Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tiểu luận “kinh tế thị trường xã hội” của CHLB đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.67 KB, 40 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, việc nghiên cứu học thuyết kinh tế trở nên rất cần thiết
không những đối với các nhà quản lý kinh tế nói riêng, mà còn cần thiết cho
những động nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Nhìn lại lịch sử các
học thuyết kinh tế, chúng ta thấy rằng, các học thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự
do mới phát triển mạnh ở Cộng hòa Liên bang Đức, Anh, Mĩ, Aó và Thụy
Điển với nhiều hình thức khác nhau. Chủnghĩa bảo thủ ở Mĩ, chủ nghĩa giới
hạn mới ở Aó và Thụy Điển, chủnghĩa cá nhân mới ở Anh và đặc biệt là kinh
tế thị trường xã hội ở Cộng hòa Liên bang Đức. Với tư cách là một nhánh của
trào lưu tư tưởng chủ nghĩa tự do mới, nó là một điểm sáng đóng góp cho sự
phát triển của tư tưởng kinh tế nói chung, và sự phát triển của học thuyết kinh
tế mới nói riêng.
Học thuyết này được xây dựng trên cơ sở mô hình kinh tế của LeNin,
nên ngay từ khi ra đời, lý thuyết “ kinh tế thị trường xã hội” đã gây được sự
chú ý. Nó kích thích mạnh mẽ sáng kiến cá nhân và lợi ích toàn xã hội, đồng
thời phòng tránh được các khuyết tật lớn về kinh tế thị trường, chống lạm
phát, giảm thất nghiệp, bảo vệ giúp đỡ các tầng lớp xã hội gặp khó khăn
nghèo nàn, đảm bảo cuộc sống an toàn và xứng đáng, phù hợp với trình độ
phát triển chung của xã hội hiện đại. Nó góp phần tạo dựng nền kinh tế thị
trường, vừa thực hiện công bằng xã hội.
Ngày nay, rất nhiều nhà khoa học vẫn tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về
vai trò lý thuyết “ kinh tế thị trường xã hội” đối với sự phát triển kinh tế xã
hội. Đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hôi chủ nghĩa ở nước ta. Trong bài phát biểu đầu năm mới 2012 của
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đồng chí đã đề cao vai trò của nền kinh tế thị


trường trong sự phát triển kinh tế ở nước ta, do vậy việc nghiên cứu các học
thuyết kinh tế trong lịch sử, đặc biệt là lý thuyết “ kinh tế thị trường xã hội”
của CHLB Đức là vô cùng quan trọng, để rút ra những bài học kinh nghiệm
2


góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa ở nước
ta phát triển nhanh và vượt bậc.
1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài với mục đích là nghiên cứu nội dung cơ bản của lý thuyết “ nền
kinh tế thị trường xã hội ” của chủ nghĩa tự do mới ở Cộng hòa Liên bang Đức.
Nhiệm vụ của đề tài là:


Nêu được khái quát về lí thuyết nền kinh tế thị trường xã hội của chủ nghĩa tự
do mới.



Nêu được lý thuyết kinh tế thị trường xã hội ở CHLB Đức.



Đánh giá về lý thuyết “ nền kinh tế thị trường xã hội”.



Vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.
2. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu.
Với đề tài này ta có thể sử dụng các phương pháp sau:




Cơ sở lý luận, phương pháp luận của lí thuyết nền kinh tế thị trường xã hội
của chủ nghĩa tự do mới.



Phương pháp lịch sử.



Phương pháp logic.



Phương pháp phân tích.



Phương pháp tổng hợp.
3. Yêu cầu.
Hiểu rõ và nắm vững lí thuyết nền kinh tế thị trường xã hội của chủ
nghĩa tự do mới? Phân tích được lí thuyết kinh tế thị trường xã hội ở CHLB
Đức. Trình bày những mặt tiến bộ và hạn chế của lí thuyết kinh tế thị trường
xã hội này. Đồng thời vận dụng sáng tạo những quan điểm của lí thuyết này
vào thực tiễn Việt Nam.

