Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

ĐỀ CƯƠNG LỊCH sử ĐẢNG lớp TRUNG cấp CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.78 KB, 31 trang )

ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ ĐẢNG LỚP TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH
Câu 1 : Anh (chị) hãy nêu và phân tích ý nghĩa con đường cứu nước giải phóng dân
tộc mà lãnh tụ NAQ và Đảng ta đã nhấn mạnh : “…đây là sự lựa chọn của chính lịch
sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ 1930 với sự ra đời của Đảng ta” (văn kiện ĐH đại biểu
toàn quốc lần 7)? Liên hệ về con đường cách mạng hiện nay ở nước ta?
Trả lời:
Hoàn cảnh lịch sử thế giới cuối TK19 đầu TK20 :
- Từ nửa sau thế kỷ 19, CNTB chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh phát triển
sang giai đoạn CNĐQ, tiến hành xâm chiếm các nước thuộc địa. Hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân ra đời. Mâu thuẫn mới xuất hiện : >< giữa các dân tộc thuộc
địa với CNĐQ.
- Phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh
mẽ, tác động sâu sắc đến nước ta.
- Thắng lợi của cuộc CM tháng 10 Nga (1917) và sự ra đời của QTCS (Quốc tế
III-1919) làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới, mở đầu thời đại mới – thời đại quá độ
từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Tình hình trong nước :
Ngày 1-9-1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược VN. Đến năm 1897, thực dân P
hoàn thành công cuộc xâm chiếm Bình Định VN và bắt đầu xác lập chế độ cai trị, khai
thác thuộc địa ở VN trên tất cả các lĩnh vực :
. Về chính trị : Điển hình là chính sách “chia để trị”
. Về kinh tế : Thực dân P tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa : lần thứ 1
(1897-1914), lần thứ 2 (1919-1929)
. Về văn hóa : Thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, thực hiện chính sách
ngu dân và ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ thế giới vào VN.
- Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân P, xã hội VN đã
có những biến chuyển sâu sắc.
. Về tính chất xã hội : từ xã hội phong kiến thành XH thuộc địa nửa phong kiến.
. Về >< cơ bản trong xã hội : nổi bật 2 >< : >< giữa toàn thể dân tộc VN với
thực dân P và tay sau, >< giữa nông dân với địa chủ phong kiến.



. Về cơ cấu giai cấp trong XH : giai cấp cũ (địa chủ phong kiến và nông dân) bị
phân hóa; xuất hiện những giai cấp mới (công nhân, TS và tiểu TS)
- Phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân VN trước 1930 rất sôi nổi
nhưng đều thất bại mặc dù đã được thử nghiệm theo các hệ tư tưởng khác nhau như :
+ Các phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến :
. Phong trào Cần Vương với các cuộc khởi nghĩa : khởi nghĩa Ba Đình (18811887), khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892), khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896)…
. Cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo ở miền
núi phía Bắc (1897-1913)
+ Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ TS/;
. Xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu hướng cải lương của Phan Chu
Trinh.
. Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận TS và địa chủ lớp trên (1919-1923)
. Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu TS thành thị và TS lớp dưới
(1925-1926)
. Phong trào CM quốc gia TS của VN quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học đứng
đầu (1927-1930) và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930)
Nguyên nhân các phong trào đấu tranh thất bại :
+ Chưa thấy được tính chất thời đại đã thay đổi sau Cách mạng tháng Mười, mở
ra thời đại mới.
+ Chưa thấy được giai cấp lãnh đạo cách mạng đã thay đổi.
+ Chưa thấy được mối quan hệ dân tộc và giai cấp.
+ Chưa thấy được mối quan hệ dân tộc và quốc tế
+ Chưa thấy được bản chất của chủ nghĩa tư bản
+ Chưa thấy được sức mạnh, vai trò của quần chúng nhân dân khi có Đảng cộng
sản lãnh đạo.
Trước yêu cầu cấp bách phải tìm 1 con đường cứu nước mới, ngày 5-6-1911
Nguyễn Ai Quốc đã lên đường sang các nước phương tây nơi có KHKT phát triển và
những tư tưởng dân chủ tự do, xem xác nước làm thế nào để rồi trở về giúp đồng bào
mình thoát khỏi ách nô lệ. Người đã gặp đc Chủ nghĩa Mác-Lenin cũng là thời điểm

người thấy được những >< trên và đã được giải quyết khi ĐCSVN ra đời.
ĐCSVN ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp ở VN trong thời đại mới, đó là sp của sự kết hợp CN Mac – Lenin với p/trào công
nhân và p/trào yêu nước VN.


Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh CM đúng đắn
đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và lãnh đạo của các p/trào yêu nước đầu thế
kỷ XX. Sự kiện thành lập Đảng là bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử
CMVN. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản VN trưởng thành và đủ sức lãnh đạo CM. Đảng
ra đời làm cho CMVN trở thành 1 bộ phận khăng khít của CMTG.
Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu cầu tiên có tính chất quyết định cho
những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc VN.
Sự ra đời của Đảng khẳng định con đường đi lên của dân tộc VN từ năm 1930 là
con đường CMVS, gắn mục tiêu độc lập dân tộc với CNXH là con đường đúng đắn
phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
+ Phương hướng CM : là làm TS dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới XH
cộng sản.
+ Mục tiêu : Độc lập dân tộc gắn liền CNXH
+ Nhiệm vụ : chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành
độc lập cho dân tộc và ruộng đất chod ân cày, nhưng nhiệm vụ giành độc lập cho dân
tộc được đưa lên hàng đầu.
+ Lực lượng cách mạng : phải đoàn kết công nhân, nông dân đây là lực lượng cơ
bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các
giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai.
+ Phương pháp cách mạng : sử dụng bạo lực CM của quần chúng để đánh đổ đế
quốc phong kiến.
+ Quan hệ quốc tế : CMVN là một bộ phận của CM thế giới.
+ Vai trò của Đảng : vai trò CM của Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân

* Con đường cách mạng hiện nay ở nước ta :
Đại hội IV của Đảng đề ra : đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn mới ở nước ta là “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành động thời ba cuộc cách mạng : cách
mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn
hóa, trong đó cách mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của các thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không
ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị
và trật tự xã hội”


Câu 2 : Anh (chị) hãy cho biết sự vận dụng đúng đắn sáng tạo học thuyết của chủ
nghĩa Mác-Lênin về Đảng cộng sản; sự phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta trong việc thành lập Đảng CSVN? Liên hệ với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng
hiện nay là nhiệm vụ then chốt?
Trả lời:
Sự vận dụng đúng đắn sáng tạo học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng
cộng sản; sự phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc thành lập
Đảng CSVN :
Giữa lúc dân tộc Việt Nam đang khủng hoảng về đường lối cứu nước thì với bản
lĩnh và tư duy độc lập, tháng 6/1911 Nguyễn Ai Quốc đã lên đường sang các nước
phương Tây, nơi có khoa học – kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do để
tìm đường cứu dân tộc thoát khỏi ách nô lệ.
Năm 1917, với sự thắng lợi của Cách mạng XHCN tháng Mười Nga đã mở ra
một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên
phạm vi toàn thế giới. Đồng thời đã có ảnh hưởng quyết định đến cuộc đời hoạt động
cách mạng của Nguyễn Ai Quốc.
Tháng 7-1920, được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề

dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo nhân đạo đã giải đáp cho Nguyễn
Ai Quốc con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
Ngày 30-12-1920, Nguyễn Ai Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng
sản, sau đó tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản đầu
tiên của dân tộc Việt Nam.
Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng chính trị của
Nguyễn Ai Quốc, gắn liền tư tưởng yêu nước với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin. Người quyết định đặt cách mạng
giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Với sự chuẩn bị công phu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về các mặt như : Hoạt
động thực tiễn vừa tích cực nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong
trào cách mạng trong nước; trực tiếp chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng – chính trị;
viết sách báo tập trung lên án chủ nghĩa thực dân và thực dân Pháp, vạch trần bản chất
xâm lược phản động, bóc lột đàn áp nhằm đánh thức lòng yêu nước, ý chí phản kháng
của dân tộc. Đặt biệt Người nghiên cứu lý luận Mác – Lê nin và phát triển thêm để trở
thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động, là cơ sở để hoạch định đường lối
cho Đảng sau này. Trong đó quan điểm cách mạng của Nguyễn Ai Quốc còn được thể
hiện qua :


