Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Vận dụng cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục đại học ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.94 KB, 10 trang )

Vận dụng cơ chế thị trường trong phát triển giáo
dục đại học ở Việt Nam

Hoàng Văn Mạnh


Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Kinh tế Chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Văn Dũng
Năm bảo vệ: 2010

Abstract: Hệ thống hóa lý luận chung về cơ chế thị trường (CCTT), những tác động của
nó đến hoạt động giáo dục đại học (GDĐH) và một số vấn đề về GDĐH trong CCTT.
Kinh nghiệm vận dụng CCTT trong phát triển GDĐH ở một số nước điển hình trên thế
giới. Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng CCTT trong GDĐH Việt Nam. Đề xuất
quan điểm cơ bản và một số giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng CCTT trong phát triển
GDĐH Việt Nam.

Keywords: Kinh tế chính trị; Giáo dục đại học; Cơ chế thị trường; Việt Nam


Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh thế giới đang thực hiện bước quá độ sang nền kinh tế tri thức thì đội ngũ
lao động có chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ cao về khoa học-công nghệ (KH-CN) giữ vai trò
quyết định. Để có được đội ngũ này, kinh nghiệm của các nước phát triển sớm cho thấy cần phải
có một nền giáo dục phát triển, đặc biệt là giáo dục đại học (GDĐH). Đó là bởi vì GDĐH có vai
trò quyết định đến việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) ở mọi quốc gia.
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam dần chuyển đổi sang kinh tế thị trường


(KTTT). Sự chuyển đổi này đem lại nhiều kết quả quan trọng, kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc
độ cao, đời sống vật chất và tinh thần của người dân từng bước được cải thiện Tuy nhiên, Việt
Nam vẫn thuộc nhóm nước đang phát triển và thu nhập bình quân đầu người ở mức rất thấp,
nguy cơ tụt hậu trong phát triển KT-XH vẫn hiện hữu, tiềm lực về KH-CN cũng như sức cạnh
tranh của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế đều thấp; năng lực tiếp cận nền kinh tế tri thức ở
mức rất hạn chế. Để phát triển bền vững, vượt qua được những khó khăn, thách thức trên đòi hỏi
chúng ta phải có được đội ngũ lao động có chất lượng ngày càng cao. Yêu cầu này chỉ có thể
được đáp ứng bởi một nền GDĐH phát triển.
Những năm vừa qua Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã rất
nỗ lực trong cải cách, phát triển nền giáo dục-đào tạo (GD-ĐT) nói chung, GDĐH nói riêng
nhằm xây dựng đội ngũ lao động có trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Sau 25 năm "đổi mới" theo hướng KTTT, Việt Nam cũng đã đạt
được những thành tựu nhất định trong phát triển GDĐH. Tuy nhiên, lĩnh vực GDĐH Việt Nam
vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập và lạc hậu so với nền GDĐH của các nước trong khu vực
và trên thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh của đất nước. Do vậy, mở rộng và
nâng cao chất lượng GDĐH ở Việt Nam hiện nay là rất cấp bách. Thời gian qua, đã có rất nhiều
tìm tòi, thử nghiệm những cách thức khác nhau để phát triển GDĐH, trong số đó giải pháp của
thị trường hay cơ chế thị trường (CCTT) đã và ngày càng được quan tâm, vận dụng. Một mặt,
các giải pháp của thị trường tạo điều kiện mở rộng hệ thống GDĐH. Mặt khác, việc sử dụng giải
pháp này sẽ tạo ra sức ép đổi mới, buộc các cơ sở GDĐH phải nâng cao chất lượng, đa dạng hóa
hình thức đào tạo nhằm tạo lợi thế trong cạnh tranh thu hút học sinh, sinh viên(HSSV) cũng như
các nguồn lực để tồn tại và phát triển. Vận dụng CCTT trong phát triển GDĐH không chỉ tạo
điều kiện cho việc huy động các nguồn lực của xã hội cho GDĐH mà còn mở rộng cơ hội cho
nhiều đối tượng khác nhau được học đại học (ĐH). Như vậy, việc vận dụng CCTT phát triển
GDĐH ở Việt Nam trở thành thiết yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), phát triển KTTT và hội nhập kinh tế quốc tế.
Những năm vừa qua đã có những công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này làm cơ
sở cho việc xây dựng chính sách của Nhà nước đối với GDĐH và đã đạt được một số kết quả
quan trọng. Tuy nhiên, trong thực tế việc nhận thức về những tác động cả tích cực lẫn tiêu cực
của CCTT đối với GDĐH còn chưa thấu đáo. Do đó việc triển khai phát triển GDĐH trong nền

KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) còn nhiều bất cập.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, mở cửa và hội nhập
quốc tế trên nhiều phương diện. Yêu cầu cấp thiết là phải xây dựng cho được đội ngũ lao động
chất lượng cao, đủ năng lực tham gia trên thị trường lao động quốc tế. Vì thế vận dụng CCTT để
phát triển GDĐH là không thể tránh khỏi. Ở đây vấn đề không còn là tranh luận có nên vận dụng
CCTT phát triển GDĐH hay không. CCTT đã hiện diện trong GDĐH Việt Nam. Vấn đề đặt ra là
nghiên cứu để phát hiện ra những tác động tích cực cũng như tác động tiêu cực của CCTT trong
phát triển GDĐH, tìm kiếm các yếu tố tích cực của CCTT có thể vận dụng cho phát triển GDĐH.
Theo đó việc nghiên cứu đánh giá mang tính toàn diện về vấn đề vận dụng CCTT trong phát
triển GDĐH ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết. Mục tiêu là tìm ra những yếu tố thị trường thúc
đẩy hoặc cản trở sự phát triển GDĐH từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất quan điểm và giải pháp
vận dụng CCTT phát triển GDĐH ở Việt Nam. Bởi vậy, việc nghiên cứu đề tài này mang tính
cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về GDĐH, nhưng nghiên cứu về việc vận dụng CCTT
phát triển GDĐH thì vẫn còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam. Trong những năm gần đây chủ đề
này cũng đã được đề cập nhiều trong các bài phát biểu của những người có liên quan và một số
bài đăng trên các ấn phẩm, Websites, Một số hội thảo, buổi tọa đàm cũng đã được tổ chức với
việc bàn về các khía cạnh khác nhau có liên quan đến giáo dục trong nền KTTT. Ngoài ra cũng
có một số công trình nghiên cứu về GDĐH có liên quan đến KTTT.
- Trong bài viết " Mấy vấn đề về giáo dục trong CCTT định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay", Bà Nguyễn Thị Bình- Nguyên Phó Chủ tịch nước đã đề cập đến mối quan hệ giữa giáo dục
với CCTT, giáo dục trong CCTT ở Việt Nam. Tác giả bày tỏ quan điểm về phát triển giáo dục nói
chung trong CCTT định hướng XHCN, trong đó GDĐH chỉ được nêu ra với tư cách là một bộ
phận trong tổng thể nền GD-ĐT.
- Năm 2005, ThS. Nguyễn Đông Hanh công bố Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa
học(NCKH) do Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chương trình giáo dục chủ trì với nhan đề:
“Phạm vi và đặc điểm biểu hiện CCTT trong giáo dục, đào tạo ở Việt Nam”. Đề tài có một phạm
vi nghiên cứu tương đối rộng bao gồm toàn bộ nền GD-ĐT của Việt Nam. Đề tài làm rõ một số
các biểu hiện của CCTT trong các hoạt động GD-ĐT từ đó đề xuất quan điểm và giải pháp về