3



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ ĐỨC VÀ LÝ
THUYẾT NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CỦA CHỦ
NGHĨA TỰ DOMỚI Ở ĐỨC
1.1.Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội của Đức.
Vị trí địa lý: Đức là một quốc gia liên bang nằm ở Trung Âu và có
chung đường biên giới với các nước Đan Mạch, Ba Lan và Séc, Áo và Thụy
Sĩ, Pháp, Luxembourg, Bỉ và Hà Lan. Lãnh thổ Đức trải rộng 357.021 km2.
Thủ đô là berlin.
Đức là một quốc gia lớn về diện tích, kinh tế và chính trị ở châu Âu
Điều kiện tự nhiên: địa hình nước Đức khá phức tạp, thuộc vùng khí
hậu ôn hòa, có điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Điều kiện xã hội: đức là quốc gia có dân số lớn nhất liên minh châu Âu
với hơn 82 triệu người, phần lớn là người Đức.
Về Kinh tế: đức là quốc gia có nền kinh tế lớn nhất châu Âu với tổng
GDP là 3089 tỉ USD năm 2011 và là thành viên trong nhóm G7.
Về chính trị: Đức là một quốc gia có nền chính trị ổn định và là thành
viên của hội đồng bảo An Liên hợp quốc.
1.2. Khái quát về lý thuyết nền kinh tế thị trường xã hội
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Trong thực tiễn, mô hình kinh tế thị trường xã hội được thực thi từ cuối
thập kỉ 90, đây là một mô hình kinh tế thị trường hiện đại diễn ra chủ yếu ở
nước CHLB Đức và một số nước Bắc Âu khác. Một trong những kiến trúc sư
chủ xướng mô hình kinh tế thị trường xã hội là tiến sĩ kinh tế Gornot Gutmann
– Chủ tịch hội các nhà khoa học kinh tế và khoa học xã hội CHLB Đức chủ
nghĩa tự do mới khi xây dựng lí luận về nền kinh tế thị trường xã hội đã coi
sựhoạt động của hệ thống giá trị cả hình thành trên cơ sở tác động của cung cầu
trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo là tiền đề quan trọng nhất của nó.
4



1.2.2. Đặc điểm cơ bản
Đặc điểm của lý thuyết nền kinh tế thị trường xã hội bao gồm những
đặc điểm chínhsau:
1.2.2.1. Bản chất của kinh tế thị trường xã hội
Kinh tế thị trường xã hội là khái niệm về một hình thái kinh tế thị
trường mớira đời đầu tiên ở Tây Đức ( Cộng hòa Liên bang Đức) mà tác giả
là những người theo trường phái kinh tế thị trường như: Freiburg, Frederich,
F.A.von Hayek, Wolf ogen. Về bản chất, kinh tế thị trường xã hội gần giống
với kinh tế thị trường nhưng mục tiêu của nó là: “gắn kết trên cơ sở thị trường
các nguyên tắc tự do và bình đẳng xã hội”. Tuy nhiên, cần tránh hiểu nhầm
vấn đề tự do trên thị trường.
Khái niệm kinh tế thị trường xã hội hoàn toàn khác với quan điểm của “
chủ nghĩa tự do mới”. Kinhtế thị trường xã hội không đồng nhất với cái gọi
là: “kinh tế thị trường tự do” .Đây là mô hình kinh tế được các nhà kinh tế
theo trường phái tự do của Mĩ đề xuất , mà bản chất của nó là giảm thiểu sự
can thiệp của nhà nước và để cho nền kinh tế tự vận hành thông qua các công
cụ của nó.
Kinh tế thị trường xã hội cũng không đồng nhất với các quan điểm kinh
tế, xã hội của những người trọng tiền. Những người này muốn giảm thiểu sự
can thiệp của Nhà nước nhưng đồng thờicũng muốn chiến đấu với lạm phát
bằng cách theo đuổi một chính sách hạn chế kiểm soát lượng cung tiền tệ.
Hơn nữa, họ cho rằng tiến trìnhkinh tế tự nó hoàn toàn có khả năng chịu đựng
các biến động có tínhkì nếu nhà nước kiềm chế không can thiệp.
Theo các nhà khởi xướngthì kinh tế thị trường xã hội là mô hình kinh
tế không phải XHCN và cũng không phải TBCN mà như một “ con đường
thứ ba”, thực chất con đường thứ ba này là từ bỏ chủ nghĩa tư bản tự do, đồng
thời chống độc quyền, bảo vệ những nguyên lí của kinh tế thị trường. Theo
Alfred Muller Armack, một trong những tác giả của mô hình kinh tế thị