- Chuẩn bị lực lượng cách mạng : Giai cấp công-nông là chủ yếu.
- Mục tiêu của cách mạng là quyền lực phải về tay nhân dân.
- Đảng phải có Đảng cộng sản lãnh đạo và phải lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin
làm hệ tư tưởng.
- Thực hiện đoàn kết quốc tế, liên minh quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của phong
trào cách mạng thế giới.
- Cùng với một số nhà cách mạng trong và ngoài nước, Người đã thành lập : Hội
Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, Hội
Việt Nam thanh niên CM,… đồng thời trực tiếp chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam dẫn đến sự ra đời của 3 tổ chức

cộng sản : Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (7-1929),
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (1-1930). Và điều tất yếu đã xảy ra, tháng 2-1930
Đảng cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đảng ra đời là bước ngoặt lịch sử vĩ đại
của cách mạng Việt Nam. Dựa trên sự đúc kết các kinh nghiệm thực tiễn, Đảng đã xác
định để có đường lối đúng đắn sáng tạo Chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Xuất phát từ thực tiễn của đất nước ta, tôn trọng và vận dụng đúng đắn quy luật
khách quan đồng thời nắm vững xu thế phát triển của thời đại; trung thành với lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Thực tế lịch sử đã chứng minh sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là sản
phẩm kết hợp giữa lý luận cách mạng với phong trào công nhân, phong trào yêu nước.
Mà trong đó :
- Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò nền tảng tư
tưởng và là vũ khí tinh thần của Đảng.
- Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội, là sức mạnh vật chất của Đảng. Được
soi sáng bằng lý luận của Mác-Lênin, phong trào công nhân mới có khả năng đấu
tranh chính trị và giành thắng lợi.
Vì thế sự phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng trong việc thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và lãnh đạo của
các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.
Việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay là nhiệm vụ then chốt :
Học thuyết Mác – Lê nin về Đảng cộng sản có vai trò, ý nghĩa to lớn đối với xây
dựng Đảng ta vững mạnh về tổ chức trong các thời kỳ cách mạng. Vận dụng các
nguyên lý Đảng kiểu mới của học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản vào xây dựng
Đảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khái quát thành những nguyên lý chủ yếu như : tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình; kỷ luật
nghiêm túc và tự giác; đoàn kết thống nhất trong Đảng; đức và tài, quan hệ giữa đức


và tài của cán bộ; liên hệ mật thiết với nhân dân; xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở và
đội ngũ đảng viên;lề lối, phong cách làm việc… Đồng thời, Người cũng chỉ ra việc

thực hiện các nguyên lý đó đối với Đảng ta.
Học thuyết Mác-Lênin về Đảng cộng sản là cơ sở, nền tảng để Chủ tịch Hồ Chí
Minh vận dụng vào xây dựng phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên của
Đảng ta. Quan điểm của Người là : đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, song suy đến cùng xây dựng Đảng có vai trò quyết định
nhất. Học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản vẫn là cẩm nang có giá trị nhất, là
ngọn đuốc soi đường để Đảng và nhân dân Việt Nam tiến hành công tác xây dựng
Đảng trong điều kiện mới.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản, nhất là về Đảng Cộng sản cầm quyền luôn luôn là chỉ dẫn
quý báu để Đảng và nhân dân Việt Nam tiến hành công tác xây dựng Đảng, để Đảng
có đủ khả năng đưa đất nước Việt Nam đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Câu 3 : CMT8-1945 có phải là “cánh cửa chính trị khép hờ” không hay là khoa học và
nghệ thuật “chớp thời cơ” trong lãnh đạo tổng khởi nghĩa của Đảng ta? Bằng sự hiểu
biết về LSĐ CSVN, anh (chị) hãy cho biết nhận định nào là đúng hay sai?

Trả lời:


- CMT8 – 1945 là khoa học và nghệ thuật “Chớp thời cơ” trong lãnh đạo tổng
khởi nghĩa của Đảng ta.
- Nhận định Cách mạng tháng 8 thành công là một quá trình chuẩn bị của Đảng
ta.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên ra đời đúng đắn phù hợp và điều đó minh chứng
qua :
. Cao trào cách mạng 1936-1939 (đây được xem là cuộc tổng diễn tập đầu tiên

chuẩn bị cho CMT8-1945)
. Cao trào cách mạng 1936-1939 (được Đảng xem là cuộc tổng diễn tập lần thứ
2)
. Cao trào cách mạng 1939-1945 là bước chuẩn bị công phu (Hội nghị TW 6 đã
đặt vấn đề dân tộc là cốt lõi, tạm gát thành lập chính phủ Xô Viết để thành lập chính
phủ cộng hòa dân chủ vào tháng 9/1945)
+ Hội nghị TW7 (11/1940) đ/c Trường Chinh chủ trì đã đưa đấu tranh vũ trang
vào chương trình nghị sự.
+ Hội nghị TW8 (5/1941) do Nguyễn Ai Quốc chủ trì đã tìm ra con đường khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền mang bản sắc Việt Nam (khởi nghĩa từng phần giành
thắng lợi từng bước tiến tới giành chính quyền) đã được áp dụng thành công trong
cách mạng tháng 8.
Chủ trương của Đảng ngày 12/3/1945 với bản chỉ thị lịch sử : “Nhật – Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”
Đảng xác định thời cơ cách mạng :
-

Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều kiện.

-

Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ.

Quân đội các nước đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí quân
Nhật.
Đảng xác định, việc giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạu đua nước
rút với quân Đồng minh, sao cho phải giành chính quyền trước khi Đồng minh vào
Đông dương.
Chính vì chỗ biết vận dụng thời cơ chủ quan – khách quan, xác định tình hình, dưới sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã quyết định thắng lợi CMT8 – 1945.

Câu 4 : Anh (chị) hãy nêu và phân tích những nét đặc thù chủ yếu trong chủ trương,
biện pháp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã thực hiện đưa nước ta ra khỏi thế


“ngàn cân treo sợi tóc” năm 1945-1946? Liên hệ thực tiễn cách mạng hiện nay ở nước
ta và những giải pháp để khắc phục?
Trả lời:
A.
1.

Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám
Những thuận lợi

Dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập, tự chủ và bước đầu được hưởng những
quyền lợi do chính quyền cách mạng đem lại, nên họ vô cùng phấn khởi và sẵn sàng
đứng lên để bảo vệ quyền lợi ấy.
Đảng và Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo giờ đây đã vững vàng
và dày dặn kinh nghiệm sau 15 năm thử thách, tôi luyện.
Hệ thống chủ nghĩa xã hội đang hình thành, phong trào cách mạng thế giới đang
phát triển mạnh mẽ đã cổ vũ nhân dân ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ thành quả
của cách mạng.
2.

Những khó khăn

Về đối nội: Ngay sau khi giành được độc lập, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa
phải đối mặt với muôn vàn khó khăn:
Nạn đói: Hậu quả nạn đói năm 1945 vẫn chưa khắc phục nổi. Đê vỡ do lũ lụt đến
tháng 8/1945 vẫn chưa khôi phục, hạn hán làm cho 50% diện tích đất không thể cày
cấy. Công thương nghiệp đình đốn, giá cả sinh hoạt đắt đỏ. Nạn đói mới có nguy cơ

xảy ra trong năm 1946.
Nạn dốt với hơn 90% dân số không biết chữ. Các tệ nạn xã hội như mê tín dị
đoan, rượu chè, cờ bạc...tràn lan.
Ngân sách quốc gia trống rỗng: Còn 1.230.000 đồng, trong đó có đến một nửa là
tiền rách không dùng được. Hệ thống ngân hàng vẫn còn bị Nhật kiểm soát. Quân
Tưởng đưa vào lưu hành đồng “Quốc tệ”, “Quan kim” làm rối loạn nền tài chính nước
ta.
Về đối ngoại
Miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra) 20 vạn quân Tưởng và các đảng phái tay sai của
chúng như: Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng chí hội
(Việt Cách) tràn vào nước ta với mưu đồ tiêu diệt Đảng Cộng Sản Đông Dương, lập
nên chính quyền tay sai của chúng. Dựa vào quân Tưởng, các đảng phái này đã lập nên
chính quyền phản động ở Yên Bái, Móng Cái, Vĩnh Yên.
Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào) Quân đội Anh đã dọn đường cho thực dân
Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam. Các lực lượng phản động thân Pháp như Đảng


Đại Việt, một số giáo phái... hoạt động trở lại và chống phá cách mạng. Ngoài ra, còn
có 6 vạn quân Nhật trên khắp đất nước.
Những khó khăn về đối nội và đối ngoại trên là một thách thức quá lớn đối với Chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đang còn non trẻ lúc bấy giờ. Việt Nam lúc này như
đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
B. Những chủ trương và biện pháp khắc phục khó khăn, củng cố chính quyền nhằm
giữ vững nền độc lập
1.