phạm vi thực hiện CCTT trong GD-ĐT nói chung. Ở đây biểu hiện của CCTT trong GDĐH có
được đề cập và nghiên cứu trong phạm vi hẹp chưa mang tính hệ thống, chưa mang tính toàn
diện và chưa làm rõ tổng thể vấn đề về phát triển GDĐH trong CCTT, hay CCTT trong phát
triển GDĐH.
- Đề tài “Phát triển GDĐH Việt Nam trong CCTT” (2006) do GS.TSKH Đặng Ứng Vận làm
chủ nhiệm đã nghiên cứu trên một phạm vi rộng vấn đề phát triển GDĐH đặt trong bối cảnh cơ chế
KTTT. Các nội dung nghiên cứu của đề tài đặt trọng tâm vào vấn đề phát triển GDĐH với nhiều giải
pháp và theo hướng tổ chức một nền GDĐH phù hợp với CCTT. Các quan điểm và giải pháp được
đề xuất không mang tính chủ động vận dụng CCTT phát triển GDĐH. Nhiệm vụ của đề tài là đánh
giá tác động của CCTT từ đó đề xuất giải pháp nói chung đề phát triển GDĐH trong CCTT. Đây
chưa phải là nghiên cứu có tính chuyên sâu và chủ động trong việc đánh giá, đề xuất giải pháp của thị
trường cho phát triển GDĐH Việt Nam.
- Quỹ Hoà bình và Phát triển Việt Nam và Ban Khoa giáo Trung ương đã phối hợp tổ
chức hai cuộc toạ đàm khoa học “Giáo dục Việt Nam sau khi gia nhập WTO”, một cuộc tại Hà
nội ngày 21/4/2007 và một cuộc ở TP Hồ Chí Minh ngày 28/5/2007. Buổi tọa đàm này có mục
đích làm rõ những thỏa thuận của Việt Nam về GD-ĐT khi gia nhập WTO; xác định những cơ
hội và thách thức của GD-ĐT Việt Nam khi gia nhập tổ chức này. Vấn đề về mối quan hệ giữa
GDĐH với CCTT cũng đã được đề cập nhưng không mang tính trực diện.
- Trong bài viết "Gia nhập WTO, cơ hội - thách thức và hành động của chúng ta", Ông
Nguyễn Tấn Dũng- Thủ tướng chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã khẳng định "chấp
nhận CCTT trong đào tạo ĐH thuộc các ngành kỹ thuật- công nghệ và dạy nghề ". Ở đây vấn đề
CCTT và GDĐH đã được nhắc đến chỉ với tư cách như là một bộ phận chịu tác động của việc Việt
Nam gia nhập WTO trong bối cảnh phát triển KTTT. Tuy nhiên có thể thấy đây là một sự thừa
nhận việc CCTT đã hiện diện trong GDĐH ở Việt Nam. Mặt khác, khẳng định trên cũng cho thấy
tính chất bị động của việc vận dụng CCTT trong phát triển GDĐH ở Việt Nam.
- Trong cuốn “Giáo dục và đào tạo- chìa khóa của sự phát triển ” do TS.Đinh Văn Ân và
Hoàng Thu Hòa đồng chủ biên, xuất bản năm 2008, một số khía cạnh của thị trường GD-ĐT đã
được đưa ra phân tích: tình hình đổi mới cung ứng dịch vụ giáo dục và đào tạo ở Việt Nam trong
hơn 20 năm kể từ khi “đổi mới”, vấn đề cạnh tranh giáo dục trên toàn cầu Tuy nhiên những vấn
đề trên cũng chỉ được nghiên cứu ở mức độ rất hạn chế nhằm mục đích làm rõ hơn bối cảnh nền

GD-ĐT của Việt Nam.
- Năm 2008 GS.TS Mai Ngọc Cường xuất bản cuốn “Tự chủ tài chính ở các trường ĐH
công lập Việt Nam hiện nay ”. Cuốn sách phân tích và làm rõ những vấn đề chung về tự chủ tài
chính của các trường ĐH trong điều kiện KTTT. Đánh giá thực trạng tự chủ tài chính của các
trường ĐH công lập ở Việt Nam hiện nay; chỉ ra những thành tựu, những hạn chế trong việc tạo
lập các điều kiện thực hiện tự chủ tài chính của các trường ĐH công lập. Trên cơ sở đó, một số
phương hướng và giải pháp cho việc xây dựng các điều kiện tự chủ tài chính trong các trường
ĐH công lập đã được đề xuất và luận giải. Như vậy, ở một phạm vi nào đó, công trình này
nghiên cứu một khía cạnh nhất định của vấn đề vận dụng CCTT trong phát triển GDĐH. Tuy
nhiên, đây chưa phải là công trình nghiên cứu toàn diện về việc vận dụng CCTT trong phát triển
GDĐH ở Việt Nam.
Các công trình, bài viết, hội thảo khoa học nêu trên đã đề cập ở những khía cạnh nhất
định của việc vận dụng CCTT trong phát triển GDĐH ở Việt Nam. Một số nội dung cơ bản được
đề cập như: vấn đề có hay không dịch vụ GDĐH, tính thiết yếu phát triển GDĐH đáp ứng yêu
cầu của KTTT. Ở một số công trình trên, các giải pháp vĩ mô được đưa ra có tính đến sự tác
động của CCTT đến giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng nhưng hoặc là chưa hoàn toàn thoát
khỏi tư duy kinh tế bao cấp hoặc mới chỉ đề cập đến một mặt nào đó của vấn đề vận dụng CCTT
phát triển GDĐH. Nói cách khác, những công trình khoa học, bài viết và những cuộc hội thảo
này chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và trực tiếp về việc chủ động vận dụng CCTT
phát triển GDĐH ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn vận dụng CCTT trong phát triển
GDĐH và thực trạng vận dụng CCTT trong phát triển GDĐH tại Việt Nam. Trên cơ sở đó luận
văn đề xuất quan điểm và luận giải một số giải pháp cơ bản nhằm vận dụng CCTT trong phát
triển GDĐH ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận chung về CCTT, những tác động của nó đến hoạt động GDĐH và
một số vấn đề về GDĐH trong CCTT
- Kinh nghiệm vận dụng CCTT trong phát triển GDĐH ở một số nước điển hình trên thế

giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng CCTT trong GDĐH Việt Nam.
- Đề xuất quan điểm cơ bản và một số giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng CCTT trong
phát triển GDĐH Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu tác động của các quan hệ thị trường
đến số lượng, chất lượng các dịch vụ GDĐH.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: luận văn nghiên cứu việc vận dụng CCTT trong GDĐH ở Việt Nam
Về thời gian: luận văn nghiên cứu việc vận dụng CCTT trong phát triển GDĐH ở Việt
Nam từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; trên cơ sở nghiên cứu các tài
liệu thứ cấp và các nguồn khác nhau, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể sau: phương pháp
phân tích- tổng hợp, quy nạp- diễn dịch, thống kê-so sánh, lôgic kết hợp với lịch sử.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về CCTT trong GDĐH.
- Đánh giá khách quan thực trạng vận dụng CCTT trong phát triển GDĐH ở Việt Nam.
- Đề xuất quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu vận dụng CCTT phát triển
GDĐH ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Vận dụng CCTT trong phát triển phát triển GDĐH: cơ sở lý luận và
kinh nghiệm quốc tế
Chương 2: Thực trạng vận dụng CCTT trong phát triển GDĐH ở Việt Nam.
Chương 3: Một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu vận dụng CCTT trong phát triển
GDĐH ở Việt Nam.



References
1. Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa (2008), Giáo dục và đào tạo-chìa khóa của sự phát
triển, Nxb Tài chính, Hà Nội.
2. Nguyễn Thanh Bình (2008), Giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb ĐH Sư
phạm, Hà Nội.
3. Bộ GD-ĐT (2005), Đề án " Đổi mới GDĐH Việt Nam" (2006-2020), bản slice.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Báo cáo tổng kết năm học 2008–2009 và phương
hướng nhiệm vụ năm học 2009-2020 khối các trường ĐH, CĐ.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Báo cáo sự phát triển của hệ thống GDĐH, các giải
pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dùng cho
các khối ngành Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường ĐH, cao đẳng), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ GD-ĐT (2010), Đổi mới quản lý hệ thống GDĐH giai đoạn 2010-2012, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn
2009-2014.
9. Nguyễn Bá Cần (2009), Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
10. Nguyễn Hữu Châu (2007), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
11. Chính phủ nước cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nghị quyết về đổi mới
cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
12. CIEM (2007), Thông tin chuyên đề Phát triển con người và phát triển nguồn nhân
lực.
13. Mai Ngọc Cường (2008), Tự chủ tài chính ở các trường ĐH công lập Việt Nam hiện
nay, Nxb ĐH kinh tế quốc dân, Hà Nội.
14. Nguyễn Tấn Dũng (2006), Gia nhập WTO- cơ hội và thách thức của chúng ta.
15. Phạm Văn Dũng (2008), "Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển thị trường khoa

