Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để hình thành nên một hợp đồng dân sự, thì sự thoả thuận bằng ý chí tự
nguyện của các bên là điều kiện không thể thiếu. Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu
lực pháp luật (được pháp luật công nhận và bảo vệ) khi ý chí của các bên phù hợp
với ý chí của Nhà nước, phải được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi
ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa
thiết thực của hợp đồng, Bộ luật dân sự (BLDS) hiện hành của nước ta đã quy định
cụ thể, chi tiết, chặt chẽ và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện cũng như
các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự. Các quy định của BLDS đã tạo ra
hành lang pháp lý thông thoáng và an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch dân
sự, tạo nên sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Như đã nói ở trên, một hợp đồng dân sự chỉ được pháp luật công nhận và bảo
vệ khi nó tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về hợp đồng. Tuy nhiên hiện
nay, hợp đồng dân sự vô hiệu ngày càng gia tăng về số lượng, phức tạp về nội dung
và tính chất, số vụ án hợp đồng dân sự vô hiệu tồn đọng ngày càng nhiều.
Nghiên cứu, tìm hiểu thế nào là hợp đồng dân sự vô hiệu, điều kiện để tuyên
bố một hợp đồng là vô hiệu, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố, hậu quả pháp lý,
quyền lợi của người thứ ba ngay tình cũng như những bất cập còn tồn tại trong các
quy định về hợp đồng vô hiệu, từ đó tìm ra hướng hoàn thiện những chế định này là
công việc cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Với các lý do trên, người viết chọn vấn
đề “Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam” để làm đề
tài nghiên cứu cho việc hoàn thành chương trình cử nhân luật học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm về
hợp đồng dân sự vô hiệu; làm rõ căn cứ pháp lý xác định hợp đồng dân sự vô hiệu;
phân tích thực tiễn giải quyết hậu quả pháp lý khi hợp đồng dân sự vô hiệu. Khi
nghiên cứu thực trạng, đánh giá hiệu quả điều chỉnh của các quy định pháp luật về
hợp đồng dân sự vô hiệu và thực tiễn việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng
dân sự vô hiệu, luận văn có đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật nhằm bảo đảm tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn giải quyết các
tranh chấp, làm cho pháp luật về hợp đồng dân sự thực sự là một trong những "công
Trang 1
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
cụ pháp lý thúc đẩy giao dịch dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước".
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề, người viết tập trung nghiên cứu những vấn đề về mặt
lý luận theo quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng dân sự vô hiệu và việc giải
quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu trong thực tiễn theo quy định
của Bộ luật dân sự năm 2005; từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
pháp về hợp đồng dân sự vô hiệu cũng như hoạt động xét xử thực tiễn tại tòa án.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài luận văn
là triết học Mác - Lênin. Trong quá trình nghiên cứu, người viết dựa trên các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến đề tài của luận văn.
Ngoài việc dựa trên phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn, người viết sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: So sánh pháp luật, logic
pháp lý, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn... để làm rõ vấn đề lý
luận cũng như thực tiễn quá trình giải quyết các tranh chấp hợp đồng dân sự vô hiệu
và hậu quả của nó trong giai đoạn hiện nay.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về hợp đồng, hợp đồng dân sự vô hiệu
- Chương 2: Những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu của pháp luật hiện
hành
- Chương 3: Thực tiễn áp dụng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu.
Trang 2
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
1.1. Khái quát về hợp đồng dân sự
1.1.1. Định nghĩa hợp đồng dân sự
Khi các mối quan hệ về tài sản, các mối quan hệ về nhân thân càng ngày
càng phát triển trong xã hội, một sự nhu cầu về trao đổi tài sản, hàng hóa cũng như
vấn đề thuê nhân lực để phục vụ cho việc phát triển tài sản của mình cũng ngày
càng phát triển theo. Một khi ý chí của các bên trong việc trao đổi đó gặp nhau ở
một số điểm nhất định, một lẽ tự nhiên họ muốn tiến tới thực hiện ý chí của nhau ở
những điểm trùng lặp đó. Tuy nhiên, việc đơn thuần để tiến hành những điểm chung
đó là chưa đủ, điều quan trọng hơn là cần phải có một cơ chế nhằm giúp đảm bảo
thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau khi các bên thực hiện ý chí của mình và từ đó
hợp đồng ra đời.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự trong
đó các bên trao đổi ý chí với nhau để đi đến một thỏa thuận chung nhằm làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định đối với nhau. Như vậy, hợp đồng dân
sự được hiểu là: “sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay mượn, tặng, cho tài
sản, làm một việc hoặc không làm một việc, một dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác
mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”.1
Dưới góc độ pháp lý thì hợp đồng dân sự được hiểu là: Sự thỏa thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.2 Hợp đồng
dân sự là một bộ phận các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất
giữa các chủ thể với nhau.
Theo Điều 388 Bộ luật Dân sự định nghĩa về hợp đồng dân sự thì hợp đồng
dân sự có hai nét cơ bản đó là: (1) Sự thỏa thuận giữa các bên và (2) làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ pháp lý. Để làm rõ khái niệm hợp đồng dân sự, có thể nhìn nhận
rằng hợp đồng dân sự trước hết phải là một thỏa thuận có nghĩa là hợp đồng phải
chứa đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết và nó phải có sự trùng hợp ý chí của các
bên. Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện, bình
1
2
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991, Điều 1.
Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 388.
Trang 3
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do giao kết hợp đồng, nhưng
không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Để làm rõ khái niệm hợp đồng dân
sự, cần phải có cái nhìn bao quát hơn về các đặc điểm của hợp đồng dân sự trên
nhiều góc độ, như: Đặc điểm về chủ thể giao kết, về mục đích giao kết, về nội dung
và hình thức của hợp đồng dân sự.
Nói tóm lại, khái niệm hợp đồng dân sự dù được xem xét ở góc độ nào thì
vẫn có thể khái quát: Hợp đồng được xem là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội. Các
chủ thể tham gia hợp đồng cùng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đều
được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh.
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng dân sự
Dù được hình thành trong lĩnh vực hay quan hệ xã hội nào thì hợp đồng luôn
có những điểm chung, cụ thể như sau:
- Hợp đồng là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện của các bên tham gia giao
kết;
- Hợp đồng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết;
- Các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng chủ yếu gắn với lợi ích vật chất của
các bên giao kết.
1.1.2.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên tham gia giao kết
Trong hợp đồng, yếu tố cơ bản nhất là sự thỏa thuận ý chí của các bên tham
gia giao kết, tức là có sự ưng thuận giữa các bên với nhau về một vấn đề nào đó mà
cả hai hay tất cả các bên cùng quan tâm hay cùng hướng đến. Nói cách khác, nếu
không có sự “thoả thuận ý chí” đó thì không thể có hợp đồng. Người ta thường gọi
nguyên tắc này là “nguyên tắc thoả thuận.”
Nguyên tắc thoả thuận là kết quả tất yếu của tự do hợp đồng: Khi giao kết
hợp đồng các bên được tự do quy định nội dung hợp đồng, tự do xác định phạm vi
quyền và nghĩa vụ của các bên, phân chia lợi nhuận, thỏa thuận luật áp dụng và cơ
quan giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên cần phải thấy rằng tự do hợp đồng không
phải là tự do tuyệt đối, tức là các bên trong quan hệ hợp đồng không thể tùy ý định
đoạt hay quy định về bất cứ vấn đề gì đi ngược lại các giá trị chung hay làm tổn hại
đến các mối quan hệ xã hội hay lợi ích công cộng khác.