Củng cố chính quyền dân chủ nhân dân:

Một tuần lễ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Chính phủ lâm
thời đã công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước. Ngày 06/01/1946, hơn 90% cử tri cả

nước tham gia bỏ phiếu bầu cử Quốc hội và đã bầu ra 333 đại biểu. Ngày 02/03/1946,
Quốc hội khoá I họp phiên đầu tiên và đã quyết định thành lập Chính phủ chính thức
do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Sau ngày bầu cử Quốc hội, cử tri cả nước cũng đã
tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và sau đó Ủy ban hành chính các cấp
cũng được thành lập. Quốc Hội ban hành hiến pháp, pháp luật.
Việt Nam giải phóng quân được củng cố và phát triển sau đó đổi tên thành vệ
quốc đoàn (9/1945) và đến tháng 5/1946 đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Khẳng định lòng ủng hộ son sắc của cả dân tộc đối với Đảng
và Chính phủ cách mạng trước những âm mưu chia rẽ của bọn đế quốc và tay sai. Trên
đây là những điều kiện ban đầu để Đảng và Nhà nước vượt qua được tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc” lúc bấy giờ.
2.
·

Giải quyết khó khăn về đối nội
Diệt giặc đói:

Biện pháp trước mắt: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào lập “hũ gạo tiết
kiệm”, không dùng gạo, ngô nấu rượu để đem cứu dân nghèo. Tổ chức “ngày đồng
tâm”, thực hiện “nhường cơm sẽ áo” để cứu đói...
Biện pháp lâu dài: Phát động phong trào thi đua tăng gia sản xuất với khẩu hiệu:
“không một tất đất bỏ hoang”, “tấc đất tấc vàng”... Củng cố đê điều, Chia ruộng cho
dân cày nghèo, giảm tô 25%, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác.
Kết quả: Đến cuối năm 1946, nền nông nghiệp được phục hồi, sản lượng lương thực
tăng lên và nạn đói được đẩy lùi.
·
Diệt giặc dốt: Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập
cơ quan Bình dân học vụ và kêu gọi nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ. Đến đầu



tháng 3/1946, ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ có gần 3 vạn lớp học với 81 vạn học viên, các
trường tiểu học, trung học phát triển mạnh.
·
Giải quyết khó khăn về tài chính: Chính phủ đã thành lập quỹ độc lập, phát động
tuần lễ vàng... để kêu gọi nhân dân tự nguyện đóng góp giúp Chính phủ.
Nhân dân đã hăng hái đóng góp. Sau một thời gian ngắn Chính phủ đã thu được
20 triệu bạc và 370 kg vàng.
-

Ngày 31/01/1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam.

Ngày 23/11/1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trên toàn
quốc.
3.

Giải quyết khó khăn về đối ngoại:

Trong giai đoạn trước ngày 28/2/1946
Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược:Ngay sau khi
Nhật đầu hàng Đồng minh, chính phủ Pháp đã có kế hoạch tái chiếm Đông
Dương. Ngày 2/9/1945, thực dân Pháp đã xả súng vào nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn
đang tham dự mit-tinh mừng ngày độc lập. Ngày 6/9/1945, quân Anh đến Sài Gòn và
đã thả hết quân Pháp bị Nhật bắt giam trước đó; trang bị vũ khí cho chúng và tiến hành
chiếm đóng nhiều nơi. Đêm 22 rạng ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công
trụ sở Ủy Ban nhân dân Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ
hai. Trước tình thế đó, nhân dân Nam bộ đã chủ động kháng chiến chống thực dân
Pháp. Ngày 5/10/1945, sau khi có viện binh thực dân Pháp đẩy mạnh đánh chiếm các
tỉnh Nam bộ và Nam Trung bộ. Trước tinh thần kháng Pháp của nhân dân Nam bộ,
Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã ra sức ủng hộ và phát động phong trào

ủng hộ Nam bộ kháng chiến để giam chân địch.
Biện pháp hòa hoãn với Tưởng Giới Thạch Để tránh trường hợp cùng một lúc
phải đối phó với nhiều kẻ thù, đồng thời tranh thủ điều kiện hòa bình để xây dựng và
củng cố chính quyền, Đảng đã chủ trương hòa hoãn và tránh xung đột với quân Tưởng
Giới Thạch: Chấp nhận tăng thêm 70 ghế không qua bầu cử cho tay sai của
Tưởng. Dành 4 ghế Bộ Trưởng cho bọn Việt Quốc, Việt Cách. Cho Nguyễn Hải Thần
làm phó chủ tịch nước. Chấp nhận cung cấp một phần lương thực thực phẩm cho quân
Tưởng. Đồng ý để Tưởng đưa đồng “Quan kim”, “Quốc tệ” vào lưu hành ở miền Bắc.
Giai đoạn từ 28/2/1946 trở đi
Hiệp ước Hoa – Pháp và âm mưu của Pháp: Sau khi chiếm đóng Nam bộ và Nam
Trung bộ, thực dân Pháp chuẩn bị mở rộng xâm lược ra miền Bắc. Nhưng do lực
lượng còn yếu (3,5 vạn), chúng không thể đương đầu nổi với nhân dân miền Bắc và sự
cản trở của 20 vạn quân Tưởngở đây. Để có thể đưa quân ra miền Bắc một cách “hòa


bình”, Pháp đã thương lượng và ký với Tưởng Hiệp ước Hoa – Pháp vào ngày
28/2/1946 với nội dung:
ü Pháp trả lại một số quyền lợi cho Tưởng ở Trung Quốc và cho Trung Quốc vận
chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng miễn thuế.
ü Tưởng đồng ý cho Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế Tưởng làm nhiệm vụ giải
giáp quân đội Nhật.
-

Mặt khác, Pháp tìm cách điều đình với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Như vậy, sau 28/2/1946, ta đang đứng trước hai con đường:
-

Hoặc chống lại thực dân Pháp ngay sau khi chúng đưa quân ra miền Bắc.


Hoặc tạm thời hòa hoãn với Pháp để nhanh chóng đẩy 20 vạn quân Tưởng ra
khỏi đất nước ta, sau đó mới chống lại Pháp.
Chủ trương của ta sau ngày 28/2/1946
-

Chính phủ của ta đã chọn giải pháp thứ hai – hòa hoãn với Pháp:

Kí Hiệp định sơ bộ: Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ký với
đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định Sơ bộ với nội dung:
ü Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do,
có Chính phủ, Nghị viện, quân đội và Tài chính riêng nằm trong khối Liên Hiệp Pháp.
ü Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay Tưởng, và
số quân này sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm.
ü Hai bên thực hiện ngừng bắn ngay ở Nam Bộ; Tạo điều thuận lợi cho việc mở cuộc
đàm phán ở Paris.
Hiệp định sơ bộ đã đẩy được 20 vạn quân Tưởng và tay sai ra khỏi miền Bắc, tạo ra
được một giai đoạn hòa bình để củng cố và xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp
Ký tạm ước 14/9/1946
Ta tranh thủ điều kiện hòa bình để ra sức củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng về
mọi mặt, chuẩn bị để đối phó với thực dân Pháp. Thực dân Pháp liên tiếp vi phạm
Hiệp định: Gây xung đột ở Nam Bộ, tìm cách trì hoãn và phá hoại các cuộc đàm phán,
làm cho cuộc đàm phán ở Phông-ten-nơ-blô giữa hai Chính phủ bị thất bại. Nguy cơ
bùng nổ chiến tranh đến gần.Trước tình hình đó, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký với Chính phủ Pháp một bản Tạm ước, tiếp tục nhượng bộ một số quyền
lợi ở Việt Nam cho Pháp để kéo dài thời gian hòa hoãn nhằm củng cố và xây dựng lực
lượng.