trường xã hội ở CHLB Đức: “Đối với chúng ta giờ đây, cả hai mô hình kinh
5


tế thị trường tự do và kinh tế kế hoạch hóa, đều đã trở nên lỗi thời, chúng ta
cần phát triển mô hình thứ ba, đó không phải là hỗn hợp thuần túy hoặc là sự
thỏa hiệp của hai mô hình trước mà chính là sự tổng hợp những hiểu biết về
thời đại của chúng ta hiện nay. Chúng ta gọi mô hình thứ ba này là: “kinh tế
thị trường xã hội”.
1.2.2.2. Nội dung của lí thuyết kinh tế thị trường xã hội
Với mô hình kinh tế thị trường xã hội, thể chế và cơ quan chính phủcó
vai trò đảm bảo ổn định xã hội có tầm quan trọng đặc biệt. Những cơ quan có
liên quan tới chính sách xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô có vai trò chủ đạo,
nhằm cố gắng loại trừ lạm phát và thất nghiệp bằng các biện pháp tiền tệ và
tài khóa. Một mặt, mô hình kinh tế thị trường xã hội tìm kiếm sự cân bằng
giữa việc tạo ra và duy trì kinh tế thị trường, mặt khác đảm bảo sự công bằng
xã hội. Điều này trên thực tế là một cách thức chính trị không dễ đối phó, đặc
biệt trong giai đoạn suy thoái kinh tế.
Như đã đề cập ở trên, các nguyên tắc của thị trường tự do và công bằng
xã hội được thống nhất trong mô hình kinh tế thị trường xã hội. Một mặt, nó
khuyến khích và nhấn mạnh các nhân tố kích thích các sáng kiến cá nhân vì
lợi ích của nền kinh tế. Mặt khác, nó loại bỏ các phát triển không mong muốn
bất cứ khi nào có thể, ví dụ như: sự thiếu thốn, cùng cực của một số nhóm xã
hội, lạm phát và thất nghiệp. Tóm lại, có thể hiểu một cách ngắn gọn kinh tế
thị trường xã hội là một nền kinh tế thị trường kết hợp tự do với công bằng xã
hội. Điều này có vẻ trái với bản chất nền kinh tế thị trường nói chung, vì trong
nền kinh tế thị trường nói chung, tự do và công bằng không thể nào dung hợp
được. Người ta phải luôn luôn đứng trước sự lựa chọn: nếu nhiều tự do thì ít
công bằng, nếu nhiều công bằng thì ít tự do, tức là chúng luôn luôn tỉ lệ
nghịch với nhau.

Tuy nhiên, theo lí thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội vì tự do và
công bằnglại có thể dung hợp với nhau mà không xảy ra đối nghịch. Cụ thể
hơn,trong kinh tế thị trường xã hội, sáng kiến cá nhân được kích thích một
6


