Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang (TT LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.98 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐÀO XUÂN CƯỜNG

PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC
GIA ĐÌNH - TỪ THỰC TIỄN TỈNH TUYÊN QUANG

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

HÀ NỘI - 2016


Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ HƯƠNG
Phản biện 1:…………………………………………………………......
…………………………………………………..............……………...
Phản biện 2:…………………………………………………………….
……………………………………………….......................…………..
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành
chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia
Số:… - Đường…………… - Quận……………… - TP………………
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201...



Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, được Đảng và
Nhà nước ta hết sức quan tâm và đã ban hành hàng loạt các văn bản
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này. Trên
địa bàn tỉnh Tuyên Quang, thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình cũng cho thấy còn những tồn tại,
hạn chế nhất định đòi hỏi phải có những nghiên cứu, đánh giá đầy đủ,
nghiêm túc về những nguyên nhân phát sinh hành vi bạo lực gia đình,
những hậu quả mà hành vi đó mang lại cùng những tác động của nó
tới đời sống gia đình nói riêng cũng như ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội
nói chung. Cùng với đó, là việc nghiên cứu những quy định pháp luật
trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình cũng là vấn đề hết sức
cần thiết để đánh giá toàn diện mức độ điều chỉnh, tác động của pháp
luật hiện hành đối với các quan hệ xã hội có liên quan đến vấn đề bạo
lực gia đình, từ đó phát huy những điểm tích cực và hạn chế, khắc
phục những điểm còn bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang đồng thời đề xuất
những giải pháp cụ thể để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình, không ngừng nâng cao hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
Xuất phát từ những lý do trên, vấn đề “Pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang” đã được tác
giả lựa chọn làm đề tại luận văn thạc sỹ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số công trình nghiên cứu được công bố về vấn đề này, cụ
thể:

1


“Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phòng
chống bạo lực gia đình” của Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật
Hà Nội;
“Tìm hiểu và thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình”
của Phạm Văn Dũng, Nguyễn Đình Thơ;
“Bàn về ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính các
hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Lan
Chi, Viện Nhà nước và Pháp luật;
“Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta hiện
nay- Thực trạng vấn đề và giải pháp” của Viện nghiên cứu Quyền con
người, Học viện Chính trị Quốc gia HCM 2008;
“Bạo lực gia đình–một sự sai lệch giá trị” của tác giả Lê Thị
Quý và Đặng Vũ Cảnh Linh, NXB Khoa học xã hội 2007;
“Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả
Nguyễn Ngọc Điện;
“Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ” của tác giả Trần Thị Hòe;
“Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình” của tác giả Phan
Thị Lan Hương;
“Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực trạng và nguyên
nhân” của Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội;
“Tổng quan về bạo lực và pháp luật phòng, chống bạo lực đối

với phụ nữ, trẻ em” của Nguyễn Thị Kim Phụng…
Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí
khoa học, các Luận văn, đề tài đã được nghiệm thu liên quan đến
vấn đề bạo lực gia đình. Nhìn chung, các công trình nêu trên đã phân
tích, đánh giá vấn đề bạo lực gia đình dưới nhiều góc độ khác nhau,

2


tuy nhiên việc nghiên cứu về pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình từ thực tiễn một địa bàn cụ thể là tỉnh Tuyên Quang từ đó đề xuất
những giải pháp đề hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình thì có rất ít các đề tài đề cập tới. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này
không có sự trùng lắp với những công trình nghiên cứu đã được công
bố, các kết quả nghiên cứu trước đó chỉ có giá trị tham khảo khi tác
giả nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn
diện cơ sở lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hiện
nay; đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
trên địa bàn bàn tỉnh Tuyên Quang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận của pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình theo những quy định hiện hành.
- Phân tích tình hình bạo lực gia đình và thực trạng pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang; phân tích, đánh
giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của thực trạng
thi hành pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang và

làm rõ nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang.

3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng pháp
luật phòng, chống BLGĐ trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang từ năm 2010
đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những
quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình, trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu cụ thể:
thống kê, tổng hợp, diễn giải, quy nạp, phân tích, so sánh để phân
tích và làm rõ các vấn đề khoa học cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Về mặt lý luận, những vấn đề được nghiên cứu trong luận văn
góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay.
Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận
thức của người dân về vấn đề bạo lực gia đình, bên cạnh đó, những
giải pháp được đề xuất vận dụng vào thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả

của công tác đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang và có thể là kinh nghiệm thực tiễn để tham khảo, áp
dụng cho những địa phương khác trên cả nước, đồng thời luận văn
cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về
những vấn đề bạo lực gia đình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 2 chương:

4


Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình
Chương 2: Thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình ở tỉnh Tuyên Quang và quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp
luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
ở Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1.
1.1.1.