Nội dung bản Tạm ước gồm những điểm chủ yếu như sau: Chính phủ Việt Nam và

Chính phủ Pháp cam kết tiếp tục chính sách hợp tác như Hiệp định Sơ bộ đã nêu, tiếp
tục cuộc đàm phán sẽ được triển khai chậm nhất vào tháng Giêng 1947.
ü Chính phủ Việt Nam bảo đảm các quyền tự do dân chủ, quyền lợi kinh tế - văn hoá
của người Pháp ở Việt Nam.
ü Chính phủ Pháp sẽ đình chỉ xung đột ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, bảo đảm các quyền
tự do dân chủ cho nhân dân.
ü Việt Nam và Pháp thả hết tù chính trị, chấm dứt tuyên truyền không thân thiện.
ü Việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ do hai bên quy định thời gian và cách thức.
Tạm ước 14-9-1946 là sự nhân nhượng cuối cùng của ta nhằm cứu vãn tình thế hết sức
khó khăn của đất nước lúc bấy giờ. Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến
Tổ quốc trong sự chờ đón đầy tin tưởng của toàn dân ta. Cuộc hành trình ngoại giao
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên
đất Pháp tuy chưa giải quyết được mục tiêu cơ bản của cuộc đàm phán, nhưng đã làm
cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới hiểu rõ hơn vấn đề Việt Nam, biểu thị sự đồng
tình ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.
Trải qua hơn một năm đấu tranh bảo vệ và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân,
những khó khăn ban đầu đã được đẩy lùi. Tiềm lực của Nhà nước cách mạng được
tăng cường một bước, tạo nên thế và lực mới cho toàn dân ta bước vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp trong cả nước. Có được những thắng lợi đó là do toàn dân
ta đoàn kết chặt chẽ, thực hiện sự nghiệp vẻ vang "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc"
dưới sự lãnh đạo của Đảng. "Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch, với đường lối chính trị
vô cùng sáng suất, vừa cứng rắn về nguyên tắc, đã đưa nước nhà vượt qua muôn vàn
khó khăn tưởng như không sao vượt qua nổi. Lúc thì hoà hoãn với Tưởng để rảnh tay
đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hoà hoãn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng
và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, giành thời gian củng cố lực lượng,
chuẩn bị toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta đã biết chắc là
không thể nào tránh khỏi".
Câu 5 : Căn cứ vào đâu mà Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ? Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến 1945-1954? Liên
hệ với việc thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai

đoạn hiện nay?
Trả lời:
Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Kết thúc chiến tranh thế giới thứ II, tương quan lực lượng trên thế giới có


nhiều thay đổi, hệ thống các nước XHCN hình thành tạo một dòng thác cách mạng
phối hợp phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh vì hòa bình tiến bộ trên thế giới tiến
công đẩy lùi CNĐQ. Chủ nghĩa thực dân cũ thất bại, Pháp suy yếu do chiến tranh TGII
và lệ thuộc Mĩ về nhiều phương diện. CNĐQ dưới sự điều khiển của Mĩ coi Việt Nam
là trọng điểm, thỏa thuận với nhau về quan điểm bao vây tiêu diệt CMVN.
Ở trong nước, lực lượng mọi mặt của Nhà nước còn non yếu, các nước đế quốc
và các thế lực phản động quốc tế và trong nước liên kết bao vây chống phá quyết liệt.
Miền Bắc, quân Tưởng kéo vào với danh nghĩa quân đồng minh tước vũ khí Nhật,
nhưng thực chất là âm mưu “cầm hồ, diệt cộng” tạo lập một chính phủ tay sai tranh
giành quyền lực gây khó khăn cho cách mạng. Ngoài ra còn có 2 vạn quân Anh dưới
danh nghĩa đồng minh dọn đường cho Pháp trở lại tái chiếm Việt Nam. Ngày
23/8/1945, quân Pháp đã nổ súng đánh chiếm : Sài Gòn, Gia Đình, Chợ Lớn. Bên cạnh
đó, Chính phủ cách mạng phải đương đầu với nhiều tổ chức và giáo phái phản động ở
miền Nam do Pháp viện trợ để tranh chấp quyền lực với Việt Minh… Mặt khác, chính
quyền cách mạng phải đương đầu với nền kinh tế nghèo nàn, các di sản văn hóa nô
dịch văn hóa nặng nề, đất nước lâm vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”
Trước tình hình khó khăn, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính
sách đại đoàn kết dân tộc, huy động mọi sức mạnh của cả dân tộc, dung sách lược đấu
tranh linh hoạt và khôn khéo với địch, từng bước vượt qua mọi hiểm nguy, chủ động
trước mọi tình thế để giữ vững chính quyền, đưa cách mạng tiến lên. Lúc này, Ban
thường vụ TW Đảng ta xác định : “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc
cách mạng dân tộc giải phóng”. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn
thành, vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập, phân tích âm mưu của các đế quốc đối với
Đông Dương, Đảng ta nêu rõ : “Kẻ thù chính của dân tộc lúc này là thực dân Pháp

xâm lăng”, “phải trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy, phải “lập mặt trận dân
tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược, mở rộng Việt Minh… Kiên quyết giành
độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân độc lập về chính trị, thực hiện chế độ dân chủ cộng
hòa, cải thiện đời sống nhân dân”.
Những chủ trương trên của Ban thường vụ TW Đảng được nêu trong chỉ thị
kháng chiến kiến quốc”. Ngoài ra, chỉ thị kháng chiến kiến quốc cũng nêu rõ : cách
mạng muốn đứng vững phải biết bảo vệ, phải đồng thời thực hiện hai mặt song song”
-

Kiến quốc để phát triển thực lực cách mạng nhằm đủ mạnh để thắng kẻ thù.

Thực hiện sách lược hòa mãn, nhân nhượng kẻ thù để nhằm hòa hoãn những kẻ
có thể hòa hoãn để tập trung lực lượng chống Pháp.
Phát động toàn quốc kháng chiến; đường lối kháng chiến của Đảng :


Sau khi Hiệp định sơ bộ, thực dân Pháp đem quân ra miền Bắc liên tục khiêu khích và
lấn chiếm, gởi tối hậu thư Chính phủ ta đòi tước vũ khí lực lượng tự vệ Hà Nội, kiểm
soát an ninh thủ đô. Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước
một tình thế không thể nhân nhượng, lịch sử dân tộc đã đặt trước một sự lựa chọn
mới : phải đứng lên kháng chiến trong toàn quốc để bảo vệ độc lập, đêm ngày
19/12/1946, Ban thường vụ TW Đảng đã phát động cuộc kháng chiến trên quy mô cả
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước, là lời hịch
làm thấu động tình cảm sâu xa và cao đẹp nhất trong mọi lòng người dân Việt anh
hùng bất khuất, làm cho cả nước sôi sục đứng lên chiến đấu bằng mọi vũ khí có trong
tay, với ý chí : “cảm tử cho tổ quốc quyết sinh”, với một thái độ chính trị dứt khoát và
kiên định, vì độc lập tự do của tổ quốc, lời kêu gọi đó là một cương lĩnh kháng chiến,
khái quát ở trình độ cao, chứa đựng những tư tưởng quan điểm và đường lối chiến
tranh nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng, ngày 22/12/1946, Ban thường