Chính vì vậy, Nhà nước buộc các bên khi giao kết hợp đồng phải tôn trọng
đạo đức, trật tự xã hội, trật tự công cộng. Trong những trường hợp thật cần thiết,
Trang 4
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
nhân danh tổ chức quyền lực công, Nhà nước có thể can thiệp vào việc ký kết hợp
đồng và do đó giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng của các bên. Tuy nhiên sự
can thiệp này phải là sự can thiệp hợp lý và được pháp luật quy định chặt chẽ để
tránh sự lạm dụng, vi phạm quyền tự do giao kết hợp đồng.
Hợp đồng phải là giao dịch hợp pháp do vậy sự ưng thuận ở đây phải là sự
ưng thuận hợp lẽ công bằng, hợp pháp luật, hợp đạo đức. Các hợp đồng được giao
kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức hoặc mua chuộc là không có sự ưng
thuận đích thực. Những trường hợp có sự lừa dối, đe dọa, cưỡng bức thì dù có sự
ưng thuận (hoặc bị ép phải ưng thuận) cũng không được coi là hợp đồng. Trong các
trường hợp này, hợp đồng thường bị xem như vô hiệu và không có giá trị pháp lý.
Như vậy, một sự thỏa thuận không thể hiện ý chí thực của các bên và không thể
hiện sự tự nguyện giao kết của các bên thì không phát sinh các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các bên.
Sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng trên cơ sở tự do ý chí được cụ thể
hóa trong các quy định của pháp luật Việt Nam và được quy định thành các nguyên
tắc cơ bản trong giao kết hợp đồng. Điều 389 BLDS năm 2005 quy định về việc
tuân thủ các nguyên tắc giao kết hợp đồng, trong đó có nguyên tắc “tự do khi giao
kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” và việc giao kết
hợp đồng được thực hiện “tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và
ngay thẳng.”
1.1.2.2. Hợp đồng làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của
các bên giao kết
Xét ở góc độ bản chất là một thỏa thuận, hợp đồng bao giờ cũng làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định của các bên tham gia vì thỏa thuận của các
bên bao giờ cũng hướng đến những mục đích nhất định, những mục đích này đặt
từng bên vào các vị trí khác nhau. Do đó, họ có các quyền và nghĩa vụ cũng khác
nhau.
Ví dụ: Trong hợp đồng mượn tài sản, đối tượng của hợp đồng mượn tài sản
là một tài sản cụ thể được các bên thỏa thuận mượn hay cho mượn. Mục đích của
bên mượn tài sản có thể để thực hiện đầu tư, kinh doanh sinh lời dựa vào tài sản
mình mượn còn của bên cho mượn tài sản là để thu lãi phát sinh từ giao dịch cho
mượn tài sản. Chính vì thế, bên đi mượn tài sản có nghĩa vụ phải giữ gìn, bảo quản
tài sản và trả lại tài sản khi hết thời gian mượn, còn bên cho mượn tài sản được
quyền đòi lại tài sản khi hết thời hạn hoặc yêu cầu sửa chữa, bồi thường nếu tài sản
bị hư hỏng do lỗi của bên đi mượn.
Trang 5
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Ngay ở về khái niệm HĐDS, BLDS đã quy định rằng HĐDS là thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Theo
khái niệm này, đặc điểm “làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia giao kết” của hợp đồng được thể hiện khá rõ trong pháp luật dân sự. Các quy
định trong BLDS về một số HĐDS thông dụng như hợp đồng mua bán tài sản, hợp
đồng mua bán nhà, hợp đồng vay tài sản đều có các quy định về quyền và nghĩa vụ
của các bên trong giao dịch.
1.1.2.3. Mục đích của hợp đồng là lợi ích hợp pháp của các bên mong muốn
đạt được
Khi giao kết hợp đồng, các bên liên quan bao giờ cũng hướng đến các mục
đích nhất định. Những mục đích này phù hợp ý chí, nguyện vọng và lợi ích của các
bên và thông thường được gắn với các lợi ích vật chất. Chẳng hạn trong một hợp
đồng mua bán hàng hóa, bên mua quan tâm đến hàng hóa mà mình được nhận để
phục vụ các công việc sản xuất kinh doanh, bên bán quan tâm đến số tiền bán được
hàng sẽ thu về để tăng doanh thu. Cả hai bên khi giao kết và thực hiện hợp đồng
thành công, đều có thể thu được các lợi ích vật chất nhất định trong giao dịch.
Do các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng chủ yếu gắn với lợi ích vật chất
của các bên giao kết, pháp luật đã cụ thể hóa nguyên tắc giao kết hợp đồng để đảm
bảo các bên “cùng có lợi.” Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mỗi bên tham gia
vào quan hệ hợp đồng phần lớn đều xuất phát từ lợi ích riêng của mình. Khi ký kết
hợp đồng, các bên cùng nhau thoả thuận những điều khoản hợp đồng có lợi nhất
cho mỗi bên hoặc cả hai bên. Tuy nhiên, các lợi ích về mặt vật chất của các bên đều
phần lớn được đảm bảo, hiếm có trường hợp nào hợp đồng chỉ đảm bảo lợi ích cho
một bên, trong khi bên còn lại không được các lợi ích nào cả.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu
1.2.1. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu
Chế định hợp đồng dân sự vô hiệu hiện hành không nêu lên khái niệm thế
nào là hợp đồng dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, theo quy định của BLDS thì “các quy
định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này cũng
được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.”3 Lý do cũng khá đơn giản vì hợp đồng
theo Điều 121 BLDS, cũng là một dạng giao dịch dân sự.4
Do hợp đồng dân sự là một dạng của giao dịch dân sự vì vậy các quy định về
giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại Điều 127 BLDS sẽ được áp dụng để xem xét
3
4
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 410.
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 121.
Trang 6
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
các trường hợp vô hiệu của hợp đồng dân sự. Điều 127 BLDS không làm rõ giao
dịch dân sự thế nào được coi là giao dịch dân sự vô hiệu mà dẫn chiếu trở lại quy
định tại Điều 122 BLDS để khẳng định “Giao dịch dân sự không có một trong các
điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.” Đến lượt mình,
Khoản 1 Điều 122 BLDS quy định về các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch
dân sự, trong đó bao gồm:
Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Mặc khác, theo Khoản 2 Điều 122 BLDS lại có quy định: “Hình thức giao
dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có
quy định”. Như vậy, theo quy định tại Điều 127 BLDS, hợp đồng dân sự không có
một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 BLDS thì vô hiệu. Vô hiệu theo
nghĩa thông thường được hiểu là: “Không có hiệu lực, không có hiệu quả”. Như vậy
hợp đồng dân sự vô hiệu chính là hợp đồng không tồn tại theo quy định của pháp
luật, không có hiệu lực pháp lý.
Nói tóm lại, theo quan điểm của người viết thì: Hợp đồng dân sự vô hiệu là
một hợp đồng không thỏa mãn các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng,
không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với các bên tham
gia hợp đồng từ thời điểm xác lập. Khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên tham
gia ký kết hợp đồng phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi.