Quan niệm về bạo lực gia đình
Khái niệm bạo lực gia đình

Bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi cố ý, chủ thể thực
hiện là thành viên gia đình, hậu quả mang lại đó là gây tổn hại hoặc có
khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành

viên khác trong gia đình. Các hành vi bạo lực gia đình có thể được
biểu hiện dưới dạng hành động như hành hạ, ngược đãi, đánh đập…
hoặc không hành động như bàng quan, thờ ơ, ghẻ lạnh, bỏ mặc hay
“chiến tranh lạnh”.
1.1.2.

Nguồn gốc bạo lực gia đình

Nguồn gốc của bạo lực trong gia đình là do sự nhận thức của
mỗi cá nhân chưa đầy đủ về bình đẳng giới. Bạo lực gia đình là biểu
hiện của sự bất bình đẳng giới, là sản phẩm của tư tưởng gia trưởng
“trọng nam khinh nữ”. Các yếu tố như tệ nạn xã hội, kinh tế thiếu
thốn, mâu thuẫn gia đình…cũng chỉ là những nguyên nhân thứ yếu
dẫn tới bạo lực gia đình. Vì vậy, để giải quyết được triệt để vấn đề bạo
lực gia đình, chúng ta cần phải thay đổi nhận thức của từng cá nhân
cũng như của cả cộng đồng về vấn đề bình đẳng giới.

5


1.1.3.

Đặc điểm của bạo lực gia đình:

Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi trái pháp luật, xâm phạm
những quyền cơ bản nhất của con người đó là quyền được sống, quyền
được tự do, quyền được bảo vệ.
Thứ hai, bạo lực gia đình là hành vi xảy ra giữa các thành viên
trong gia đình, tức là chủ thể có hành vi bạo lực và nạn nhân của hành
vi bạo lực ấy phải là thành viên trong gia đình.

Thứ ba, bạo lực gia đình được thực hiện bởi lỗi cố ý. Người
thực hiện hành vi ý thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng
vẫn cố tình thực hiện hành vi bạo lực đó bất chấp hậu quả xảy ra.
Thứ tư, hậu quả của hành vi bạo lực gia đình là gây tổn hại
hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các
thành viên khác trong gia đình.
1.1.4.


Hậu quả của bạo lực gia đình

Đối với phụ nữ: Hành vi bạo lực gây tổn hại trực tiếp tới

thể chất, sức khỏe bị hủy hoại, bị gây thương tích đau đớn, có thể bị tàn
tật suốt đời, có thể dẫn đến tử vong. Bạo lực cũng gây tổn hại về tinh
thần, người phụ nữ cảm thấy xấu hổ và tội lỗi, luôn bị ám ảnh bởi bạo
lực, chán nản, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, mất tự tin, hoang mang, trầm
cảm, cảm thấy cuộc sống nặng nề, căng thẳng và tuyệt vọng, rối loạn
ăn uống, giấc ngủ.


Đối với gia đình: Hành vi bạo lực làm hao tốn tiền bạc

vào việc chữa trị và phục hồi sức khỏe cho người phụ nữ; phá hỏng
mối quan hệ giữa vợ và chồng, cha và con; giảm khả năng lao động
của người phụ nữ; giảm thời gian lao động do phải nghỉ việc; giảm thu
nhập của gia đình. Bạo lực gia đình còn ảnh hưởng tới sự phát triển
của con cái.

6



 Đối với xã hội: bạo lực gia đình để lại nhiều hậu quả
nghiêm trọng tới xã hội, làm giảm đi sự đóng góp về kinh tế, xã hội
của người bị bạo lực đối với xã hội; gây áp lực lên hệ thống y tế; chi
phí cho chăm sóc sức khỏe do bạo lực gia đình tăng lên; ảnh hưởng
đối với vấn đề kế hoạch hóa gia đình
1.2. Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
1.2.1.Khái niệm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là hệ thống các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã
hội có liên quan tới hành vi bạo lực giữa các thành viên trong gia đình,
nhằm bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của họ, tạo điều kiện
cần thiết để xây dựng gia đình bình đẳng, hạnh phúc, văn minh, góp
phần ổn định trật tự xã hội, thực hiện các mục tiêu về quyền con
người, quyền công dân đã được Nhà nước ghi nhận.
1.2.2. Nội dung pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình


Mục tiêu cơ bản của pháp luật về phòng, chống BLGĐ

Mục tiêu chung nhất của pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình đó là “xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội”,
trên cơ sở quyền bình đẳng giới được tôn trọng, trẻ em được chăm
sóc, bảo vệ và giáo dục, các quyền con người về tinh thần, kinh tế
được bảo vệ khỏi các hành vi bạo lực gia đình.