cách mạnh mẽ vì lợi ích cá nhân và lợi ích toàn xã hội ,đồng thời phòng tránh
được khuyết tật lớn của nền kinh tế thị trường, chống lạm phát, giảm thất
nghiệp, bảo vệ và trợ giúp các tầng lớp xã hội khi lâm vào cảnh khó khăn,
nghèo khổ, che chắn cho họ, bảo đảm cho họ có cuộc sống an toàn và xứng
đáng, phù hợp với trình độ phát triển chung của xã hội.
Như vậy, kinh tế thị trường xã hội xã hội vừa tạo dựng và duy trì một
nền kinh tế thị trường, vừa thực hiện công bằng xã hội. Tính thống nhất này
đạt được là nhờ kinh tế thị trường xã hội sẽ phát huy hết các nguồn tăng
trưởng và nhờ thành quả kinh tế mà nó mang lại, các tiền đề vật chất ,tài
chính cho chính sách xã hội. Đó quả là một thách đố cực lớn,có thể nói là lớn
nhất trong nền kinh tế,nhất là khi nền kinh tế có khó khăn, do những biến
động bên trong hoặc do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu.
1.2.2.3. Những tiêu chuẩn sau đây giúp ta định hình kinh tế thị trường
xã hội:
Thứ nhất, là quyền tự do cá nhân. Các cơ quan ra quyết định được phi
tập trung hóa, các thi trường vận hành theo chức năng và những nhân tố quyết
định đảm bảo quyền tự do cá nhân trong lĩnh vực kinh tế. Đây là lĩnh vực của
chính sách cạnh tranh, giúp tạo ra một mô hình chung, trong đó, các tiến trình
cạnh tranh kinh tế có thể hoạt động bình thường theo chức năng của mình.
Cạnh tranh được nhìn nhận như một biện pháp khuyến khích bằng cách thí
điểm và tìm lỗi sức sáng tạo và sức mạnh của cá nhân, triển vọng kiếm được
lợi nhuận bằng sự mạo hiểm, chấp nhận thất bại.
Thứ hai, là nguyên tắc về công bằng xã hội. Một thị trường vận hành
theo chức năng chỉ có thể phân phối thu nhập theo chức năng đóng góp của

các cá nhân, nó không thể cùng lúc tính đến cả các mặt con người và xã hội.
Tương tự như vậy, nhiều vấn đề khác của thị trường chỉ có thể được giải
quyết thông qua một chính sách xã hội được xây dựng một cách tương ứng để
giúp đỡ những người chưa bao giờ, không thường xuyên hoặc hiện thời không

7


tham gia vào tiến trình kinh tế và cần được bảo vệ khỏi những khó khăn
không phải do lỗi của họ gây ra.
Thứ ba, là chính sách chống biến động chu kì. Cạnh tranh và chính
sách xã hội tự bản thân chúng ta sẽ là đầy đủ nếu nền kinh tế tự nó có thể ổn
định. Tuy nhiên, trên thực tế có các biến động có chu kì mà khéo léo nó là các
mức tăng trưởng kinh tế khác nhau.Trong nhiều trường hợp, năng lực của thị
trường xuất hiện điểm thắt nút hoặc quá tải mà tự nó không thể giải quyết
được. Cùng với khung chính trị, xã hội và cạnh tranh nói chung của kinh tế thị
trường xã hội nhằm bảo vệ tự do cá nhân và công bằng xã hội, nhà nước cũng
cần phải xây dựng các chính sách mang tính cơ cấu, tăng trưởng và chu kì .
Thứ tư, là chính sách tăng trưởng,chính sách này tạo khung cơ sở hạ tầng
và pháp lí không thể thiếu nếu phát triển kinh tế được giải phóng khỏi tình
trạng gián đoạn. Chính sách tăng trưởng bao hàm những động lực thúc đẩy quá
trình hiện đại hóa, thừa nhận tiến bộ công nghệ và cải thiện hiệu quả sản xuất.
Nó cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy và khuyến khích cải tiến công nghệ.
Tuy nhiên, cần lưu ý là các biện pháp can thiệp và công nghệ đầy hứa
hẹn hoàn toàn không chỉ phụ thuộc vào các công ty lớn mà thông thường là
do các công ty có quy mô vừa phát triển. Một chính sách công nghệ được
soạn thảo nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp lớn, khuyến khích sự tập trung .Vì lý
do đó, sẽ đi ngược lại các quan điểm nền tảng của kinh tế thị trường xã hội.
Thứ năm, là chính sách cơ cấu. Có nhiều thị trường ở đó có những thay
đổi cần thiết về cấu trúc bị các nhân tố tự nhiên, kĩ thuật và các nhân tố khác cản