1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu
1.2.2.1. Hợp đồng không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực theo
quy định của pháp luật về hợp đồng
Khi hợp đồng không đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định thì hợp
đồng bị vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu được hiểu là hợp đồng có sự thể hiện ý chí của
các bên tham gia, nhưng có sự vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đã được
quy định trong Bộ luật Dân sự (như đã nêu ở Mục 1.2.1). Nói cách khác, chỉ khi
hợp đồng vi phạm một trong các điều kiện trên thì mới có thể bị coi là vô hiệu,
ngoài ra không còn bất cứ trường hợp vô hiệu nào khác.
1.2.2.2. Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập
Trang 7
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Do đó, khi hợp đồng này vô hiệu thì đương nhiên các
thỏa thuận đó cũng không đạt được. Bộ luật dân sự năm 2005 quy định "giao dịch
dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của
các bên kể từ thời điểm xác lập".5 Về nguyên tắc, BLDS 2005 và BLDS 1995 không
có gì thay đổi về hậu quả của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu, bởi theo điều 146
BLDS 1995 "giao dịch dân sự vô hiệu không phát sinh quyền và nghĩa vụ của các
bên từ thời điểm xác lập". Như vậy, khi hợp đồng vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của
các bên không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Nếu hợp đồng mới xác lập mà
chưa thực hiện thì các bên không được phép thực hiện, còn trường hợp đang thực
hiện thì không tiếp tục thực hiện nữa, nếu hợp đồng đã thực hiện thì các bên xử lý
tài sản. Tuy nhiên cũng nhận thấy điểm mới của BLDS 2005 so với BLDS 1995, đó
là việc bên cạnh không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, BLDS 2005
còn quy định hợp đồng vô hiệu còn không làm thay đổi hay chấm dứt quyền và
nghĩa vụ của các bên. Đây là sự bổ sung cần thiết bởi lẽ hợp đồng xác lập không chỉ
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên mà trong nhiều trường hợp, nó còn
làm thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của họ.
1.2.2.3. Các bên tham gia hợp đồng phải chịu hậu quả pháp lý nhất định
Khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên tham gia ký kết hợp đồng phải
gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi nhất định như: Không đạt được mục đích
thỏa thuận ban đầu; nếu chưa thực hiện hợp đồng thì sẽ không thực hiện giao dịch
nữa; nếu đang thực hiện thì phải chấm dứt việc thực hiện đó để quay lại tình trạng
ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu một trong các bên có lỗi làm cho
hợp đồng vô hiệu thì phải chịu bồi thường thiệt hại cho bên kia.6
Theo thứ tự quy định tại Điều 137 BLDS năm 2005, “khôi phục lại tình trạng
ban đầu” được đặt trước “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”, nhưng nếu theo
lôgic về mặt trình tự thì chỉ có thể khôi phục lại tình trạng ban đầu sau khi đã hoàn
trả lại tài sản đã nhận. Đồng thời, nhiều trường hợp “hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận” không đủ để “khôi phục lại tình trạng ban đầu” như khi tài sản hoàn trả bị hư
hỏng, hủy hoại hay được khai thác, xây dựng, sửa chữa…
Hậu quả pháp lý thứ hai của hợp đồng vô hiệu chỉ đặt ra khi các bên đang
thực hiện hoặc đã thực hiện xong hợp đồng mà không áp dụng trong trường hợp
hợp đồng mới xác lập và chưa được thực hiện hay khi đối tượng của hợp đồng là tài
5
6
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 137.
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 137.
Trang 8
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
sản bị tịch thu theo quy định của pháp luật. 7 Về nguyên tắc, các bên phải trả lại
chính tài sản đã giao cho bên kia nhưng nếu không thể trả được bằng hiện vật thì sẽ
thanh toán bằng tiền. Khi hoàn trả lại tài sản, các bên phải chứng minh được những
tài sản mà mình đã giao nhận khi thực hiện hợp đồng.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật thì “khôi phục lại tình trạng ban đầu”
thường được đồng nhất với “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”, song như đã
trình bày ở trên thì đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Tòa án buộc các bên
trong hợp đồng vô hiệu phải khôi phục lại tình trạng ban đầu khi tài sản được hoàn
trả không đúng với hiện trạng tại thời điểm xác lập hợp đồng:
Tài sản đã bị hư hỏng, giảm giá trị;
Tài sản đã được tu sửa, xây dựng, cải tạo làm tăng giá trị.
Tóm lại, khi hợp đồng dân sự bị tuyên bố vô hiệu, các bên có liên quan phải
chịu một trong những hậu quả pháp lý nhất định như: Các bên khôi phục lại tình
trạng ban đầu; hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng
hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền; trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu
được bị tịch thu theo quy định của pháp luật; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi
thường.
1.3. Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu
Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 chưa có quy định cụ thể nào về cách
phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu. Tuy nhiên có thể dựa vào một số tiêu chí cơ bản
để phân loại. Hiện nay, có 7 loại giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu từ đó
dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng, bởi vì hợp đồng là một dạng của giao dịch dân sự,
đó là: Giao địch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội; giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo; giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự xác lập, thực hiện; giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn; giao dịch dân sự
vô hiệu do lừa dối đe dọa; giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình; giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ
các quy định về hình thức. Một trường hợp nữa là hợp đồng dân sự có thể bị tuyên
bố vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.
Trong khuôn khổ của đề tài cử nhân, người viết phân loại hợp đồng vô hiệu
theo lý luận dân sự, phân biệt hợp đồng dân sự vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương
đối.
7
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 254.
Trang 9
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Trước hết cần khẳng định rằng khái niệm vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương
đối là hai khái niệm của ngành khoa học luật dân sự, mang tính lý thuyết và chưa
được sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật. Thế nhưng hai khái niệm “hợp
đồng dân sự vô hiệu tuyệt đối” và “hợp đồng dân sự vô hiệu tương đối” lại là hai
khái niệm rất quan trọng đối với khoa học luật dân sự. Chúng là công cụ không thể
thiếu được trong việc nghiên cứu bản chất của hợp đồng dân sự, cũng như trong
việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến thủ tục tuyên bố một hợp đồng dân sự
vô hiệu.
1.3.1. Vô hiệu tuyệt đối
Hợp đồng dân sự đương nhiên vô hiệu (vô hiêu tuyệt đối): Là hợp đồng
không có hiệu lực pháp luật ngay từ khi giao kết, không có giá trị về mặt pháp luật
cũng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa của các bên. Do vậy
cả trường hợp các bên tham gia hợp đồng đã ký kết và thực hiện sẽ không có giá trị
pháp lý. Các bên tham gia phải chấm dứt thực hiện và quay lại trạng thái ban đầu và
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Một hợp đồng sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau:8
Mục đích, nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
đức xã hội;9
Khi hợp đồng được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch
khác;
10
Ví dụ: A và B giao kết với nhau một hợp đồng mua bán ma túy tổng hợp.
Hành vi này đã vi phạm điều cấm của pháp luật nước ta. Vì vậy, đây là hợp đồng bị
vô hiệu tuyệt đối.
