Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

đề cương lịch sử đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.86 KB, 5 trang )

1. TRÌNH BÀY SỰ CHUẨN BỊ CỦA ĐỒNG CHÍ NGUYỄN ÁI QUỐC VỀ CHÍNH TRỊ TƯ
TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC CHO SỰ RA ĐỜI CỦA ĐCS VIỆT NAM ?
Tháng 12/1920, sau khi trở thành người cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ
việc truyền bá chủ nghóa Mác-Lênin vào Việt Nam, từng bước chuẩn bò về chính trò, tư tưởng và
tổ chức cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Bằng những hoạt động tích cực trong hội liên hiệp thuộc đòa pháp (1921), ban nguyên cứa
thuộc đòa của đảng cộng sản pháp (1922), bằng báo chí và các tác phẩm của mình (mà nổi tiến
nhất là bản án chế độ thực dân Pháp được xuất bản ở Pari năm 1925), đồng chí Nguyễn i Quốc
đã lên án chủ nghóa thực dân Pháp, chuẩn bò tư tưởng cho những người bò áp bức đấu tranh giành
độc lập .
Sau thời gian học tập nghiên cứu ổ Liên Xô, cuối năm 1924 về đến Quảng Châu (Trung Quốc)
tiếp xúc với những nhà Cách Mạng vô sản, đồng chí đã tổ chức một nhóm cách mạng đầu tiên
gồm 9 người, làm nòng cốt cho tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội sau này.
Tháng 6/1925, người thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, mở các lớp huấn
luyện để tạo cán bộ cách mạng Việt Nam. Những bài giảng trong các lớp huấn luyện ở Quảng
Châu của đồng chí Nguyễn i Quốc được tập hợp thành tác phẩm đường cách mạng. Tác phẩm
này đã góp phần chuẩn bò cho chính trò, tư tưởng cho sự ra đời của ĐCS Việt Nam.
Được chuẩn bò chính trò về tư tưởng ở Quảng Châu, những người yêu nước chân chính của Việt
Nam trở về nước tập hợp lực lượng, hướng dẫn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động đi vào quỹ đạo Cách Mạng Vô Sản.
Phong trào CM trong nước những năm 1928-1929 phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có chính
đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Do nhận thức không đồng đều trong nội bộ Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí hội, đã dẫn đến việc xuất hiện ra tổ chức CS Việt Nam trong thời
gian từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930.
Để chấm dức tình trạng chia rẽ trong nội bộ những người cộng sản ở Việt Nam, nhằm tăng
cường sức mạnh lãnh đạo CM, được ủy quyền của quốc tế cộng sản, Đồng chí Nguyễn Ái Quốc
triệu tập hội nghò thống nhất các tổ chức CS, thành lập một Đảng CS duy nhất ở đông dương vào
ngày 3/2/1930.
4.. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 10/1930 ?
Tháng 10/1930 ban chấp hành trung ương đảng họp hội nghò lần thứ nhất, thông qua bản luận
cương chính trò của đảng do đồng chí Trần Phú dự thảo, Luận cương có những nội dung cơ bản


sau:
Về đường lối chiến lược : vận dụng lý luận của chủ nghóa Mác-Lenin. Luận cương xác đònh
tính chất của CM Việt Nam là CM tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến thẳng
lên chủ nghóa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Như vậy là CM Việt Nam phải trải qua
hai giai đoạn: CM tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc giành độc lập và
chống phong kiến, bởi vì sự cấu kết giữa đế quốc và phong kiến, thực hiện người cày có ruộng,
Hai nhiệm vụ này có mối liên hệ khăng khít, bởi vì sự cấu kết giữa đế quốc và phong kiến là đặc
điểm nổi bậc ở nước ta mà các nhà yêu nước trước đây không thấy hết và cũng không giải quyết
được.
Sau khi hoàng thành thắng lợi CM tư sản dân quyền thì tiến thẳng lên chủ nghóa xã hội. Cách
mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bò dể tiến lên CMXHXN.
Luận cương xác đònh như vậy chứng tỏ ngay từ đầu đảng đã tiếp thu đầy đủ tưởng CM không
ngừng của V- Lênin .