Các nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình


Nguyên tắc: “Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp
phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng
công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp
với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam”.

7


Nguyên tắc “Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn
chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật”
Nguyên tắc “Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ
kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ
em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ”.
Nguyên tắc “Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia
đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia
đình


Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể

Thứ nhất, với chủ thể là nạn nhân của bạo lực gia đình có
quyền được Nhà nước bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm trước các hành vi bạo lực gia đình (được quy định tại Điều 5
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Bên cạnh đó, họ cũng phải thực
hiện nghĩa vụ: cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.
Thứ hai, với chủ thể là người có hành vi bạo lực gia đình phải
chấm dứt ngay hành vi bạo lực; chấp hành quyết định của cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền, có nghĩa vụ chăm sóc, bồi thường cho nạn nhân
của mình (quy định tại Điều 4 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình)


Trách nhiệm của cá nhân, gia đình và các cơ quan tổ

chức trong phòng, chống bạo lực gia đình
Phòng chống bạo lực gia đình là trách nhiệm của gia đình,
thành viên gia đình (Điều 32 Luật phòng, chống bạo lực gia đình); là
trách nhiệm của các cá nhân ( Điều 31 Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình) và là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức như: Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và một số Bộ, ngành
khác (Điều từ 36 đến Điều 41 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình).

8




Xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình

Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình có thể bị xử lý bằng các biện pháp khác nhau: xử lý kỷ luật,
xử lý hành chính, xử lý theo pháp luật dân sự, xử lý theo pháp luật
hình sự. Tùy từng mức độ xâm hại do hành vi bạo lực gia đình gây ra
trong những trường hợp cụ thể để lựa chọn hình thức xử lý tương
xứng.


Vấn đề phòng ngừa bạo lực gia đình và bảo vệ nạn nhân


bạo lực gia đình
Đây là nội dung quan trọng trong Luật phòng chống bạo lực
gia đình, bao gồm các biện pháp: xử lý đối với những người đã vi
phạm; bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình, đồng thời trợ giúp nạn nhân
để tạo điều kiện tốt nhất cho việc hàn gắn những tổn thương mất mát
của họ do hành vi bạo lực gia đình gây ra từ việc trợ giúp, khám chữa
bệnh, bảo trợ xã hội cũng như tư vấn tâm lý.
1.3.

Các yếu tố ảnh hưởng tới pháp luật về phòng,

chống bạo lực gia đình
1.3.1.


Yếu tố chính trị

Sự lãnh đạo của Đảng: vấn đề phòng, chống bạo lực gia

đình đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm chú ý. Những
định hướng mang tính chiến lược của Đảng đã và đang được thể chế
hóa thông qua việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình từ đó từng bước luật hóa vấn đề bạo lực
gia đình, nâng cao nhận thức của người dân trong việc xây dựng một
gia đình hạnh phúc, góp phần hoàn thành những mục tiêu chiến lược
của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới.


Vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội: Các tổ chức


chính trị- xã hội là các tổ chức đại diện quyền, lợi ích pháp chính của

9


phụ nữ và trẻ em, chính vì thế các tổ chức chính trị- xã hội đã thể hiện
được tiếng nói mạnh mẽ của mình trong công tác tuyên truyền, vận
động nhằm nâng cao nhận thức cho người dân về bạo lực gia đình,
đồng thời tham mưu với các cấp có thẩm quyền về các văn bản hướng
dẫn thi hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và tăng
cường vai trò kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật theo chức
năng, nhiệm vụ của mình.
1.3.2.

Yếu tố kinh tế

Việc xây dựng, thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình đạt kết quả cần phải được thực hiện đồng bộ với các các
chính sách kinh tế, nâng cao nhận thức pháp luật về phòng chống bạo
lực gia đình phải đi đôi với nâng cao đời sống vật chất cho người dân.
Các chính sách kinh tế hiệu quả góp phần cải thiện đời sống vật chất
của người dân sẽ tạo nền tảng vững chắc cho việc nâng cao dân trí,
giảm thiểu bạo lực gia đình trong xã hội.
1.3.3.