1.3.2. Vô hiệu tương đối
Hơp đồng vô hiệu khi có yêu cầu (vô hiệu tương đối): Là hợp đồng có khả
năng khắc phục, nó được coi là hợp đồng có thể có hiệu lực nhưng cũng có thể bị
vô hiệu theo sự lựa chọn của một trong các bên kia hợp đồng. Hợp đồng này thông
thường không xâm phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội và chỉ có thể bị vô
hiệu đối với bên có lỗi mà không vô hiệu với bên không có lỗi. Khi xác định hợp
đồng vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên đã thoả thuận đều không có hiệu
lực pháp luật, còn trong trường hợp hợp đồng đó được thừa nhận sau khi đã khắc
phục thì đương nhiên quyền, nghĩa vụ của các bên sẽ được pháp luật bảo vệ theo sự
8
Bộ luật dân sự 2005, Điều 136, khoản 1.
Bộ luật dân sự 2005, Điều 128.
10
Bộ luật dân sự 2005, Điều 129.
9
Trang 10
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
cam kết thoả thuận của các bên. Hợp đồng khắc phục là hợp đồng mới. Với hợp
đồng vô hiệu tuyệt đối lại khác. Đây thường là hợp đồng vi phạm điều cấm của
pháp luật nên trong thực tế Toà án và các cơ quan có thẩm quyền không cho phép
khắc phục mặc dù các bên có mong muốn được khắc phục.
Hợp đồng dân sự bị coi là vô hiệu tương đối trong các trường hợp:
Khi hợp đồng được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;11
Khi hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn;12
Khi một bên chủ thể tham gia xác lập hợp đồng do bị lừa dối, đe doạ; 13
Khi người xác lập hợp đồng không nhận thức được hành vi của mình;14
Khi hình thức của hợp đồng không tuân thủ theo các quy định bắt buộc của
pháp luật;15
Khi hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được,
nhưng phần còn lại vẫn có giá trị pháp lý.16
Ví dụ: A có một mảnh vườn rất rộng và đẹp, B rất muốn mua đất của A
nhưng dù có ra giá bao nhiêu A vẫn không chịu bán, trong lúc A say rượu B đã đưa
hợp đồng mua – bán đất cho B kí. Như vậy, việc không nhận thức và làm chủ được
hành vi của bản thân khi xác lập giao dịch thì có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự đó là vô hiệu.
1.3.3. Sự khác biệt giữa hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu
tương đối của hợp đồng
Sự phân loại nêu trên có cơ sở dựa vào một số đặc điểm khác biệt chung thể
hiện bản chất của hai khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương
đối. Đó là:
Sự khác biệt về trình tự vô hiệu của hợp đồng: Hợp đồng dân sự vô hiệu
tuyệt đối thì vô hiệu đương nhiên kể từ thời điểm giao kết. Bởi vì hợp đồng dân sự
vô hiệu tuyệt đối không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể kể từ thời điểm xác lập. Mặt khác, bất cứ chủ thể nào cũng có quyền
yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và thời hạn yêu cầu là không hạn chế.
11
Bộ luật dân sự 2005, Điều 130.
Bộ luật dân sự 2005, Điều 131.
13
Bộ luật dân sự 2005, Điều 132.
14
Bộ luật dân sự 2005, Điều 133.
15
Bộ luật dân sự 2005, Điều 134.
16
Bộ luật dân sự 2005, Điều 411, khoản 3
12
Trang 11
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Còn đối với các hợp đồng dân sự vô hiệu tương đối thì không mặc nhiên vô hiệu mà
chỉ trở nên vô hiệu khi hội tụ đủ hai điều kiện nhất định sau đây:
Khi có đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan;
Theo quyết định của Toà án.
Đây là sự khác biệt quan trọng nhất, được coi là tiêu chí hàng đầu để phân
loại một hợp đồng dân sự vô hiệu thuộc trường hợp vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu
tương đối khi nghiên cứu nội dung các văn bản quy phạm pháp luật.
Sự khác biệt về hiệu lực pháp lý của hợp đồng: Hợp đồng dân sự thuộc
trường hợp vô hiệu tuyệt đối không có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ các bên, thậm chí ngay cả trong trường hợp khi các bên đã tiến hành thực
hiện các hành vi theo nội dung cam kết. Còn hợp đồng dân sự thuộc trường hợp vô
hiệu tương đối thì được coi là có hiệu lực pháp lý cho đến khi nào bị tuyên bố vô
hiệu hoặc các bên có sự thoả thuận khác.
Sự khác biệt về thời hạn yêu cầu tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu: Đối với
các hợp đồng dân sự vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp
đồng dân sự vô hiệu không bị hạn chế. Còn đối với các hợp đồng dân sự vô hiệu
tương đối thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu
là hai năm, kể từ ngày giao kết hợp đồng. 17 Phần thời hiệu người viết sẽ nói rõ hơn
ở mục 2.3.2.
Sự khác biệt về bản chất quyết định của Toà án: Trong cả hai trường hợp thì
Toà án đều có thể ra quyết định tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu. Thế nhưng bản
chất của hai loại quyết định này có sự khác biệt cơ bản. Hợp đồng dân sự thuộc
trường hợp vô hiệu tuyệt đối bị coi là vô hiệu không phụ thuộc vào quyết định của
Toà án. Hay nói cách khác, nó bị vô hiệu ngay cả khi không có quyết định của Toà
án. Chính bởi vậy quyết định của Toà án (nếu có) đối với hợp đồng vô hiệu tuyệt
đối không mang tính chất phán xử mà đơn thuần chỉ là một trong những hình thức
công nhận sự vô hiệu của hợp đồng dựa trên các cơ sở luật định mà thôi. Đối với
hợp đồng dân sự vô hiệu tương đối, thì quyết định của Toà án là cơ sở duy nhất làm
cho hợp đồng trở nên vô hiệu. Quyết định của Toà án mang tính chất phán xử.
1.4. Quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu trong hệ thống pháp luật Việt
Nam từ năm 1980 đến nay
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
17
Bộ luật dân sự 2005, Điều 136, khoản 1.
Trang 12
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xu hướng
toàn cầu hóa đang được thể hiện rõ rệt bằng việc Việt Nam ra nhập các tổ chức
thương mại lớn của thế giới. Trong một cuộc chơi mà tiếng nói của các dân tộc là
khác nhau, nhưng vẫn phải tìm đến nhau để các bên thỏa mãn được những nhu cầu
của riêng mình, thì thứ ngôn ngữ và luật lệ chung, không có gì hơn ngoài pháp luật.
Khi giao dịch và hợp đồng dân sự ngày càng phong phú, gia tăng về số lượng, phức
tạp về nội dung và tính chất, những tranh chấp hợp đồng xảy ra cũng là điều dễ
hiểu. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng góp phần nâng cao ý thức của các chủ
thể tham gia vào quan hệ hợp đồng, giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh
trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ
thể tham gia vào quan hệ hợp đồng và tạo nên sự bình đẳng trong giao dịch dân sự.