Về động lực, lực lượng CM : luận cương chỉ rõ “Trong Cách mạng tư sản dân quyền, vô sản
giai cấp và nông dân là hai động lực chính, những vô sản giai cấp có cầm quyễn lãnh đạo thì
CM mới thắng lợi được”. Khẳng đònh điều đó, Đảng ta nhấn mạnh tính triệt để của CM vô sản
và quán triệt nguyên lý cơ bản của chủ nghóa Mác-lenin về liên minh công nông trong cách
mạng vô sản.
Về xây dựng đảng : luận cương chính trò khẳng đònh rằng sự lãnh đạo của đảng là nhân tố
quyết đònh thắng lợi CM nhưng phải quán triệt những nguyên tắc về xây dựng đảng của chủ
nghóa Mác-Lenin : Đảng phải có đường lối chính trò đúng đắng; lấy nguyên tắc tập trung dân chủ
làm cơ sở xây dựng tổ chức có kỷ luật tập trung, đoàn kết, gắn bó mật thiết với quần chúng;
Đảng phải được vũ trang bằng lý luận Mác-Lenin thông qua cuộc đấu tranh cách mạng của quần
chúng trưởng thành, kiên quyết đấu tranh lại những tư tưởng phi vô sản.
Về phương pháp CM : luận cương xác đònh bạo lực CM là hình thái biểu hiện của quy luật CM
ở Việt Nam, nhưng đòi hỏi đảng phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đảng phải căng cứ vào tình
hình cụ thể để đề ra những khẩu hiệu thích hợp nhằm tập dượt, tổ chức và xây dựng lực lượng
cách mạng, dùng khởi nghóa vũ trang của quần chúng để giàng chính quyền. Tuy nhiên đảng

phải coi trọng tổ chức lực lượng chính trò quầng chúng .
Về đoàn kết Quốc Tế : thấm nhuần tư tưởng của chủ nghóa Mác-Lênin, luận cương xác đònh
CM Việt Nam là một bộ phận của CM Vô Sản thế giới, bởi lẽ trong thời đại mới CM và phản
CM đã được phân tuyến rõ ràng trên phạm vi thế giới.
Những nội dung cơ bản mà luận cương khẳng đònh là cơ sở để đảng tập hợp lực lượng CM, giải
quyết những yêu cầu bức thiết của toàn dân tộc, khẳng đònh sự lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp
công nhân trước dân tộc.
8). VÌ SAO CAO TRÀO CM 1930-1931 LÀ CUỘC TỔNG DIỄN TẬP ĐẦU TIÊN CHUẨN
BỊ CHO THẮNG LI CỦA CM THÁNG 8 ?
Vừa mới ra đời, Đảng ta đã tổ chức và phát động được một phong trào CM sôi nổi của công
nông trên quy mô của cả nước : Đây là phong trào quần chúng tự giác và rộng lớn chưa từng có
ở Đông Dương. Sở dó được thành qủa đó là vì đảng đã đưa ra nguyện vọng đúng nguyện vọng cơ
bản của nhân dân. Cao trào 30-31 khẳng đònh trong thực tế quyền lãnh đạo nà năng lực tổ chức
cách mạng của giai cấp công nhân. Đảng đã xây dựng được khối liên minh công nông vì đảng có
được đường lối giai cấp rõ rệt. lần đầu tiên trong lòch sử CM nước ta, hai giai cấp công nông đã
thể hiện sự phối hợp, ủng hộ lẫn nhau đẩy lên một cao trào CM rộng lớn sôi sục trong cả nước .
Qua cao trào CM 30-31, Đảng ta đã rèn luyện được đội ngũ đảng viên, quần chúng và đem lại
cho quần chúng niềm tin vững chắc vào sức mạnh và năng lực sáng tạo của chính mình. Chính
nhờ niềm tin đó, đảng đã tạo ra sức mạnh tổng hợp hướng dẫn cho nhân dân đấu tranh cho những
mục tiêu cụ thể, thích hợp để giành thắng lợi. Cao trào 30-31 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt
về mọi mặt của đảng ta và nhân dân ta, tạo điều kiện để đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến lên
giành những thắng lợi mới to lớn hơn.
7. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯC SÁCH LƯC
CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ 1939 - 1945 ( QUA BA HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
LẦN 6, 7, 8) :
Tháng 9/1939 chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, cuộc chiếnh tranh này đã ảnh hưởng
sâu sắc đến tình hình ở Đông dương. Đứng trước những biến động đó, Đảng ta đã kòp thời chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược để phù hợp với tình hình.