học-công nghệ ở Việt Nam", Tạp chí khoa học Kinh tế- Luật, 24(1), Tr. 35-47.
16. Viện nghiên cứu và Phổ biến Tri thức Bách khoa (1998) Đại từ điển KTTT, tài liệu
dịch, Hà Nội.
17. Võ Nguyên Giáp (2007), "Đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo của
nước nhà".
18. Vũ Ngọc Hải (2007), “Cung – cầu giáo dục”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, 24(9),
Tr3.
19. Nguyễn Đông Hanh (2005), Phạm vi và đặc điểm biểu hiện CCTTtrong giáo dục, đào
tạo ở Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài NCKH do Viện Nghiên cứu Chiến lược và
Chương trình giáo dục chủ trì, Hà Nội.
20. J.Hallk (2004), Giáo dục và đào tạo ĐH tại Việt Nam quá độ và thách thức phát
triển, Tài liệu giới thiệu về hoạt động hợp tác của Pháp ở Việt Nam, Đại sứ quán
Pháp tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
21. Hội đồng quốc gia giáo dục Việt Nam (2004), “Diễn đàn quốc tế về giáo dục Việt
Nam “Đổi mới giáo dục đại học và hội nhập quốc tế””, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Phạm Thị Ly, Tài chính cho GDĐH, tài liệu dịch.
23. Nghị Quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ về Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động
giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, Hà Nội, ngày 18 tháng 4 năm 2005
24. Nhiều tác giả (2007), Những vấn đề giáo dục hiện nay, quan điểm và giải pháp,NXB
Tri thức, Hà Nội.
25. Nhiều tác giả (2009), Đổi mới GDĐH Việt Nam, hai thời khắc đầu thế kỷ, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học tháng 12 . 2008 do ĐH Hoa Sen tổ chức, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Thành
phố Hồ Chí Minh.
26. Từ điển kinh tế học hiện đại (1999), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Phát triển GD-ĐT trong giai đoạn hiện nay và một số chính sách quy định mới đối
với nhà giáo (2006), Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
28. Luật giáo dục và văn bản hướng dẫn thi hành (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
29. Phạm Phụ (2005), Về khuôn mặt mới của GDĐH Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.

30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp
31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật giáo dục 2005.
32. Trần Anh Tài, Trần Văn Tùng (2009), Liên kết giữa trường ĐH và doanh nghiệp
trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
33. Ngô Ngọc Thắng (2008), " Thực hiện CCTTđịnh hướng xã hội chủ nghĩa trong
GDĐH ở nước ta hiện nay "Tạp chí cộng sản, 16(160), Tr. 20-25.
34. Lâm Quang Thiệp, Phillip G. Altbach, D. Bruce Johnstone (2006) Giáo dục đại học
Hoa Kỳ, Nxb Giáo dục, Hà Nội
35. UNDP (2003), Báo cáo về Phát triển con người
36. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2010), Báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính
sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo đối với
giáo dục đại học” của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7.
37. Đặng Ứng Vận (2006), Phát triển GDĐH Việt Nam trong cơ chế thị trường, Báo cáo
tổng hợp kết quả đề tài NCKH do Văn phòng Hội đồng quốc gia giáo dục chủ trì, Hà
Nội.
38. _la_d_ ch
_v_m_t_quan_di_m_mang_tinh_th_i_d_i
39.
/Phat_trien_giao_duc_trong_xu_huong_toan_cau/
40. _la_hang_hoa/
41.
42. ChannelID=13
43. htm
44.
45. http://ciecer. org/joomla/index.php? option=com_content&task =view&i
d=139&Itemid=43
46.
47. 148
&Itemid=2
48. &id= 222

&Itemid=136
49.
50.
51. /mlfolder. 2006-07-07.9490549875 /noi _dung/
mlfolder.2006-12-21.0795159550/mlfolder.2007-03-20.3710150521/ magazine.2007-
03-20.6978590269/view?searchterm=d?ch%20v?%20 giáo%20d?c
52. 11435706
53.
54. ch_v_
m_t_quan_di_m_mang_tinh_th_i_d_i Tianyon/Inde
x.aspx?ArticleID=277369&ChannelID=13
55.
56.
Phat_trien_giao_duc_trong_xu_huong_toan_cau/
57. duc_ la _
hang_hoa/
58. cp.doc

×