Từ đó, các văn bản pháp luật được ra đời để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng
kinh tế, quan hệ hợp đồng dân sự nói chung và chế định hợp đồng dân sự vô hiệu
nói riêng, trong đó có Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, và Pháp lệnh hợp
đồng dân sự năm 1991 để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, dân sự trong đời sống xã
hội ngày càng phát triển. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 quy định hợp đồng
kinh tế sau đây bị coi là vô hiệu toàn bộ: Nội dung hợp đồng kinh tế vi phạm điều
cấm của pháp luật; một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong
hợp đồng; người ký hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa
đảo.18 Mặc khác, Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 cũng có quy định hợp đồng
vô hiệu toàn bộ trong các trường hợp sau đây: Nội dung hợp đồng vi phạm điều
cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội; một hoặc các bên không có quyền
giao kết hợp đồng; hợp đồng do người dưới mười tám tuổi giao kết mà không có sự
đồng ý của cha, mẹ hoặc người đỡ đầu theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của Pháp
lệnh này, thì cha, mẹ hoặc người đỡ đầu có quyền yêu câu Toà án xác định hợp
đồng vô hiệu; khi một bên hợp đồng bị nhầm lẵn về nội dung chủ yếu của hợp
đồng, bị đe doạ hoặc bị lừa dối, thì có quyền yêu cầu Toà án xác định hợp đồng vô
hiệu.19
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2013
Bộ luật dân sự đầu tiên của nước ta được Quốc Hội khóa IX kì họp thứ 8
thông qua ngày 28/10/1995, có hiệu lực thi hành từ 01/7/1996. Bộ luật dân sự năm
1995 góp phần bảo đảm cuộc sống cộng đồng ổn định, lành mạnh, giữ gìn và phát
huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, thuần phong mỹ tục và bản sắc văn
18
19
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, Điều 8.
Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991, Điều 15.
Trang 13
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
hoá dân tộc hình thành trong lịch sử lâu dài xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Chế định hợp đồng dân sự vô hiệu cũng được quy định rõ ràng hơn từ đây. Tuy vậy,
mặc dù chế định hợp đồng nói chung và hợp đồng dân sự vô hiệu nói riêng được Bộ
luật dân sự năm 1995 quy định, nhưng vẫn chưa chấm dứt Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế năm 1989, khiến cho các quy định hợp đồng dân sự vô hiệu của Bộ luật Dân sự
1995 chưa được phát huy đúng mức.
Đến khi Bộ luật dân sự mới được ban hành ngày 14/6/2005 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2006, chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm
1989. Bộ luật dân sự mới thể hiện được toàn diện về điều kiện để một hợp đồng dân
sự có hiệu lực; căn cứ pháp lý về hợp đồng dân sự vô hiệu; vấn đề bảo vệ quyền và
lợi ích của các bên khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu… cũng được quy định rõ ràng
hơn, chi tiết hơn.
1.4.3. Giai đoạn từ năm 2013 đến hiện nay
Để thể chế hóa đầy đủ các quan điểm mới của Đảng đã được ghi nhận tại
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2011 - 2020 và Cương lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); cụ thể hoá những tư tưởng,
nguyên tắc cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do sở hữu, quyền tự do kinh
doanh, quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu và
thành phần kinh tế, về việc tăng cường các biện pháp để bảo vệ các quyền con
người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự,…vì lẽ đó dự thảo
sửa đổi BLDS 2005 ra đời.
Nói về khía cạnh liên quan đến giao dịch dân sự và hợp đồng dân sự vô hiệu,
dự thảo sửa đổi BLDS 2005 có những thay đổi như: (1) Sửa đổi, bổ sung quy định
về giao dịch dân sự (hành vi pháp lý); (2) các quy định liên quan đến hình thức và
sự vi phạm hình thức của giao dịch đã được xây dựng theo hướng: Giao dịch vi
phạm hình thức chỉ vô hiệu trong một số trường hợp đặc biệt; quy định về hậu quả
pháp lý của giao dịch vô hiệu được sửa đổi để bảo đảm công bằng hơn giữa các chủ
thể; quyền của người thứ ba ngay tình được bảo vệ triệt để hơn theo nguyên tắc nếu
tài sản đã được đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng và đã được chuyển giao cho
người thứ ba ngay tình thì việc chuyển giao vẫn có hiệu lực pháp luật. Về phần hợp
đồng, dự thảo sửa đổi BLDS mới đã sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một số điều
phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
1.5. Vai trò của những quy định pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu
Trang 14
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Từ khi BLDS năm 1995 ra đời cho đến BLDS 2005, với những quy định cụ
thể về hợp đồng dân sự, trong đó có việc xác định hợp đồng dân sự cũng như hợp
đồng dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 BLDS năm 2005 đã thực sự đáp ứng
được rất nhiều yêu cầu thực tế phát sinh trong đời sống và trong các hợp đồng diễn
ra hàng ngày. Các điều luật này đã giải quyết được những hợp đồng có yếu tố vi
phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự quy định tại Điều 122 BLDS 2005,
đảm bảo cho việc thiết lập các hợp đồng đó được pháp luật bảo vệ. Nhờ có quy
phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh, khi phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp có liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng được giải quyết nhanh
chóng và chính xác. Đồng thời, các điểm điều khoản như quy định thế nào là nhầm
lẫn, đe dọa, lừa dối, hay vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội...cũng
là yếu tố khiến người tham gia hợp đồng tự xác định được hành vi của mình. Mặt
khác pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu cũng có tính răn đe, cảnh cáo với những
đối tượng có chủ ý vi phạm pháp luật nhằm xác lập hợp đồng. Đây cũng là cơ sở
pháp lí rõ ràng cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân
sự cụ thể, rõ ràng, chính xác; đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các cá nhân, pháp
nhân và cả Nhà nước; đảm bảo an toàn pháp lí cao cho các bên chủ thể tham gia
hợp đồng dân sự. Đồng thời là cơ sở vững chắc cho việc yêu cầu bồi thường thiệt
hại, thực hiện nghĩa vụ đối với bên chủ thể có lỗi. Việc ghi nhận quy phạm hợp
đồng dân sự vô hiệu cũng có ý nghĩa vô cùng to lớn, quan trọng trong việc thiết lập
trật tự, kỉ cương xã hội, tăng cường việc xây dựng Nhà nước ta thành Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, hiện nay các quy định về hợp đồng vô hiệu vẫn còn nhiều vướng
mắc. Các quy định có phần còn cứng nhắc, chưa đầy đủ, có quy định còn chồng
chéo, gây nên cách hiểu không thống nhất. Ví dụ như: Các căn cứ để tuyên bố hợp
đồng vô hiệu còn có nhiều điểm chưa rõ ràng; hậu quả pháp lý của hợp đồng vô
hiệu còn quy định chung chung, khó áp dụng. Quyền lợi của các chủ thể tham gia
quan hệ dân sự không được đảm bảo thỏa đáng khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.
Cụ thể những nội dung này người viết sẽ trình bày ở Chương 2.