Từ hội nghò trung ương lần thứ 6 (11/1939), đến hội nghò Trung ương Đảng lần thứ 7 (11/1940)
và đặc biệt là hội nghò Trung ương đảng lần thứ 8 (5/1941) do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì
đã đánh dấu sự chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược, sách lược cách mạng, đồng thời đánh dấu
sự bổ xung và đánh dấu hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của đảng ta.
Nội dung chủ yếu của sự chuyển hướng đó biểu hiện trên mấy vấn đề cơ bản như sau :
Đảng ta đã khẳng đònh rằng hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc, dân chủ mà luận
cương tháng 10/1930 đã nêu cho đến nay vẫn đúng. Nhưng trước tình hình mới Đảng chủ trương
phải tập trung giải quyết nhiệm vụ hàng đầu là đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân
tộc.
Về mối quan hệ giữa hai chiến lược, Đảng ta xác đònh rằng : hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến có quan hệ chặc chẽ, mật thiết với nhau, nhưng không tiến hành nhất loạt song
song nhất loạt ngang nhau. Nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc.
Trong khi tập trung giải quyết vấn đề độc lập dân tộc Đảng tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng
đất, đề ra những khẩu hiệu hợp lý để nhằm tập trung lực lượng để đánh đổ kẻ thù nguy hiểm
nhất là đế quốc xâm lược.
Trên cơ sở nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, Đảng ta chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc
trong khuôn khổ từng bước ở Đông Dương. Sau khi giành độc lập, các dân tộc sống trên bán đảo
Đông Dương muốn lập ra một chính phủ liên bang hay đứng riêng thành một quốc gia dân tộc là
tùy ý. Ở Việt Nam, Hội nghò BCH Trung Ương lần thứ 8 chủ trương sau khi đánh đuổi Pháp-Nhật
đã thành lập một chính phủ nhân dân, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng
làm cánh làm lá cờ toàn quốc.
Đảng chủ trương mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất để liên hiệp được tất cả sức mạnh của
toàn dân tộc, tại hội nghò Trung Ương lần thứ 8 (5/1941), theo đề nghò của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc, đã quyết đònh ở Việt Nam một mặt trận riêng lấy tên là mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh, gọi tắc là Việt Minh.
Đảng chuyển hướng hình thức đấu tranh từ công khai hợp pháp, nữu hợp pháp sang đấu tranh
chính trò, chuẩn bò khởi nghóa vũ trang giành chính quyền.
Hội nghò Trung Ương lần thứ 7 đã đưa vấn đề khởi nghóa vũ trang vào vào chương trình nghò
sự, đến hội nghò Trung Ương Đảng nhấn mạnh : chuẩn bò khởi nghóa vũ trang là nhiệm vụ trung
tâm của cách mạng. Trung Ương Đảng đã dự kiến con đường khởi nghóa vũ trang giàng chính

quyền là : đi từ khởi nghóa từng phần, giành chính quyền ở đòa phương, tiến lên tổng khởi nghóa
trong cả nước.
Để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo toàn dân vùng dậy khởi nghóa giành chính quyền tại các hội
nghò Trung Ương (6-7-8) Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp về công tác xây dựng Đảng.
Sự chuyển hướng chỉ đạo đúng đắn đó, đánh dấu một bước trưởng thành của đảng ta, có ý
nghóa quyết đònh đến thắnglợi của cách mạng tháng 8 năm 1945.
12. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ BCH
TRUNG ƯƠNG ĐẢNG LẦN THỨ 15 (1/1959) :
Từ sau 7/1954, cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới với những đặc điểm như sau:
• Đất nước tạm thời bò chia cắt làm 2 miền với 2 chế độ xã hội khác nhau, miền Bắc hoàn toàn
giải phóng đi lên CNXH, miền Nam tiềp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
thống nhất đất nước.


• Hoàn cảnh quốc tế ở giai đoạn này cũng có những nét khác với trước đây - lực lượng cách
mạng mạnh hơn so với trước, nhưng phong trào cộng sản quốc tế lại có sự bất đồng do có sự
xuất hiện của chủa nghóa cơ hội, xét lại hiện đại.
• Kẻ thù mới của cách mạng Việt Nam là đế quốc Mỹ, áp dụng chủ nghóa thực dân mới để
chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Những đặc điểm trên buọc Đảng ta phải giải quyết những vấn đề phức tạp, đồng thời giải
quyết 2 nhiệm vụ chiến lược; đưa cách mạng XHCN ở miền Bắc phát triển nhưng phải tìm tòi
hường đi đúng đắn của CM Việt Nam.
Từ tháng7/1954, Đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm không thực hiện nghiêm chỉnh
Hiệp đònh Giơ-ne-vơ, cồ tình phá hoại hiệp đònh, hòng chia cắt lâu dài đất nước ta, áp đặt chủ
nghóa thực dân mới.
Tôn trọng nghiêm chỉnh hiệp đònh Giơ-ne-vơ, Đảng ta đã thực hiện điều chỉnh khu vực ở miền
Nam, thực hiện tập kết chuyển quân. Vì vậy, từ sau khi thực hiện những chủ trương đó so sánh
lực lượng giữa ta và đòch ở miền Nam có sự thay đổi lớn tạm thời chuyển sang thế giữ gìn lực
lượng, tuy nhiên vì chiến lược vẫn kiên trì tư tưởng chiến lược tiến công.
Thời lỳ tù tháng 7-1954 - 1958, Mỹ Diệm thực hiện chiến dòch “tố cộng, diệt cộng” đã gây cho