Yếu tố văn hóa, xã hội.

Cần phải xây dựng cũng như thực hiện pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình để đảm bảo vừa mang tính răn đe, vừa định

hướng hành động và giáo dục ý thức pháp luật cho người dân về vấn
đề bạo lực gia đình. Xây dựng pháp luật cần đi đôi với giáo dục đạo lý
làm người, đạo đức xã hội cũng như phát huy truyền thống văn hóa,
thuần phong mỹ tục của dân tộc. Bên cạnh đó, việc đảm bảo những
phúc lợi xã hội, an sinh xã hội cũng rất cần nhận được sự quan tâm và
đầu tư mạnh mẽ để cải thiện đời sống nhân dân, tạo điều kiện cho
người dân được tiếp cận thông tin kịp thời, nâng cao dân trí, ý thức
pháp luật, đặc biệt trong vấn đề phòng chống bạo lực gia đình.
1.3.4.

Yếu tố pháp lý

10


Pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội, tạo ra trật tự và ổn định cho xã hội nhất là trong
việc ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng vi phạm pháp luật. Một hệ
thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình hoàn thiện, đầy đủ,
thống nhất, cụ thể, tính khả thi cao, dân chủ, tiến bộ, hướng tới các giá
trị nhân văn cùng với hệ thống các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn
và xoá bỏ nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình ngày càng đầy đủ cùng với các hoạt động có hiệu quả của
hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ là những đảm bảo pháp lý để
ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
đối với phụ nữ. Pháp luật được xem là yếu tố đảm bảo cơ bản nhất
trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình.
CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở
TỈNH TUYÊN QUANG VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN

THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA
ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng bạo lực gia đình và pháp luật về phòng
chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang
2.1.1. Thực trạng và nguyên nhân bạo lực gia đình ở tỉnh
Tuyên Quang
2.1.1.1. Thực trạng bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang
Thứ nhất, bạo lực giữa vợ và chồng
Bạo lực giữa vợ và chồng là hình thức bạo lực được coi là phổ
biến nhất trong gia đình, trong đó bạo lực do người chồng gây ra chủ
yếu và lớn nhất là bạo lực về thể chất - hình thức bạo lực dễ nhận thấy

11


nhất và bị lên án mạnh mẽ nhất, thể hiện qua các hình thức cụ thể như
sau:


Bạo lực về thân thể: Bạo lực về thân thể là hình thức

khá phổ biến trong các dạng bạo lực gia đình hiện nay, là một trong
những nguyên nhân hàng đầu gây ra thương tích cho phụ nữ. Bạo
lực thân thể là dạng bạo lực phổ biến hiện nay ở cả khu vực nông
thôn lẫn thành thị, chiếm đa phần các vụ bạo lực gia đình trên địa
bàn.


Bạo lực về tinh thần: Cùng với bạo lực về thân thể, bạo


lực về tinh thần đối với phụ nữ là hình thức bạo lực đối với phụ nữ
ngày càng phổ biến ở trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Bạo lực về tinh
thần đã gây cho người phụ nữ những chấn động mạnh và lâu dài về
tâm lý, họ phải chịu đựng những sang chấn tâm lý mà không dễ gì
chữa khỏi.


Bạo lực về kinh tế: Cùng với bạo lực về thể chất, bạo lực

về tinh thần còn có bạo lực về kinh tế. Đó là những hành vi dùng sức
mạnh, áp đặt hoặc lừa mị nhằm chiếm giữ và kiểm soát tài chính đối
với người phụ nữ trong gia đình nhằm tạo ra sự phụ thuộc về mặt kinh
tế.


Bạo lực tình dục: Hình thức bạo lực này rất khó phát hiện

bởi tất cả các nạn nhân rất ít khi nói ra. Thực tế cho thấy bạo lực tình
dục là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm, vì vậy khi bị bạo hành về tình
dục, người phụ nữ rất ngại nói ra, đành cam chịu để giữ yên "tổ ấm"
của mình, tuy nhiên người phụ nữ sau khi bị cưỡng ép quan hệ tình
dục sẽ phải chịu nhiều hậu quả nặng nề, ảnh hưởng đến sức khoẻ và
tâm lý của người phụ nữ.
Thứ hai, bạo lực giữa cha mẹ và con cái

