã hội về cơ
hội tiếp cận GDĐH. Sự đa dạng hóa trở thành một thuộc tính chung ở tất
cả các nước mở rộng đầu vào GDĐH. Nhưng đa dạng hóa tự thân nó
không đủ để hướng một nền GDĐH tới một nền GDĐH định hướng cho
số đông (mass-oriented). Trong khi không có một cấu trúc tối ưu cho hệ

thống GDĐH thì đại chúng hóa và đa dạng hóa không thể đạt tới sự bình
đẳng về cơ hội, trừ khi chúng được hỗ trợ bởi sự phát triển tính mềm dẻo
trong hệ thống quản lý để sinh viên có thể di chuyển giữa các trình độ và
khu vực khác nhau trong khuôn khổ luật pháp quốc gia. Tính chất mềm
13


dẻo của hệ thống dường như là cách hiệu quả nhất để đảm bảo việc tiếp
cận giáo dục đặc biệt là tính bình đẳng được tăng lên trong GDĐH.
Tạo sự hứng thú cho người học là triết lý của người thầy trong nền
GDĐH mới. Đã qua rồi cái thời dùi mài kinh sử, thời sinh viên, học sinh
phải ngồi học một cách khuôn phép, dự những giờ lên lớp đầy đủ, lắng
nghe, ghi chép và học thuộc các bài giảng của thầy. Nền giáo dục cho số
đông, cho đa phần buộc phải đi học (chứ thực ra không thích thú việc học
lắm như thời của đại học tinh hoa, chỉ tuyển những người tài năng và say
mê học tập) đòi hỏi người thầy phải lôi cuốn được số đông sinh viên
trong lớp học tập một cách thích thú. Chức năng của người thầy không
còn là truyền thụ kiến thức một chiều mà là người gợi mở tư duy, hướng
dẫn về phương pháp và bình xét các phân tích phê phán của người học.
Thay đổi triết lý giảng dạy của cả một đội ngũ hàng triệu giáo viên là điều
rất khó khăn và phải được sự hỗ trợ thích đáng của chương trình, công
nghệ và phương pháp kiểm tra, đánh giá.
Triết lý về chất lượng giáo dục cần phải thay đổi. Cần có quan điểm quốc
gia về chất lượng. Chất lượng là gì? Là sự đáp ứng nhu cầu. Nhu cầu
nhân lực và nhân tài cho quốc gia, nhu cầu có nghề nghiệp và nhu cầu
học tập. Điều này cho phép xã hội thống nhất nhận định và đánh giá chất
lượng hệ thống GDĐH hiện nay và trong tương lai.
Phân hệ tư nhân là một trong hai cánh của hệ thống GDĐH của quốc gia,
có tầm quan trọng như phân hệ công lập. Cần xây dựng một triết lý mới
cho hệ thống đại học tư dựa trên nền tảng lý luận triết học về tính phi lợi

nhuận và lợi nhuận trong hoạt động giáo dục, xác lập trở lại hệ thống các
trường dân lập để phát triển các nhà trường phi lợi nhuận, để nhà nước có
thể tập trung đầu tư cho các trường trọng điểm tới ngưỡng, đồng thời tạo
cho các trường tư một điểm tựa về mặt tinh thần và chính sách quốc gia

14


để giải quyết bài toán phát triển bao gồm cả đầu vào, đầu ra và sự hỗ trợ
của Nhà nước.
Đổi mới trong giáo dục là đổi mới khó khăn, lâu dài nhất trong các lĩnh
vực kinh tế xã hội do tính bảo thủ tự thân của nó, do lực lượng các nhà
giáo cũng rất đông đảo, đa dạng về tâm nguyện, trình độ, nhận thức và
hoài bão. Hơn thế nữa, kết quả của đổi mới giáo dục không thể ngày một
ngày hai cân đo đong đếm được như những ngành kinh tế khác. Vì thế
một tư duy đổi mới, phương thức vận hành đổi mới, đánh giá kết quả đổi
mới đều phải được xác lập về mặt lý luận, được sự đồng thuận xã hội cao
thì mới có thể thực hiện đổi mới một cách liên tục, có tính kế thừa, nhất
quán và hệ thống được.

15



×