1.6. Một số điểm mới của dự thảo sửa đổi BLDS 2005 ngày 17/6/2014 của
Bộ Tư Pháp liên quan đến hợp đồng dân sự vô hiệu
Như người viết đã trình bày, do yêu cần thực tiễn thì một số điều của BLDS
2005 liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và hợp đồng dân sự vô hiệu
nói riêng đã không còn phù hợp nữa. Vì lẽ đó, dự thảo sửa đổi BLDS 2005 ngày
17/6/2014 của Bộ Tư Pháp (sau đây gọi chung là dự thảo sửa đổi BLDS 2005) ra
đời đã sửa đổi, bổ sung toàn diện các quy định liên quan đến giao dịch dân sự và
Trang 15
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
hợp đồng dân sự vô hiệu trong BLDS hiện hành, một số điều cơ bản được sửa đổi,
cụ thể như sau:
- Liên quan đến Điều 121 BLDS 2005
+ Cụm từ “giao dịch dân sự” tại Điều 121 BLDS 2005 nay được sửa lại
thành “hành vi pháp lý”, trong đó, nó bao gồm hợp đồng và hành vi pháp lý đơn
phương. Xét về câu chữ, dự thảo quy định không khác BLDS hiệu hành là mấy, tuy
nhiên, việc bổ sung vào cụm từ “thể hiện ý chí nhằm” có thể khẳng định mạnh hơn
ý chí, trách nhiệm, mục đích của các chủ thể khi tham gia giao dịch;
+ Mục đích của giao dịch dân sự tại Điều 123 BLDS 2005 nay được bỏ và
quy định mới thành “mục đích của hành vi pháp lý”;
+ Một số khái niệm được quy định như: Điều cấm của pháp luật; Đạo đức xã
hội; Lừa dối; Đe dọa; Sự kiện bất khả kháng; Trở ngại khách quan và đặc biệt là có
thêm quy định mới “cưỡng ép”.
- Liên quan đến điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Cũng giống như BLDS 2005, dự thảo sửa đổi lần này quy định hành vi pháp
lý muốn có hiệu lực phải đáp ứng các điều kiện như: (1) Năng lực của chủ thể bao
gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp lý, (2) mục đích và nội dung của
hành vi pháp lý phải phù hợp đạo đức xã hội và không vi phạm điều cấm của pháp
luật, (3) sự tự nguyện của các chủ thể khi tham gia xác lập, (4) quy định thông
thoáng hơn về hình thức của hành vi pháp lý “Hình thức của hành vi pháp lý là điều
kiện có hiệu lực trong trường hợp luật định”.
- Về các trường hợp hành vi pháp lý vô hiệu
Về tổng quan, các điều khoản làm cho hành vi pháp lý vô hiệu trong dự thảo
sửa đổi BLDS 2005 lần này có sự thay đổi lớn so với BLDS 2005, cụ thể:
+ Bãi bỏ điều 127 BLDS 2005 về giao dịch dân sự vô hiệu
+ Vẫn quy định 7 trường hợp làm cho hành vi pháp lý vô hiêu như luật cũ,
bao gồm: (1) Hành vi pháp lý vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo
đức xã hội; (2) Hành vi pháp lý vô hiệu do giả tạo; (3) Hành vi pháp lý vô hiệu do
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi xác lập, thực hiện; (4) Hành vi pháp lý vô hiệu do bị
nhầm lẫn; (5) Hành vi pháp lý vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; (6) Hành vi
pháp lý vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình; (7) Hành vi pháp lý không tuân thủ quy định về hình thức. Tuy nhiên, sự thay
Trang 16
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
đổi lớn nhất ở các nội dung này là quy định rõ ràng hơn về các điều kiện làm cho
hành vi pháp lý vô hiệu như: Về chủ thể tham gia xác lập hành vi pháp lý, điều kiện
để làm hành vi pháp lý vô hiệu, các cơ sở, căn cứ, trách nhiệm của các bên khi tham
gia xác lập cũng được quy định rõ hơn. Trong phần này thì “cưỡng ép” là một quy
định mới làm cho hành vi pháp lý vô hiệu.
+ Trường hợp hợp đồng vô hiệu và hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không
thể thực hiện được không có sự thay đổi về nội dung so với quy định trong BLDS
2005.
- Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu
+ Nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ thể khi hành vi pháp lý cũng như hợp
đồng vô hiệu, thời hiệu yêu cầu hành vi pháp lý vô hiệu được nâng từ hai năm lên
thành ba năm đối với các quy định từ Điều 128 đến Điều 131 của dự thảo sửa đổi
BLDS.
+ Đối với các trường hợp: Hành vi pháp lý vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật và trái đạo đức xã hội và vô hiệu do giả tạo thì thời hiệu yêu cầu là ba
mươi năm.
Như vậy, dự thảo sửa đổi BLDS 2005 đã quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn từ
các điều kiện cơ bản để hành vi pháp lý và hợp đồng có hiệu lực cũng như đến các
trường hợp vô hiệu.
Nhìn chung, dự thảo sửa đổi BLDS đã được chuẩn bị công phu, cơ bản thể
chế hóa đầy đủ, toàn diện các quan điểm, chủ trương của Đảng tại Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn
2011-2020 và Cương lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011); các quy định về hành vi pháp lý nói chung và
hợp đồng dân sự nói riêng được hoàn thiện hơn; cụ thể hóa các quy định về quyền
sở hữu, quyền tự do kinh doanh, tăng cường các biện pháp bảo vệ các quyền con
người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự trong Hiến pháp
2013. Dự thảo cũng đã cơ bản đảm bảo sự kế thừa và phát triển các quy định của
pháp luật dân sự còn phù hợp với thực tiễn cuộc sống, bảo vệ các giá trị văn hóa,
tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp của nước ta.
Tóm tắt chương 1: Trong này người viết người viết đã trình bày một số điều
khoản cơ bản mang tính lý luận liên quan đến hợp đồng và hợp đồng dân sự vô hiệu
được quy định trong BLDS 2005, cụ thể như: Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng,
khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu; phân loại hợp đồng dân sự;
Trang 17
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
lịch sử hình thành chế định hợp đồng dân sự vô hiệu; vai trò của chế định hợp đồng
dân sự vô hiệu; cuối cùng là những điểm mới trong dự thảo sửa đổi BLDS 2005 liên
quan đến hợp đồng dân sự vô hiệu. Liên quan đến những quy định về các trường
hợp hợp đồng dân sự vô hiệu cũng như thực tiễn, người viết sẽ trình bày ở những
chương tiếp theo.
CHƯƠNG 2
CÁC QUY ĐỊNH VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Điều kiện hợp pháp để hợp đồng dân sự có hiệu lực
Trang 18
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Hợp đồng dân sự là một dạng của giao dịch dân sự. 20 Vì lẽ đó, các quy định
về giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại Điều 127 BLDS 2005 sẽ được áp dụng để
xem xét các trường hợp vô hiệu của hợp đồng dân sự. Điều 127 BLDS 2005 không
làm rõ giao dịch dân sự thế nào được coi là giao dịch dân sự vô hiệu mà dẫn chiếu
trở lại: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều
122 của Bộ luật này thì vô hiệu”.
Bộ luật dân sự năm 2005 quy định khá cụ thể về các điều kiện có hiệu lực
của một giao dịch dân sự, trong đó bao gồm:21
Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Mặc khác, theo Khoản 2 Điều 122 BLDS 2005 lại có quy định: “Hình thức
giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật
có quy định”. Như vậy, theo quy định tại Điều 127 BLDS 2005, hợp đồng dân sự
không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 BLDS 2005 thì vô
hiệu. Để hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp luật, thì hợp đồng dân sự đó phải hội tụ
đủ những điều kiện sau:
2.1.1. Điều kiện về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng
Theo quy định của BLDS 2005 thì: "Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là
khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền nghĩa vụ dân
sự".22
Để phân biệt khả năng tham gia giao dịch dân sự, pháp luật nước ta căn cứ
vào độ tuổi của cá nhân:
Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên; người chưa đủ 18 tuổi là
người chưa thành niên.23
Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được tự do giao dịch
dân sự trong khuôn khổ của pháp luật.24
Người đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là những người có năng lực hành vi dân
sự hạn chế. Tính hạn chế năng lực hành vi dân sự thể hiện ở chỗ: Những cá nhân đó
20
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 121.