vụ TW Đảng ra bảng chỉ thị toàn quốc kháng chiến, tóm tắt những nội dung cơ bản
đường lối kháng chiến của Đảng như sau :
Về tính chất và mục tiêu của cuộc kháng chiến : nhân dân Việt Nam xác định cuộc
chiến tranh chính nghĩa chống chiến tranh phi nghĩa xâm lược của thực dân Pháp;
chiến tranh chống Pháp là sự tiếp tục của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nhằm
bảo vệ độc lập dân tộc, giành ruộng đất cho dân cày và xây dựng cơ sở đi lên CNXH.
Về xác định phương châm kháng chiến : kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện;
kháng chiến trên tinh thần tự lực cánh sinh, kháng chei61n lâu dài và trãi qua 3 giai
đoạn này, tác phẩm : “kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh đã nêu rõ
quan điểm của Đảng là : “cuộc kháng chiến chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất
nước, củng cố và mở rộng chế độ Cộng hòa dân chủ, không tịch thu ruộng đất của địa
chủ phong kiến chia cho dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất và các hạng tài sản khác của
Việt gian phản động để bổ sung ngân quỹ kháng chiến hay ủng hộ các gia đình chiến
sĩ hy sinh”
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II triệu tập từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951 tại Tuyên
Quang Đại hội quyết định tách ba Đảng bộ Đảng cộng sản ở Đông Dương để lập ra
mỗi nước một Đảng cách mạng riêng. Đảng cộng sản Đông Dương được đổi tên là
Đảng lao động Việt Nam.
Tại đại hội Đảng, báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh đã vạch rõ khẩu hiệu chính của ta
là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập
hoàn toàn, đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên Đảng là Đảng Lao động Việt
Nam. Báo cáo chính trị bàn về cách mạng Việt Nam của Trường Chinh đã trình bày
toàn bộ đường lối cách mạng Việt Nam. Đó là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân


tiến lên CNXH ở Việt Nam. Nội dung cốt lõi của bản báo cáo bàn về CMVN là cương
lĩnh thứ 3 của Đảng ta.
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản hiện nay của CMVN là đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa
phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ

sở cho CNXH. Ba nhiệm vụ đó khắng khít với nhau, song nhiệm vụ chính trước mắt là
hoàn thành giải phóng dân tộc Đại hội xác định lực lượng CMDTDCND ở Việt Nam
là : GCCN, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư
sản dân tộc, ngoài ra còn có những than sĩ yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp tầng
lớp và phần tử đó hợp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công nông và lao
động trí thức, người lãnh đạo cách mạng là GCCN.
Đảng lãnh đạo thực hiện cải cách ruộng đất trong vùng tự do. Đầu năm 1953, Hội nghị
TW lần 3, 4 của Đảng chủ trương tổ chức cải cách ruộng đất, xóa bỏ giai cấp địa chủ,
chia ruộng đất cho nhân dân ở vùng tự do. Kết quả : trong một thời gian ngắn đã xóa
bỏ hoàn toàn giai cấp địa chủ, chia ruộng đất (đất địa chủ và đất làng xã) cho nông
dân. Đây là cuộc cách mạng đổi đời của nông dân, lúc này nhân dân chỉ đóng một sắc
thuế duy nhất là thuế kháng chiến, không còn phải nộp tô thuế cho địa chủ.
Do tương quan lực lượng giữa địch và ta, phương châm chiến lược của ta là đánh lâu
dài. Là một quá trình vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, từng bước làm biến đổi so
sánh lực lượng có lợi cho ta. Vì thế phải đánh địch trên tất cả các lĩnh vực : quân sự,
kinh tế, chính trị, văn hóa, trong đó Đảng xác định quân sự là mặt trận hàng đầu, nhằm
tiêu diệt lực lượng địch trên toàn bộ đất nước.
Về chính trị : Đảng chủ trương tiếp tục củng cố chính quyền dân chủ nhân dân ở vùng
tự do, mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc chống Pháp bằng việc duy trì mặt trận Việt
Minh và xây dựng thêm mặt trận Liên Việt để thu hút mọi lực lượng chống Pháp;
tuyên truyền tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến để cô lập và hạn chế tối đa
những hoạt động của bọn Việt gian.
Về kinh tế : xây dựng kinh tế tự cung tự cấp ở cùng tự do, đảm bảo đời sống nhân dân
và nuôi quân đánh Pháp, thực hiện sách lược tiêu thổ kháng chiến ở vùng tự do. Xây
dựng các nhà máy quốc phòng, chế tạo vũ khí với phương châm phục vụ trước mắt
cho kháng chiến và khi kháng chiến thành công sẽ phục vụ chuyển sang xây dựng
CNXH, ở cùng tạm chiến : đưa lực lượng phá hoại nền kinh tế bằng lực lượng du kích,
đặc công, đẩy mạnh sách lược làm chảy máu nền kinh tế của Pháp.
Mặt trận tư tưởng văn hóa : tuyên truyền đấu tranh xóa bỏ những tàn dư phong kiến,
lạc hậu, tư tưởng thực dân xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa khoa học đại

chúng.


Về quân sự : dựa vào thực lực kháng chiến ngày càng tăng cường, nhất là sự phát triển
của 3 thứ quân, Đảng chỉ đạo đấu tranh đi từ đánh nhỏ đến đánh lớn, từ chiến tranh du
kích phát triển lên chiến tranh chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh du kích với
chiến tranh chính quy. Đảng chủ trương dẫn dắt cuộc kháng chiến qua 3 giai đoạn :
Giai đoạn 1 (9/1945 - cuối 1947) chủ động tiến hành cuộc kháng chiến cục bộ ở miền
Nam sau đó phát động kháng chiến trong cả nước, ta đã đánh bại kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh của thực dân Pháp. Đỉnh cao của giai đoạn này là ta đánh bại cuộc hành
quân Thu Đông 1947 của Pháp ra miền Bắc.
Giai đoạn 2 (1948 - 1950) : trên cơ sở chiến tranh du kích được mở rộng, ta đã liên kết
mở nhiều chiến dịch nhỏ hạ hàng loạt đồn bót, tiêu diệt nhiều sinh lực của địch, thu
hẹp vùng chiếm đóng của chúng ở nhiều nơi. Kết hợp một số chiến dịch nhỏ ta đã
đánh bại kế hoạch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh
của thực dân Pháp. Năm 1950, ta chủ động mở chiến dịch biên giới, một chiến dịch tấn
công lớn đầu tiên của quân đội ta. Chiến dịch biên giới thắng lợi đánh dấu một bước
trưởng thành về trình độ tác chiến và nghệ thuật chỉ đạo của quân đội ta.
Giai đoạn 3 (1951 – 7/1954) : chủ động mở nhiều chiến dịch ở vùng đồng bằng Bắc
bộ, sau đó là chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chei16n dịch Điện Biên
Phủ với Pháp ở Đông Dương và buộc Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị kí hiệp định
Giơnevơ. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi to lớn nhất trong cuộc đọ sức toàn
diện và quyết liệt nhất của quân đội nhân dân Việt Nam với quân đội xâm lược Pháp.
Chiến công đó được ghi nhớ vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng
hay một Đống Đa trong thế kỉ XX và đi sâu vào lịch sử thế giới như một chiến công
hiển hách, một sự kiện báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân.
Câu 6 : Anh (chị) hãy cho biết quá trình hình thành phát triển và hoàn thiện đường lối
cách mạng miền Nam? Bước ngoặt và những thắng lợi của cách mạng miền Nam
(1954-1975) trong việc giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc?
Trả lời:

1. Quá trình hình thành đường lối CM miền Nam :
Tình hình miền Nam sau 1954 và đường lối CM miền Nam :
1.1. Đất nước tạm thời chia là 2 miền :
- Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và đi theo con đường XHCN.
- Mỹ thay Pháp ở miền Nam và biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới
- Sau hiệp định Giơnever 21/7-10/10 là tên Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội


1.2. Đường lối CM miền Nam :
- Hội nghị TW6 (15-17/7/1954) chỉ rõ kẻ thù chính trực tiếp của Đông Dương
lúc này là đế quốc Mỹ (sau khi hiệp định Giơnevơ chưa ký 20/7)
- Sau hiệp định Giơnevơ có cài người ở lại. 6/9/1954 xứ ủy Nam Bộ được thành
lập và thông qua đề cương CMVN ở MN làm sáng tỏ vấn đề thực tiễn nhưng chưa có
biện pháp cụ thể của đồng chí Lê Duẫn.
- T9/1954 bổ sung chuyển hình thức đấu tranh vũ trang sang chính trị.
- T10/1954 thành lập xứ ủy Nam Bộ ở U Minh Hạ
- Hội nghị TW7 T3/1955
- Và nhất là Hội nghị TW8 vào T8/1955 quyết định nhiệm vụ mỗi miền, trước
mắt là đoàn kết chống Mỹ và tay sai tiến tới thống nhất nước nhà; muốn thống nhất
nước nhà phải ra sức củng cố miền Bắc và đồng thời giữ vững đẩy mạnh cuộc đấu
tranh ở miền Nam 2 nhiệm vụ không tách rời.
- Hội nghị TW10 T9/1956 có 4 công tác lớn :
+ Củng cố miền Bắc làm cơ sở cho đấu tranh thống nhất nước nhà
+ Giữ vững và phát triển CM ở miền Nam.
+ Giữ vững và phát triển quan hệ Bắc Nam
+ Đấu tranh ngoại giao đòi thi hành hiệp định.
- 1956 tình hình MN rất tăm tối, sau khi bầu cử riêng rẽ Ngô Đình Diệm trở
thành tổng thống thành lập Chính phủ Việt Nam Cộng hòa do Mỹ ủng hộ. Ngô Đình
Diệm đàn áp cách mạng, hô hào”lấp sông Bến Hải – Bắc Tiến”
- Thời điểm này xứ ủy Nam Bộ hoạt động rất khó khăn để bảo toàn cơ sở, cơ sở

bị lộ, bị bắt, chủ trương của xứ ủy Nam Bộ gài lại sau đó hoạt động hoặc nằm im hay
lắng không được thì phải chuyển địa bàn : Nhất trụ, nhì dời, tam tù, tứ kết”
- Hội nghị TW13 (12-1957) ta chấp hành 2 NV chiến lược ở 2 miền, nhưng chưa
cụ thể, chưa có giải pháp nên cách mạng miền Nam khó khăn.
- Hội nghị Trung ương 15 mở rộng (12-22/1/1959)
+ Phần 1 : nêu 2 mâu thuẫn và 4 nhiệm vụ
* Đế quốc phong kiến tư sản mại bản với dân tộc Việt Nam; con đường đi lên
CNXH với TBCN ở miền Bắc.
* Nhiệm vụ : tiến hành CNXHCN ở miền Bắc; tiếp tục CMDTDC ở miền Nam
thống nhất nước nhà; CM Việt Nam là 1 bộ phận CMTG; thực hiện thống nhất nước
nhà độc lập dân chủ bằng con đường hòa bình.
+ Phần 2 : Thông qua đường lối CM miền Nam (7/1959)


Trong hội nghị này Bác Hồ căn dặn những điều : cứu nước là nhiệm vụ chung
của toàn Đảng, toàn dân và điều thứ 2 : “không phải một lúc mà ta đánh đổ ngay được
Mỹ – Ngụy” do kẻ thù sau mạnh hơn kẻ thù trước nên quay về sở trường lâu dài không
nôn nóng được vì vậy phải đánh lui từng bước, tranh từng thuận lợi về mình, chuẩn bị
lực lượng khi thời cơ đến.
Điều 3 : CMMN nhất định thuận lợi vì đảng ta và nhân dân ta có đủ sức mạnh
khắc phục khó khăn.
Điều 4 :Nhân dân phải đoàn kết 1 lòng mà trước hết là trong Đảng phải đoàn kết
vì lúc này trong Đảng có luồng tư tưởng khác nhau “1 bộ phận cấp tiến, 1 bộ phận
lưng chừng, không biết gia nhập ai”
- T9/1960 nghị quyết Đại hội 3 xác định : đường lối CMVN và đường lối chung
của CM cả nước được thông qua chính thức (Miền Bắc đi lên XHCN, miền Nam đấu
tranh giành chính quyền)
- Đường lối CMMN có ý nghĩa mở đường cho CMMN từ thế giữ gìn lực lượng
sang thế chiến lược; và đồng thời thể hiện được bản lĩnh, độc lập tự chủ, sáng tạo của
CMMN -> thực tế lịch sử chứng minh đường lối này rất đúng tuy hơi chậm.

- Đường lối CMVN bắt đầu dự thảo của đ/c Lê Duẫn và tháng 7/1959 đã được
HNTW 15 thông qua.
- Mâu thuẫn : dân tộc VN >< đế quốc Mỹ, Tư sản mại bản, tay sai
- Mục tiêu : giải phóng miền Nam tiến tới giải phóng toàn dân tộc
- Nhiệm vụ : lật đổ tay sai bù nhìn, đế quốc Mỹ
- Lực lượng CM : công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tri thức
- Phương pháp CM : đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị thể hiện
ở Đồng Khởi 1959-1960.
- Quan hệ quốc tế : chủ yếu dựa vào sức mình là chính 55-59 được bạn bè quốc
tế tin cậy.
=> Đảng : phải có Đảng bộ riêng, mặt trận riêng, lực lượng vũ trang riêng, đoàn
thể riêng để lãnh đạo CMMN.
2. Bước ngoặt và những thắng lợi của CMMN (1954-1975) trong việc giải phóng miền
Nam thống nhất Tổ quốc : Từng bước đánh thắng kế hoạch chiến lược chiến tranh của
Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc :
1. Chống Chiến tranh đơn phương của Mỹ – Diệm 1954-1960
* Cao trào Đồng Khởi mùa xuân 1960
Ngày 17/01/1960 tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo nhân dân 3 xã Định Thủy, Phước
Hiệp và Bình Khánh (Mỏ Cày) với gậy, gộc, súng ống … đồng loạt nổi dậy đánh đồn


bốt và giải tán chính quyền địch, phong trào lan rộng khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và
một số nơi ở Trung Trung bộ. Đến cuối năm 1960, ta đã giải phóng được 600/1298 xã
ở Nam Bộ, 904/3829 thôn ở Trung bộ, 3200/5721 thôn ở Tây Nguyên.
=> Cơ bản làm tan rã bộ máy chính quyền của địch ở nông thôn. Đây là một bất
ngờ của Mỹ Diệm đã chuyển CM miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến
công.
Trên đà thắng lợi, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam ra đời, trực tiếp lãnh đạo thống nhất phong trào cách mạng miền Nam. Đây là 1
bất ngờ của Mỹ Diệm đã chuyển CMMN từ tư thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến

công.
2. Đánh thắng Chiến tranh đặc biệt : 1961-1965
Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam. Sau khi thực hiện
bộ mặt giả tạo giúp đỡ NDMN, nhưng bên trong là chuẩn bị mở rộng hành quân của
Mỹ -> với mục tiêu giành lại trái tim, trí óc của người dân.
Thủ đoạn : lập “Ấp chiến lược” (sau đổi là “Ấp tân sinh”) nhằm đẩy lực lượng
cách mạng ra khỏi các xã, ấp, tách dân khỏi cách mạng tiến tới nắm dân, thực hiện
chương trình “bình định” miền Nam (Ap chiến lược để bắt cá (bắt Việt cộng, Việt
Minh, Cộng sản) dồn dân vào ấp : sáng lấy dây thép gai quây lại tối vào trong đó lính
canh, sáng đi ra quân Mỹ khám, không cho mang cơm ra ngoài (tiếp tế cho cộng sản)
=> thủ đoạn xảo quyệt
Chủ trương của Đảng “Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám địch”, giữ thế
chiến lực tiến công; phương châm “2 chân, 3 mũi, 3 vùng” (cả ba mũi chính trị, quân
sự và binh vận)
Mỹ – Ngụy dự định thực hiện những mục tiêu của “Chiến tranh đặc biệt” trọng
tâm là mục tiêu “bình định” trong vòng 18 tháng, bắt đầu từ giữa năm 1961 bằng kế
hoạch Stalây Tay lo. Đến đầu năm 1964, khi 18 tháng đã qua, miền Nam vẫn chưa
được “bình định”, Mỹ đặt yêu cầu khiêm tốn : “bình định” miền Nam có trọng điểm
trong thời hạn 2 năm bằng kế hoạch Giônxơn – Mác Namara
Đáp ứng yêu cầu của cách mạng từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên chiến
tranh cách mạng,c hống “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ – Ngụy, ngày 15-2-1961 các
lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Đây là sự kiện quan trọng tiếp sau sự kiện Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam. Đây là sự kiện quan trọng tiếp sau sự kiện Mặt trận dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam ra đời (ngày 20-12-1960) và Trung ương Cục miền Nam Việt Nam
được thành lập (tháng 1-1961) thay cho Xứ ủy Nam Bộ cũ.