lực lượng cách mạng của ta ở miền Nam những tổn thất nặng nề ở một số đòa phương. Tuy
nhiên, nhân dân miền Nam vẫn liên cường đấu tranh chống sự khủng bố đàn áp của Mỹ-Diệm
dưới nhiều hình thức, báo hiệu thời cơ nổi dậy của CM để đập tan chế độ độc tài Mỹ-Diệm.
Trong bối cảnh lòch sử đó, BCH Trung Ương Đảng họp hội nghò lần thứ 15 (1959) ra nghò quyết
về đường lối CM miền Nam, với những nội dung cơ bản như sau :
• Sau khi nhận đònh tính chất xã hội miền Nam là thuộc đòa kiểu mới và căn cứ vào quân sự
của Mỹ, Nghò quyết 15 đã vạch ra mậu thuẩn chủ yếu mà CM phải tập trung giải quyết là mâu
thuẩn giữa dân tộc Việt Nam nhân dân Việt Nam với Đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh
đổ tập đoàn thống trò độc tài Ngô Đình Diệm - tay sai của Đế quốc Mỹ, thành lập một chính
quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân
chủ, cải thiện đời sống của nhân dân. Lực lương CM : nghò quyết 15 xác đònh là công nhân,
nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và nhân só yêu nước. Động lực CM là công nhân, nông
dân, tiểu tư sản : lấy khối liên minh công nông là cơ sở và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đối
tượng CM cần đánh đổ : Đế quốc Mỹ và bọn tay sai thân Mỹ trong giai cấp đòa chủ và tư sản
mại bản.
• Về phương pháp CM : nghò quyết 15 chỉ ra rằng để giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ của MỹDiệm, nhân dân miền Nam phải dùng bạo lực CM của quần chúng để chống lại bạo lực CM
của kẻ thù. Đó là con đường duy nhất đúng, ngoài ra không còn có con đường nào khác.
• Về hình thức đấu tranh : nghò quyết 15 xác đònh là hợp pháp, nữa hợp pháp, bí mật. Hình
thức đấu tranh chính trò là chủ yếu. Để tập hợp rộng rãi mọi lực lượng, phân hóa cao độ kẻ thù
của CM, Trung ương Đảng chủ trương thành lập riêng cho miền Namm5 mặt trận dân tộc thống
nhất.
• Về công tác xây dựng Đảng : nghò quyết 15 nhấn mạnh phải hết sức coi trọng công tác tư
tưởng, nâng cao trình độ chính trò, tư tưởng cho Đảng viên, bảo đảm sự đoàn kết nhất trí và sự
trong sạch trong Đảng. Trong xây dựng chi bộ phải nắm vững phương châm : bí mật, nhỏ, gọn,
trọng chất hơn lượng.


Nghò quyết hết sức đúng đắn này được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960)
thông qua và biến thành một nghò quyết của Đại hội III - nghò quyết 15 của Trung ương Đảng có
tác dụng trực tiếp đối với phong trào CM đang sôi sục của nhân dân ta ở miền Nam.

3. NỘI DUNG CỦA CHÍNH CƯƠNG SÁCH LƯC VẮN TẮT TRONG HỘI NGHỊ THÀNH
LẬP ĐẢNG (3-2-1930):
Về đường lối chiến lược CM : Đảng chủ trương làm Tư sản dân quyền CM và thổ đòa CM để đi
tới xã hội Cộng sản.
Nhiệm vụ của CM : Đảng xác đònh những nhiệm vụ cụ thể trên các phương diện chính trò, kinh
tế, xã hội, bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ, chống Đế quốc và chống Phong kiến, nhưng
nổi bật lên là nhiệm vụ chống Đế quốc và tay sai phong kiến giành độc lập tự do cho toàn thể
dân tộc.
Về lực lượng CM : cương lónh khẳng đònh rằng Đảng phải vận động, thu phục đông đảo công
nhân, nông dân, Đảng phải hết sức l6oi kéo tiểu Tư sản, trí thức, trung nông, đồng thời tập hợp
hoặc trung lập phú nông, trung và tiểu đòa chủ và Tư sản Việt Nam.
Tuy nhiên khi liên lạc với các giai cấp không đi vào đường lối thỏa hiệp.
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, người lãnh đạo CM Việt Nam.
- Đảng phải lir6n kết với các dân tộc bò áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là giai
cấp vô sản Pháp.
Cương lónh CM đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là cương lónh CM giải phóng dân tộc
đúng đắn và sáng tạo. Độc lập dân tộc và tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lónh này.
Tuy còn sơ lược nhưng cương lónh này đã vạch ra cho CM Việt Nam một đường lối chiến lược
và sách lược căn bản đúng đắn, đồng thời vạch ra những nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng
theo chủ nghóa Mác-Lênin.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×