12


Do tâm lý, truyền thống, thói quen của người Việt, nên bạo
lực gia đình giữa cha mẹ với con cái là khá phổ biến và được xã hội

chấp nhận. Tại Tuyên Quang, do đa phần dân cư tâp trung ở khu vực
nông thôn, gắn với văn hóa làng xã, còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu,
do đó những hành động “dạy bảo” con cái, xuất phát từ quan niệm
“yêu cho roi cho vọt” và giáo dục cần phải nghiêm khắc vẫn còn là tư
tưởng phổ biến. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, khi những chuẩn
mực tiến bộ về quyền con người đã và đang được phổ biến trên thế
giới thì những tư tưởng, cách làm này cần được loại bỏ, đặc biệt là
những trường hợp bạo lực với con cái vượt ra ngoài phạm vi giáo dụcmột tình trạng ngày càng gia tăng- thì càng cần phải bị trừng trị
nghiêm khắc.
Thứ ba, bạo lực giữa các thành viên khác trong gia đình
Bạo lực giữa các thành viên khác trong gia đình với nhau
cũng đã tồn tại từ lâu nhưng chiếm tỷ lệ không lớn, vì mức độ phụ
thuộc giữa các thành viên này là không cao như giữa vợ chồng hay
cha mẹ với con. Nạn nhân của loại bạo lực này vẫn chủ yếu là phụ nữ
và trẻ em khi mà các thành viên này muốn tham gia vào việc “giáo
dục” những người làm dâu, làm con trong gia đình. Ngoài ra, những
mâu thuẫn trong gia đình không tìm được cách giải quyết cũng dẫn tới
nạn bạo lực giữa những thành viên khác: anh em, chú cháu đánh nhau
vì xích mích trong cuộc sống, vì tranh chấp tài sản; chị em mắng chửi,
nói xấu nhau…
2.1.1.2. Nguyên nhân của bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên
Quang


Bất bình đẳng giới

Nhiều cuộc điều tra, khảo sát, nghiên cứu gần đây nhất đã chỉ
ra rằng có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình đối với phụ

13



nữ nhưng nguyên nhân gốc rễ sâu xa nhất, cơ bản nhất là do có sự bất
bình đẳng trong quan hệ giới.
Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, quan niệm "trọng nam khinh
nữ" tồn tại và ảnh hưởng lâu dài trong rất nhiều thế hệ đã làm cho
người phụ nữ có vị trí thấp kém trong gia đình và xã hội. Họ sinh ra là
để phục vụ chồng một cách chu đáo, mọi việc phải tuân theo ý của
chồng, là vật sở hữu mà nhiều ông chồng muốn làm gì là quyền của
họ, những hành vi bạo lực gia đình cũng phát sinh từ chính quan hệ
bất bình đẳng giới này.


Cuộc sống đói nghèo, lạc hậu

Thực tiễn công tác phòng, chống bạo lực gia đình cho thấy, có
nhiều vụ việc người vợ bị ngược đãi bắt nguồn từ nguyên nhân cuộc
sống đói nghèo, khó khăn.

Nghèo đói đã tạo ra những áp lực

không nhỏ cho các thành viên gia đình trong việc duy trì đời sống
kinh tế, điều này là nguyên nhân làm cho các mối quan hệ trong gia
đình căng thẳng, từ đó nảy sinh mâu thuẫn và dường như bạo lực gia
đình là cách để con người giải tỏa trước những áp lực kinh tế của cuộc
sống.


Tệ nạn xã hội


Tệ nạn xã hội là nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp
luật trong đó có vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
Thực tiễn đã chứng minh tệ nạn xã hội làm nhiều người đàn ông đã
mất tự chủ và thường giải quyết bất đồng với vợ bằng hành vi bạo lực.
Những tệ nạn xã hội được thường thấy đó là: nghiện rượu, ma túy, cờ
bạc, ngoại tình.


Hiểu biết pháp luật hạn chế

Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, mặc dù Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình đã có hiệu lực từ năm 01/7/2008 nhưng nhận thức về

14


pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn nhiều hạn chế. Không chỉ
người dân thiếu hiểu biết mà nhiều lãnh đạo các cấp đã coi bạo lực gia
đình là chuyện nội bộ của gia đình, là chuyện trong nhà cần đóng cửa
bảo nhau và chưa có biện pháp can thiệp kịp thời. Phòng, chống bạo
lực gia đình đôi khi còn chưa được các cấp chính quyền, đoàn thể ở
địa phương quan tâm sâu sát do chưa nhận thức hết tầm quan trọng
của vấn đề..