Đông – Xuân 1964-1965, Quân giải phóng mở chiến dịch tiến công địch ở miền
Đông Nam Bộ với trận mở màn chiến thắng ở Bình Giã (ngày 2-12-1964), làm phá sản

về cơ bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
3. Đánh thắng Chiến tranh cục bộ 1965-1968 :
“Chiến tranh đặc biệt” thất bại để cứu vãn chính quyền Ngụy của Mỹ ở miền
Nam : Mỹ đem quân tới để thực hiện mục tiêu “Bình định và tìm diệt”
Mỹ đưa quân ồ ạt vào Miền Nam với 54 vạn quân Mỹ và 7,2 vạn quân chư hầu và
tăng cường chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Đường lối của Đảng: Với tình hình trên Đảng ta đã kịp thời nhận định và đưa ra
phương châm, chỉ đạo chiến lược tại hội nghị Trung Ương lần thứ 11,12 khóa III: Mỹ
đưa quân vào Miền Nam nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi
lớn, vì thế cược kháng chiến vẫn giữ vững và phát triển chiến lược tiến công.
Mỹ thua đầu tiên ở Núi Thành – Quảng Nam và rút vào Đà Nẵng. Mỹ đánh phá
Miền Bắc , chiến tranh lan ra cả nước, năm 1965 cả nước chống Mỹ cứu nước.
Đến đây Đảng nhận định: Giữ thế chiến lược, trường kì, tranh thủ sự giúp đỡ
của Quốc tế với phương châm chỉ đạo chiến lược với 3 mũi giáp công: quân sự, chính
trị, binh vận: vận động con em binh lính quay đầu chống Mỹ, cả nước, thế giới giúp
nhân dân ta. Chủ trương của Đảng thể hiện quyết tâm cao (1965) tạo sự đồng thuận
của cả nước, cả thế giới giúp nhân dân ta.
Đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ 1965-1968 và buộc Mỹ phải ngồi vào
bàn đàm phán tại Pari năm 1969 về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam.
4. Đánh thắng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, giải phóng miền nam thống nhất
nước nhà 1969 -1975
Ngày 20/1/1969 R. Nichxon lên cầm quyền và cho ra đời “Học thuyết Nichxon”
với kế hoạch chiến tranh mới “Việt Nam hóa chiến tranh ” thự hiện âm mưu “dùng
người Việt Nam đánh người Việt Nam”.
9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969 chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời.Biến thương đau
thành hành động cách mạng nhân dân miền Nam cùng với cả nước đã quyết tâm thực
hiện di chúc thiêng liêng của chủ tịch Người là đánh thắng giặc Mỹ, thống nhất nước
nhà. Những thắng lợi quân sự, chính trị, nhất là thắng lợi đường 9- Nam Lào đánh
thắng chiến dịch “ Toàn thắng 1/71” của Mỹ - ngụy vào Đông Bắc Cam Phu Chia và
chiến dịch đánh vào ngã ba biên giới ở Tây Bắc- Kon Tum đã làm phá sản bước đầu

chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Trưa ngày 30/3 đến cuối tháng 6 năm 1972, quân ta tiến công chiến lược theo kế
hoạch của quân ủy Trung ương. Mở đầu cuộc tiến công, quân ta đánh vào Quảng Trị,
lấy QT làm hướng tiến công chủ yếu, rồi phát triển rộng ra khắp chiến trường miền


Nam và kéo dài trong năm 1972. Kết quả sau gần 3 tháng chiến đấu quân ta đã loại
khỏi vòng chiến đấu một lực lượng lớn sinh lực địch khoảng 30van quân, vùng giải
phóng được mở rộng với 4 triệu dân cung 2 triệu dân ở cùng tranh chấp. Đó là đòn
mạnh mẽ giáng vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Cùng với thắng
lợi ở miền Nam, nhân dân Miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai
của Mỹ, lập nên một chiến công lịch sử “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, qua 12
ngày đêm. Buộc Mỹ phải ttr[r lại bàn đàm phán để kí hiệp định Pari.
* Nội dung hiệp định Pari:
1. Mỹ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ
Việt Nam.
2. Mỹ cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự trên lãnh thổ Việt Nam.
3. Mỹ và đồng minh rút quân đội, cố vấn và các loại vũ khí ra khỏi miền Nam Việt
Nam.
4. Mỹ phải có nghĩa vụ đóng góp vào việc Hàn gắn vết thương chiến tranh và công
cuộc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam và toàn Đông Dương.
Giải phóng hoàn toàn Miền Nam (1973 - 1975).
Tháng 7 năm 1973, Ban chấp hành TƯ họp hội nghị lần thứ 21, quyết định
đường lối cách mạng trong tình hình mới tiếp tục đưa cách mạng miền Nam tiến lên.
Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975 lần lượt với các chiến dịch Tây
Nguyên, Huế, Đà Nẵng và đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn
miền Nam vào lúc 11giờ 30 ngày 30/4/1975 cờ chiến thắng đã cắm trên Dinh Độc
Lập. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi.
Câu 7: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976) khẳng định: “không thể nào có
thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc

XHCN…” Bằng kiến thức LSĐ hãy phân tích và chứng minh làm rõ khẳng định trên?
Liên hệ và vận dụng những bài học kinh nghiệm của thời kỳ này trong giai đoạn cách
mạng hiện nay?
Trả lời:
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Miền bắc nước ta
được hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ quyết định đưa
miền Bắc từ thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với
yêu cầu phát triển của cách mạng nước ta. Bởi vì xây dựng chủ nghĩa xã hợi không chỉ
xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, mà còn củng cố cơ sở vững chắc
cho công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.


Ngày 15/5/1955 tên tính Pháp cuối cùng rút khỏi Hải Phòng. Đảng lãnh đạo miền Bắc
hoàn thành nhiệm vụ cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là thực hiện
chống phong kiến miền Bắc. Đảng lãnh đạo tiến hành cải cách ruộng đất.
·

Diễn biến sự nghiệp xây dựng miền Bắc.

Từ năm 1955 đến 1975 thực hiện cải cách ruộng đất, miền Bắc đã đánh đỗ toàn bộ giai
cấp địa chủ phong kiến xóa bỏ chế độ chiếm hữu phong kiến về ruộng đất, lấy ruộng
đất của địa chủ chia cho nông dân thực hiện người cày có ruộng, giải phóng toàn bộ
sức lao động trong nông nghiệp nông dân phấn khởi, sản xuất phát triển liên minh
công – nông được củng cố.
Song song với cải cách ruộng đất Đảng còn lãnh đạo miền Bắc khôi phục kinh tế hàn
gắn vết thương chiến tranh cho đến năm 1957 nền kinh tế miền Bắc đã có bước phát
triển nhất là nông nghiệp, đời sống nhân dân dần ổn định.
Đảng và nhà nước ta đề ra kế hoạch 3 năm (1955- 1957) nhằm khôi phục kinh tế hàn
gắn vết thương chiến tranh, phát triển sản xuất.
Về sức sản xuất: Toàn bộ hệ thống đê sông, đê biển (300km) được gia cố sửa chữa. 10

hệ thống thủy lợi được khôi phục. Đàn trâu bò phát triển từ 1,2 triệu con lên 2,36 triệu
con, hàng chục vạn hecta ruộng đất bỏ hoang nay được đưa vào sử dụng.
Về phát triển sản xuất: Năm 1956 miền Bắc sản xuất được 4,73 triệu tấn lương thực so
với (năm 1939 là 2,6 triệu tấn) bình quân đầu người đạt 337 kg. Các loại cây công
nghiệp cũng phát triển mạnh, đay 12 lần, lạc 12 lần so với năm 1939.
Về công thương nghiệp: Tình hình nông thôn có chuyển biến lớn năm 1957 sản lượng
lúa đạt 3,9 triệu tấn so với 2,4 triệu tấn năm 1939.
Công nghiệp quốc doanh: Tập trung và hàng tiêu dùng với quy mô nhỏ mang lại hiệu
quả nhanh để giải quyết những vấn đề cấp thiết cho đời sống và sản xuất, nhanh chóng
khôi phục giao thông vận tải và bưu điện phục vụ cho giao lưu kinh tế, nhờ phương
hướng chỉ đạo đúng đắn, thủ công nghiệp được khôi phục và phát triển đến năm 1957
có 15 vạn cơ sở sản xuất và 43 vạn loa động. Nhiều ngành nghề mới thu hút hàng chục
vạn lao động. Thủ công nghiệp chiếm khoảng 63,7% tổng giá trị sản lượng công
nghiệp. Tỷ trọng hàng tiệu dùng trong sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp nâng
từ 8,4% (1955) lên 48,5% (1956) và 1957 đạt 68,6%.
Kinh tế quốc doanh: Được khôi phục và xây dựng mới, năm 1955 miền Bắc chỉ có 19
xí nghiệp với 17.290 công nhân. Sau 3 năm đã tăng lên 78 xí nghiệp so với 46.430
công nhân, giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp chiếm 10% tổng giá trị
sản lượng công – nông nghiệp.
Tiến hành cải cách tạo xã hội chủ nghĩa năm 1958 đến năm 1960.