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 122.
22
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 17.
23
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 18.
24
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 19.
21
Trang 19
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
“khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại
diện hoặc người giám hộ, nếu không có sự đồng ý của người đại diện hoặc giám hộ
thì giao dịch đó vô hiệu. Trừ giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày phù hợp với lứa tuổi”.25
Người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự, mọi giao dịch của họ
phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.26 Có nghĩa là, họ không thể tự
mình tham gia vào bất kỳ một giao dịch dân sự nào.
Một quy định ngoại lệ của BLDS 2005 là: "Trong trường hợp người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không đòi hỏi có
sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác".27
Căn cứ vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, cũng như khả năng
thực hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm của mỗi cá nhân, pháp luật nước ta quy định
mất năng lực hành vi dân sự của cá nhân như sau:
Người mất năng lực hành vi dân sự là người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc
các bệnh khác mà không thể nhận thức làm chủ được hành vi của mình, thì theo
yêu cầu của người có quyền lợi, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự trên có sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân
sự, thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc người có quyền lợi, lợi ích liên quan,
Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.28
Ngoài việc quy định về những bệnh gây cho người mất khả năng nhận thức
hành vi của mình, để phù hợp với diễn biến phức tạp trong thực tế, BLDS 2005 còn
dự liệu khả năng "mắc các bệnh khác". Tuy nhiên, trong thực tiễn việc xác định loại
bệnh nào được liệt kê vào diện "mắc các bệnh khác" là rất phức tạp, hiện nay Tòa
án chưa có một hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Qua nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự tại TAND, người viết
thấy rằng "mắc các bệnh khác" có thể được hiểu một cách khái quát như sau:
Loại trừ các bệnh liên quan đến tâm thần
25
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 20.
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 21.
27
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 20, khoản 2.
28
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 22.
26
Trang 20
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Đang mắc một bệnh mà bệnh này hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi dân sự của người đó. Ví dụ, bệnh viêm màng não, già yếu lú lẫn…
Những người này, khi tham gia giao dịch dân sự sẽ gây hại đến quyền, lợi ích
bình thường của chính cá nhân người đó hay của người khác. Vì vậy, người có
quyền lợi, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố họ bị mất năng lực hành
vi dân sự. Khi đã bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì mọi hành vi đối với
giao dịch dân sự của họ đều phải có người giám hộ, việc cử người giám hộ sẽ tuân
theo quy định của pháp luật. Còn trong một thời gian nhất định, năng lực hành vi
dân sự của các cá nhân này được phục hồi, theo yêu cầu của họ hoặc người liên
quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố hủy bỏ việc họ mất năng lực hành vi dân sự
nhưng trên thực tế những loại bệnh này ít khi được quan tâm đến vấn đề cử người
giám hộ cho họ.
Ví dụ, người già ốm mà không nhận thức được một cách bình thường và hay
bị lú lẫn. Nếu họ hoặc bị người khác xúi giục để xác lập một giao dịch dân sự dẫn
đến quyền lợi của họ hoặc gia đình họ bị thiệt thòi (như ký bán nhà, bán tài sản....)
thì Tòa án cần tuyên bố giao dịch này vô hiệu và giải quyết hậu quả giao dịch dân
sự vô hiệu theo quy định pháp luật.
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là "người nghiện ma túy, nghiện
các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết
định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự" (Khoản 1 Điều 23).
Theo đó, một người có thể bị tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
trong các trường hợp sau:
Họ là người có khả năng tham gia giao dịch dân sự bình thường;
Bị nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác;
Có hành vi phá tán tài sản gia đình và họ hàng và theo yêu cầu của người có
quyền yêu cầu Tòa án và Tòa án chấp nhận yêu cầu đó;
Ma túy theo pháp luật dân sự không quy định bao gồm những chất gì. Tuy
nhiên, theo quy định trong các văn bản pháp luật hình sự Việt Nam, bao gồm một
số chất như thuốc phiện, quả của cây thuốc phiện, cần sa, hê-rô-in, cô-ca-in, moocphin, cô-đê-in, pê-đi-thin; các chất dùng tổng hợp chất ma túy, các loại thuốc tân
dược gây nghiện khác.
Các chất kích thích khác có thể được hiểu là rượu, hoặc chất nào đó mà khi sử
dụng ở mức độ nghiện ngập, dẫn tới việc không làm chủ được hành vi của mình.
Trang 21
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Tuy nhiên, kèm theo điều kiện bị nghiện, họ phải có hành vi phá tán tài sản của gia
đình, thể hiện là hành vi bán, đổi, tặng, cho... tài sản của gia đình. Tài sản của gia
đình ở đây có thể hiểu là tài sản chung có được ở thời điểm mà người nghiện thực
hiện hành vi phá tán, hoặc là lấy tài sản của người khác trong gia đình. Tài sản có
thể là tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng và những tài sản phải gây thiệt hại ảnh
hưởng đến kinh tế gia đình .
Người có quyền lợi, lợi ích theo liên quan (thành viên trong gia đình) hoặc
cơ quan, tổ chức hữu quan (trong trường hợp bảo vệ phụ nữ, trẻ vị thành niên trước
hành vi phá tán của người chồng, người cha...) có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố hạn
chế năng lực hành vi dân sự của họ, với mục đích bảo vệ tài sản, bảo vệ quyền lợi
cho thành viên khác của gia đình. Khi nhận được đơn của những người này, Tòa án
phải xác minh thực tế xem có đúng như đơn trình bày hay không, trên cơ sở đó Tòa
án có quyết định tuyên bố người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Các hợp đồng dân sự được giao kết có liên quan đến người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự sẽ bị coi là vô hiệu, trừ trường hợp những hợp đồng đó khi xác
lập đã thông qua người đại diện và những giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày như: Ăn, mặc, quà, bánh, học hành...
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể được Tòa án tuyên bố hủy
bỏ tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, nếu trên thực tế không còn căn cứ để
hạn chế năng lực hành vi dân sự của họ.
Nói tóm lại, để hợp đồng dân sự có hiệu lực khi giao kết, thì các bên tham
gia giao kết hợp đồng phải thỏa mãn các điều kiện về mặt chủ thể như: Độ tuổi,
năng lực hành vi dân sự… nếu không thỏa mãn điều kiện này, hợp đồng dân sự có
thể bị vô hiệu.
2.1.2. Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng
Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thoả mãn được các nhu cầu về đời sống
vật chất cũng như tinh thần, Bộ luật Dân sự cho phép mọi chủ thể được quyền "tự
do giao kết hợp đồng". Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách
chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kì một hợp đồng dân sự nào, nếu họ
muốn mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có
quyền giao kết những hợp đồng dân sự đã được pháp luật quy định cụ thể cũng như
những hợp đồng dân sự khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tuy nhiên, sự tự do
ý chí đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền
lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người
khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải không trái
Trang 22
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
pháp luật, đạo đức xã hội. Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa
vụ, mỗi một chủ thể vừa có quyền "tự do giao kết hợp đồng" vừa có nghĩa vụ tôn
trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp
luật) và đạo đức xã hội được coi là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi một chủ thể
trong việc giao kết hợp đồng dân sự nói riêng, cũng như đối với mọi hành vi nói
chung của họ.