Nguyên nhân từ phía người phụ nữ

Thực tế cho thấy nhiều người phụ nữ đã không nhận thức
được việc chồng sử dụng bạo lực đối với mình là trái pháp luật mà coi
đó là chuyện thường tình, không tránh khỏi trong cuộc sống gia đình,

đánh vợ là quyền của người chồng, họ không dám đấu tranh với chồng
lại càng không dám chủ động trong việc ly hôn, vì nếu như vậy họ sẽ
mất hết của cải, danh dự, con cái. Chính sự nhẫn nhục của người phụ
nữ khi là nạn nhân đã làm cho hình ảnh của họ ngày càng bi thảm,
cuộc đời của họ đi vào bước đường cùng. Với nhận thức chưa đầy đủ
về bạo lực gia đình mà người phụ nữ không có sự phản kháng kịp
thời, mạnh mẽ để bảo vệ mình. Tự cho rằng mình có địa vị thấp
trong xã hội nên nhiều người vợ đã chấp nhận tất cả từ những điều
tồi tệ nhất trong cuộc sống, cứ nhẫn nhục chịu đựng, cam chịu vì
một gia đình bình yên mặc dù đó là bình yên giả dối.
2.1.2. Thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang
2.1.2.1. Thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang
Để triển khai thực hiện những chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống bạo lực gia
đình, trong thời gian qua UBND tỉnh Tuyên Quang cùng các sở, ban,

15


ngành có liên quan đã ban hành hành loạt các văn bản để cụ thể hóa
các nhiệm vụ và nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống bạo lực
gia đình gắn với những đặc điểm kinh tế, xã hội nhất định của địa
phương, cụ thể là:
Kế hoạch số 36/KH-UBND ngày 18-12-2008 của UBND tỉnh
Tuyên Quang về việc triển khai thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình nhằm mục đích tuyên truyền sâu rộng Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình và các văn bản liên quan nhằm nâng cao nhận thức và ý
thức chấp hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình cho cán

bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ lực lượng vũ trang và cộng đồng.
Đảm bảo môi trường pháp luật về lĩnh vực gia đình, góp phần củng
cố, xây dựng gia đình Việt Nam thực sự ấm no, bình đẳng, tiến bộ và
hạnh phúc.
Kế hoạch số 45/KH-UBND về thực hiện đề án: Tuyên truyền,
giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2010-2015 tỉnh Tuyên Quang để
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nâng
cao nhận thức pháp luật của người dân về trò của người phụ nữ trong
gia đình và xã hội.
Đồng thời, để triển khai thực hiện Chiến lược phát triển gia
đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của Chính phủ, ngày
26/6/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã xây dựng Kế hoạch
số 45/KH-UBND về thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt
Nam và xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước tỉnh Tuyên Quang đến năm 2020.
Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân tỉnh còn ban hành hàng loạt
các Chỉ thị để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể hàng năm về công tác
gia đình trên địa bàn như: tổ chức ngày Quốc tế hạnh phúc 20 tháng 3,

16


ngày Gia đình Việt Nam 28 tháng 6, ngày Quốc tế xoá bỏ bạo lực đối
với phụ nữ và bình đẳng giới 25 tháng 11; thành lập Ban chỉ đạo công
tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình cấp tỉnh, huyện, xã
(hiện đã thành lập ở 141/141 xã, phường, thị trấn).
2.1.2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang



Ưu điểm:

Nhìn chung, qua các năm triển khai thi hành pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình và triển khai thực hiện thí điểm các mô
hình can thiệp phòng chống bạo lực gia đình đã có tác dụng thiết thực,
góp phần nâng cao nhận thức, phát huy vai trò vị trí của gia đình, thực
hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
nhà nước đối với công tác gia đình, đặc biệt trong việc thực hiện Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân
và Gia đình... góp phần giảm thiểu các vụ bạo lực gia đình. Công tác
can thiệp, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình đã được triển khai kịp thời
và có hiệu quả, các huyện, thành phố đã xây dựng được kế hoạch triển
khai thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Một số ban, ngành
đã phối hợp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc lồng ghép tuyên truyền
nội dung phòng, chống bạo lực gia đình với phong trào "Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" với nhiều nội dung, hình thức
phong phú, góp phần nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi trong
phòng, chống bạo lực gia đình, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá
nhân, cộng động trong việc phòng, chống bạo lực gia đình, xây dựng
gia đình hoà thuận, ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Cụ thể:
- Coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính
sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

17


- Làm tốt công tác triển khai nhân rộng và duy trì các mô hình
phòng, chống bạo lực gia đình.