Thực hiện nghị quyết trung ương lần thứ 14. Tháng 11/1958 và nghị quyết trung ương
lần thứ 16. Tháng 4/1959 miền Bắc tiến hành cải cách xã hội chỉ nghĩa, đối với toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, cho đến mùa thu năm 1960 chúng ta đã biến nền kinh tế nhiều
thành phần ở miền Bắc thành một nền kinh tế duy nhất với hai hình thức sở hữu toàn
dân và tập thể.
Đại hội đại biểu toàn quốc đảng lần thứ III tháng 9/1960 quyết định đồng thời thực
hiện hai chiến lược cách mạng cách mạng.
-


Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc.

-

Đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Về cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc đảng đã đề ra đướng lối xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc gồm những nội dung cơ bản là:
Đưa miền Bắc tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng
đời sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho
công cuộc giải phóng miền Nam “Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng tâm”.
Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa xây dựng miền Bắc có nền kinh tế công
nông hiện đại, văn hóa khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh.
Muốn thực hiện mục tiêu trên đây phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân, chuyển
sang làm nhiệm vụ cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới “Nhiệm vụ lịch sử chuyên
chính vô sản”.
Thực hiện nghị quyết lần thứ 3 của đảng tháng 9/1960 và các nghị quyết ban chấp
hành trung ương – miền Bắc bắt tay vào xây dựng, chủ nghĩa xã hội thực hiện kế
hoạch 5 năm (1961 – 1965 ).
Sự chỉ đạo xây dựng xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ
3 của đảng và các nghị quyết của ban chấp hành trung ương từ mùa xuân năm 1961 trở
đi miền Bắc diễn ra phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa rất sôi nổi như:
-

Nông dân phong trào Đại Phong

-

Công nhân phong Trào giáo sóng Duyên Hải.


-

Giáo dục tiếng trống Bắc Lí.

Công nghiệp phát triển với tốc độ nhanh và cao, những trung tâm công nghiệp lớn
được hình thành ở Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì trung tâm công nghiệp dầu tiên Thái
Nguyên, Nam Định…
Về công nghiệp: Ở miền Bắc phát triển rất mạnh nhiều ngành công nghiệp nặng đã
hình thành, nhiều trung tâm công nghiệp lớn ra đời, thực hiện đường lối công nghiệp
hóa hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp nặng như: Điện, than, hóa chất, vật


liệu xây dựng, luyện kim, v.v… ngành công nghiệp nhẹ cũng đã xây dựng một số cơ
sở mới.
Về nông nghiệp: Cũng phát triển rất mạnh bảo đảm được lương thực cho đời sống và
chiến đấu, hàng loạt các công trình thủy lợi được xây dựng đảm bảo tưới tiêu cho hàng
chục vãn hecta lúa và mùa. Nông nghiệp miền Bắc đã có một sự biến đổi từ độc canh
cây lúa đã hình thành bước đầu cơ cấu mới gồm trồng trọt chăn nuôi dịch vụ…
Văn hóa giáo dục y tế: Phát triển đời sống nhân dân đã được cải thiệu rõ rệt, xã hội
miền Bắc đã tiến bộ rất nhiều, được mở rộng khắp thành thị nông thôn, đồng bằng
miền núi… Hầu hết các xã có trường cấp I và cấp II. Huyện có trường cấp III hệ thống
giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp được phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ
này là nâng cao trình độ dân trí cho toàn xã hội, đào tạo được đội ngũ trí thức đại diện
cho chính thức Việt Nam vươn lên đóng góp vào thành quả chung của dân tộc là xây
dựng đất nước và đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Đánh giá 10 năm và kết thúc xây dựng miền Bắc (năm 1955 đến năm 1965)
Hồ Chí Minh có viết: “10 năm qua miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa
từng thấy trong lịch sử dân tộc đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”.
Sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm tăng 4,1% tốc độ phát triển thời kỳ 1961 –

1965 là 13,6% bình quân mỗi năm một số cơ sở công nghiệp nặng như: điện, cơ khí,
luyện kim, hóa chất vật liệu xây dựng đã hình thành và phát triển nhanh, đến năm
1965 tăng gấp 10 lần so với năm 1955.
Đến năm 1965 đã xây dựng 1132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, công ty hợp
doanh có 65 vạn lao động, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong đó có 2.615
người có trình độ đại học và trên đại học, 11.600 cán bộ có trình độ trung cấp.
Thời kỳ 1965 đến năm 1975 cả nước có chiến tranh.
Từ năm 1965 đến năm 1968 miền Bắc chống lại chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của
đế quốc Mỹ, đồng thời tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam.
Thời kỳ năm 1969 đến năm 1971 đảng lãnh đạo miền Bắc khôi phục kinh tế hàn gắn
vết thương chiến tranh và tiếp tục ci viện cho chiến trường miền Nam.
Thời kỳ 1972 miền Bắc chống lại chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ.
Thời kỳ năm 1973 đến năm 1975 miền Bắc huy động đến mức cao nhất sức người và
sức của chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam góp phần làm nên thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
Đánh giá miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa trong 21 năm.


Đại hội 4 của Đảng tháng 12/1976 đã khẳng định: Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã hình
thành vai trò quyết định nhất đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
với chiến dịch “hủ gạo tình thương” vì miền Nam ruộc thịt.
Đường chiến lược trường sơn “cả đường bộ và đường thủy” được mở rộng để tăng
cường sự chi viện hết lòng của miền Bắc đã liên tiếp đánh bại các cuộc hành quân “tìm
diệt” và “bình định” của Mỹ - Ngụy”
Đường mòn Hồ Chí Minh là một minh chứng với những bải ca năm tháng không quên
“ta ra đi từ trái tim mình…”.
Miền Bắc đã xóa bỏ chế độ phong kiến bước đầu xây dựng chế độ mới. Miền Bắc đã
đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Miền Bắc đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ đáp ứng cho yêu cầu giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội được xây dựng một

bước nhiều ngành công nghiệp nặng đã hình thành, đặc biệt sự tiến bộ về khoa học kỹ
thuật giúp chúng ta khắc phục khó khăn trong chiến đấu sản xuất.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong đó nguyên nhân quan
trọng là miền Bắc – xã hội chủ nghĩa đã tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền
tuyến lớn miền Nam và hoàn thành vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát
triển của đất nước. Bởi vì sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Bắc xã
hội chủ nghĩa với phương châm “gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”. Hàng triệu thanh niên miền Bắc đã lên đường vào Nam chiến đấu 50% lương
thực đã chi viện cho chiến trường miền Nam. Sự thống nhất về chính trị tinh thần
trong nhân dân miền Bắc là tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ
xâm lược, chính có sự động viên chi viện to lớn ấy mà chúng ta có đầy đủ sức mạnh đế
hoàn thành thắng lợi kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đại thắng mùa xuân 1975 đất nước Việt Nam thống nhất hai miền Nam – Bắc xum
họp một nhà, miền Bắc đã xứng đáng là căn cứ địa của cách mạng cả nước, làm tròn
nhiệm vụ hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, đánh thắng đế quốc
Mỹ xâm lược.
Câu 8: Anh (chị) hãy cho biết các bước đột phá tìm tòi đường lối đổi mới và sự phát
triển nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng tỏ
hơn: Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề trên?
Trả lời:
Tháng 9 năm 1979, Ban chấp hành trung ương đảng khóa IV tiến hành hội nghị lần
thứ 6. Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã độc báo cáo mang tên Những


×