Theo nghĩa thông thường "mục đích" có thể hiểu là "cái vạch ra làm đích
nhằm đạt cho được" “hoặc là cái mình muốn đạt được”. Trong luật dân sự Việt
Nam thì mục đích của giao kết hợp đồng dân sự được hiểu là lợi ích hợp pháp mà
các bên đã vạch ra sẵn trong ý nghĩ của mình và mong muốn đạt được khi tham gia
xác lập.
Theo từ điển Tiếng Việt “nội dung” là "mặt bên trong của sự vật, cái được
hình thức chứa đựng hoặc biểu hiện". Trong giao kết hợp đồng dân sự, nội dung
được hiểu theo nghĩa rộng, là tất cả các điều kiện có liên quan đến hợp đồng, như:
Điều kiện về chủ thể; về đối tượng; số lượng; về hợp đồng có điều kiện hoặc các
nguyên tắc của hợp đồng. Còn theo nghĩa hẹp nội dung được hiểu là tổng hợp các
điều khoản mà các bên thỏa thuận hoặc tuyên bố nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Sự tự do thoả thuận đặt trong khuôn khổ của
pháp luật, nghĩa là không trái pháp luật.
Các thỏa thuận trái pháp luật ở đây được hiểu là các thỏa thuận mà mục đích
và nội dung vi phạm các quy định của pháp luật dân sự. Trái pháp luật ở đây không
chỉ là trái với pháp luật dân sự mà còn trái cả với các văn bản pháp luật trong các
lĩnh vực khác hoặc trái với chính sách của Nhà nước trong, như: Hình sự; lao động;
thương mại…
Trong pháp luật dân sự tuy có quy định về khái niệm đạo đức xã hội, nhưng
hiện nay chúng ta chưa có một văn bản pháp luật chính thức nào của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải thích về vấn đề này. BLDS 2005 chỉ nêu nguyên tắc tôn
trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. 29 Để hiểu rõ khái niệm đạo đức xã
hội, đạo đức có thể được hiểu là "những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội
thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội".
Như vậy, chúng ta có thể hiểu đạo đức xã hội là những chuẩn mực xử sự được xã
hội thừa nhận và nó thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử nhất định, phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị.
Có thể so sánh đôi nét giữa pháp luật và đạo đức xã hội như sau:
29
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 8
Trang 23
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
* Pháp luật
Do Nhà nước ban hành, có tính chất giai cấp
Được Nhà nước bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước
* Đạo đức xã hội
Hình thành tự phát, được cộng đồng con người chấp nhận, thừa nhận chung
Được duy trì, bảo đảm bằng dư luận xã hội, tập quán, không có tính chất
cưỡng chế thực hiện
Tóm lại, trong “xã hội xã hội chủ nghĩa” – mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà
nước ta đang theo đuổi, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho phép các cá
nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng dân sự thành phương tiện bóc
lột. Do đó, tự do của các bên trong giao kết hợp đồng là “tự do trong khuôn khổ”
hoặc “tự do hữu hạn”, nghĩa là mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.30
2.1.3. Điều kiện về sự tự nguyện khi tham gia giao kết hợp đồng
Trong giao kết hợp đồng dân sự, yếu tố tự nguyện đóng vai trò rất quan
trọng, có thể nói là yếu tố đặc trưng của pháp luật dân sự nói chung và hợp đồng
dân sự nói riêng, là căn cứ để các chủ thể xác lập một hợp đồng dân sự nhằm làm
phát sinh quyền nghĩa vụ dân sự của các bên. Ý chí tự nguyện của chủ thể là tiền đề
quan trọng để hình thành hợp đồng, nhưng hợp đồng dân sự chỉ được pháp luật
công nhận mới phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự trên thực tế. Vì lẽ đó, yếu tố tự
nguyện là một trong những nguyên tắc không thể thiếu được trong giao kết hợp
đồng dân sự.
Điều kiện cần, để một "người" tham gia vào giao dịch dân sự một cách tự
nguyện, thì "người" đó phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự như
đã phân tích ở mục 2.1.1 của luận văn. Nguyên tắc này có tính truyền thống và lâu
đời, tồn tại cùng với quá trình hình thành và phát triển của luật dân sự và nó tồn tại
ở trong nhiều ngành luật khác nhau. Trước đây nguyên tắc tự nguyện được ghi nhận
tại Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991: "Hợp đồng dân sự được giao kết
theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng". Sau này, kế thừa và phát triển quy định đó,
BLDS 2005 quy định tại khoản 2 Điều 389 quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng
là: “Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng”.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi
các bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai
30
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 122, khoản 1, điểm b.
Trang 24
Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
được lấy lý do khác biệt về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn
cảnh kinh tế v.v. để làm biến dạng các quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các
bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng thì ý chí tự
nguyện của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc trên, những
hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các bên sẽ
không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, đánh giá một hợp đồng có phải là thỏa
thuận thể hiện ý chí tự nguyện của các bên hay không là một công việc tương đối
phức tạp.
Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia.
Vì thế, muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay không,
cần phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: ý chí và sự bảy tỏ ý
chí. Như chúng ta đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên trong của mỗi một chủ
thể. Nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình thức nhất định. Ý chí và
sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn có quan hệ mật thiết, gắn bó
khăng khít với nhau. Ý chí tự nguyện chính là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan
bên trong và sự bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài. Vì vậy, để xác định một hợp đồng dân
sự có tuân theo nguyên tắc tự nguyện hay không cần phải dựa vào sự thống nhất ý
chí của người giao kết hợp đồng và sự thể hiện (bày tỏ) ý chí đó trong nội dung của
hợp đồng mà người đó đã giao kết. Chỉ khi nào hợp đồng là hình thức phản ánh một
cách khách quan, trung thực những mong muốn bên trong của các bên giao kết thì
việc giao kết đó mới được coi là tự nguyện. Như vậy, tất cả các hợp đồng được giao
kết do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc đe dọa đều là những hợp đồng không đáp ứng
được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết; và vì thế, nó sẽ bị coi là vô.
2.1.4. Điều kiện về hình thức của hợp đồng
Theo quy định tại Điều 401 BLDS 2005 thì hợp đồng dân sự: “Hợp đồng
dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể,
khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình
thức nhất định”.
Vì hợp đồng cũng là một loại giao dịch dân sự, nên từ các quy định nêu trên
có thể thấy rằng, hình thức của hợp đồng bao gồm các loại sau: Bằng lời nói, bằng
văn bản và bằng hành vi cụ thể. Hình thức của hợp đồng dân sự tương đối đa dạng,
nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể ký kết có được sự thuận tiện cần thiết để thực
hiện những gì giao kết. Đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật đã quy định
buộc phải giao kết theo một hình thức nhất định, thì các bên phải tuân theo các hình
thức đó. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng các hình thức sau đây:
Trang 25