Hạn chế:

Thứ nhất, công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện luật phòng,
chống bạo lực gia đình chưa thường xuyên, liên tục và còn thiếu các
giải pháp đồng bộ từ kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với chính sách pháp
luật, từ đó đã làm hạn chế những kết quả trong đấu tranh đẩy lùi bạo
lực gia đình.
Thứ hai, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên còn thiếu và
yếu, mặc dù đã được tập huấn, đào tạo nhưng vẫn chưa đáp ứng được
đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể có liên
quan trong công tác phòng chống bạo lực gia đình, mặc dù đã có sự
tập trung chỉ đạo từ các cấp lãnh đạo, song hiệu quả của công tác phối
hợp chưa cao, đôi khi còn nặng về hình thức.
Thứ tư, nhiều quy định của pháp luật về phòng chống bạo lực
gia đình chưa được thực thi nghiêm túc.
Thứ năm, đối với việc xử lý những hành vi vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình thì sự vào cuộc của cơ quan chức năng
còn rất hạn chế.

18


2.2. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG,
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực
hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
2.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo

lực gia đình phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền con người của
nhà nước pháp quyền
Mọi vấn đề về phòng, chống bạo lực gia đình cần được nhìn
nhận dưới lăng kính của quyền con người, không chỉ tiếp cận vấn đề
phòng, chống bạo lực gia đình chỉ từ bên ngoài, chúng ta cần thiết có
sự tiếp cận từ bên trong, từ chính các đối tượng bị bạo hành với những
nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng phù hợp với điều kiện kinh tế- xã
hội của đất nước ở từng thời điểm. Nhà nước và cộng đồng phải có
trách nhiệm bảo đảm phòng, chống bạo lực gia đình và hoàn thiện
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1.2. Thể chế hóa chủ trương đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình phù
hợp với tình hình cụ thể của địa phương để xây dựng gia đình Việt
Nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc
Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình phải là những quy
phạm chung nhất, định hướng cho hành động của các cấp chính quyền
địa phương trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình theo đúng
những đường lối chung mà Đảng và Nhà nước đề ra, đảm bảo sự
thống nhất trong hành động từ Trung ương tới địa phương đồng thời
phát huy những mặt tích cực của địa phương trong phòng, chống bạo
lực gia đình.

19


2.2.1.3. Phòng, chống bạo lực gia đình gắn với việc
xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Công tác triển khai phòng chống bạo lực gia đình trên địa bàn
tỉnh cần phải được thực hiện một cách toàn diện trên các lĩnh vực với
những giải pháp đồng bộ gắn với những mục tiêu xây dựng gia đình

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại địa phương để đảm bảo đẩy
lùi nạn bạo hành trong gia đình nhưng cũng tạo điều kiện tốt nhất để
xây dựng và phát triển gia đình, để các cá nhân trong gia đình được
đóng góp công sức vào quá trình phát triển chung của xã hội và cộng
đồng, đồng thời ngăn chặn có hiệu quả bạo lực gia đình tái diễn trong
tương lai.
2.2.1.4. Phát huy vai trò của cá nhân, tổ chức và cả
cộng đồng trong phòng, chống bạo lực gia đình; chú trọng những
biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình tại cộng đồng; phát hiện và
có những giải pháp hỗ trợ kịp thời đối với nạn nhân bạo lực gia
đình
Tính chất và mức độ của hành vi bạo lực gia đình đã ảnh
hưởng nghiêm trọng tới thể chất, tinh thần của nạn nhân, vì vậy, việc
phòng chống bạo lực gia đình phải được sự quan tâm và chung tay
giải quyết không chỉ của các cấp chính quyền mà còn của cả cộng
đồng.
2.2.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình
2.2.2.1. Xác định rõ hành vi bạo lực gia đình
Cần có sự hướng dẫn cụ thể và phải phân loại chi tiết và đầy
đủ về hành vi bạo lực gia đình từ đó mới có thể dễ dàng tuyên truyền,
giáo dục cho từng nhóm đối tượng cụ thể, tăng cường nhận thức về

20


những hành vi bạo lực gia đình, nhận diện chính xác hành vi vi phạm
để từ đó có những biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
2.2.2.2. Xác định rõ đối tượng của bạo lực gia đình
Hiện nay đối tượng điều chỉnh của Luật Phòng, chống bạo lực

gia đình chưa được quy định một cách rõ ràng, có thể gây ra nhiều
cách hiểu khác nhau, và do đó việc áp dụng các quy định này để bạo
vệ nạn nhân trở nên khó khăn hơn. Mặt khắc, nhận thức của người dân
về bạo lực gia đình là chưa cao, để đảm bảo những quy định của pháp
luật thực sự đơn giản, dễ hiểu và dễ áp dụng, các cơ quan có thẩm
quyền cần quy định cụ thể, rõ ràng về đối tượng điều chỉnh của Luật
này
2.2.2.3. Quy định rõ hình thức phạt tiền đối với xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình
Một số quy định về hình thức phạt tiền của Nghị định
số 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ chưa thực sự hợp lý và không có
tính khả thi, vì vậy cần có những điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với
thực tiễn như: có thể bỏ chế tài phạt tiền người chồng hoặc vợ khi có
hành vi bạo hành mà dùng hình thức chế tài khác như lao động công
ích tại địa phương...
2.2.2.4. Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền khi dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng
quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình
Cần phải quy định chặt chẽ hơn trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền trong phòng, chống bạo lực gia đình, phải có
quy định cụ thể về xử lý với những hành vi vi phạm từ phía cơ quan,
tổ chức để tăng cường tính răn đe và tinh thần trách nhiệm trong công
tác đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình.

21


2.2.2.5. Tăng khung hình phạt xử lý hình sự đối với hành vi
bạo lực gia đình
Theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, khung hình

phạt hiện nay đối với một số tội liên quan đến những hành vi bạo lực
trong gia đình như: đối với tội bức tử (Điều 100) cao nhất là bảy năm
tù, còn các tội khác mức hình phạt cao nhất cũng chỉ tới ba năm tù là
chưa nghiêm, chưa đủ để mang tính răn đe. Do đó pháp luật hình sự
cần bổ sung thêm các tình tiết định khung như: "phạm tội đối với vợ,
chồng, con cái" và "gây tổn hại sức khỏe cho các thành viên trong gia
đình" vào các tội danh trên.
2.2.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình
2.2.3.1. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương và phát huy vai trò của cả hệ thống
chính trị trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình
Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần chỉ đạo
kịp thời, nhất quán, tăng cường hiệu quả phối kết hợp giữa các ban
ngành, cơ quan, tổ chức trên địa bàn trong công tác phòng chống
bạo lực gia đình, huy động những nguồn lực tại chỗ cũng như
nguồn vốn xã hội hóa duy trì và nhân rộng hoạt động của các mô
hình phòng chống bạo lực gia đình có hiệu quả, phát huy tối đa sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị tại địa phương đối với
công tác phòng, chống bạo lực gia đình.
2.2.3.2. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chuyên trách trong công tác phòng, chống bạo lực
gia đình
Cần có những chiến lược dài hạn trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng những cán bộ thực thi pháp luật chuyên trách tại địa

22


phương như: cán bộ tư pháp, báo cáo viên, tuyên truyền viên,

cán bộ hòa giải cơ sở của Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên…
2.2.3.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào
tạo, thông tin về bình đẳng giới và bạo lực gia đình cho cộng đồng
Giáo dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình sẽ giúp cho
các chủ thể trong xã hội có kiến thức về pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình, có lòng tin vào sự nghiêm minh của pháp luật từ đó hình
thành thói quen xử sự theo pháp luật, có ý thức pháp luật cao từ đó
thực hiện những hành vi hợp pháp, phù hợp với những quy định mà
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đặt ra.
2.2.3.4. Nâng cao khả năng tự bảo vệ của phụ nữ trước bạo
lực gia đình
Việc nâng cao khả năng tự bảo vệ của phụ nữ trước bạo lực
gia đình là việc làm rất cần thiết, cấp bách và quan trọng bởi vì làm
như vậy, chính là đã tạo điều kiện cho họ có sức mạnh để tự bảo vệ
mình, giảm thiểu những rủi ro trước bạo lực.
2.2.3.5. Thực hiện việc xã hội hóa công tác phòng,
chống bạo lực gia đình gắn với các mục tiêu phát triển kinh tếxã hội
Bạo lực gia đình không còn là vấn đề riêng của mỗi gia
đình mà nó đã trở thành vấn nạn quốc gia, cần sự chung tay của cả
xã hội. Có như vậy, việc phòng, chống bạo lực gia đình mới đạt
được hiệu quả thiết thực.
2.2.3.6. Quy định chế độ khen thưởng, khuyến khích người
trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình
Đây là giải pháp tích cực nhằm thúc đẩy tinh thần chủ động
của cộng đồng trong việc góp sức mình vào cuộc đấu tranh loại bỏ vi
phạm pháp luật trong đó có vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực

23



×