trở. Nếu có những vấn đề tồn tại dai dẳng trong việc điều chỉnh cấu trúc toàn bộ
các ngành công nghiệp và các vùng đang ở tình trạng khó khăn, bắt buộc phải có
một chính sách cơ cấu tương ứng nhằm hộ trợ việc cải thiện tình hình. Trên thị
trường lao động, tính cơ động chuyên môn có thể được hỗ trợ bằng các chương
trình tái đào tạo hoặc tái định cư nhằm giảm thất nghiệp cơ cấu.
Thứ sáu, là sự tuân thủ thị trường hay nói đúng hơn là tuân thủ cạnh
tranh, áp dụng đối với tất cả các chính sách kinh tế được đề cập từ trước tới
8


giờ. Nó có nghĩa là các biện pháp kinh tế mang chính sách cần mang lại một
sự công bằng xã hội,ổn định kinh tế,tăng trưởng và một cơ cấu kinh tế cân
bằng phù hợp vói mục tiêu kinh tế trong khi không làm cản trở quá mức hoạt
động cạnh tranh trên thị trường.
Sáu tiêu chuẩn này hợp lại với nhau là căn cứ triết học và lý luận kinh tế
thị trường xã hội, chúng bổ sung cho nhau, kết hợp với nhau thành một khối
lượng tác không thể tách rời. Trong khối thống nhất sáu tiêu chuẩn ấy, mở đầu
là thị trường, kết thúc là thị trường,ở giữa là bốn loại chính sách của nhà nước.
1.2.3. Đánh giá chung
Như vậy, kinh tế thị trường ra đời đã đem lại nhều hiệu quả lớn cho nền
kinh tế phát triển của đất nước đặc biệt là đối với các nước đang phát triển
hiện nay. Nó vừa tạo dựng và duy trì một nền kinh tế thị trường, vừa thực
hiện công bằng xã hội để đưa đất nước ngày càng phát triển. Bên cạnh đó,
kinh tế thị trường vẫn còn có nhiều hạn chế. Chúng ta cần nhận thức rõ điều
đó, để khắc phục được những hạn chế của nền kinh tế này để nó phát huy
được hết những ưu điểm của nó.
1.3. Khái quát về lý thuyết kinh tế chủ nghĩa tự do mới
1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử
Trong lịch sử loài người, tư tưởng tự do kinh tế xuất hiện khá sớm.
Cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhiều

nhà kinh tế đã ca ngợi cơ chế thị trường, phê phán sự can thiệp của nhà nước
vào kinh tế. Đó là các nhà kinh tế tư sản cổ điển như F.Quesney, W.Petty,
A.smith, D.Ricardo. Chủ nghĩa tự do cũ phát triển mạnh từ những năm 30 của
thế kỷ XX về trước.
Những tư tưởng về tự do kinh doanh xuất hiện rất sớm trong lịch sử, ta
có thể tìm thấy trong các tác phẩm kinh tế của F.Quesney(Pháp) và
A.Smith(Anh). Trong Thuyết về trật tự tự nhiên, F.Quesney khẳng định, con
người phải sử dụng những của cải trong tự nhiên để sinh sống, đó là quy luật
về tiêu thụ. Muốn có được của cải, con người phải làm việc, đó là định luật về
9


lao động. Sự lao động này chỉ có thể được thực hiện nếu con người tự do hành
động, tức là hành động về quyền tư hữu bản thân. Con người nhận được phần
thưởng từ kết quả lao động của mình, đó là quy luật về quyền tư hữu động sản
và chiếm đoạt các sản nghiệp, tức là quyền tư hữuđộng sản và chiếm đoạt các
sản nghiệp, tức là quyền tư hữu bất động sản. Quyền tư hữu sẽ được bảo vệ
nhờ chức năng giữ gìn an ninh của nhà nước, “Tư hữu - An ninh –Tự do” là
nền tảng của một trật tự xã hội đầy đủ.
Đặc biêt, khi A.Smith xây dựng “lý thuyết về bàn tay vô hình” và
khẳng định vai trò của nhà nước như “Người lính gác đêm” cho chế độ tư hữu
và tự do kinh doanh , thì “lý thuyết tự do kinh tế” được định hình và trở thành
tư tưởng thống trị trong các lý thuyết tư sản trước những năm 30 của thế kỉ
XX. Tư tưởng cơ bản của “Lý thuyết tự do kinh tế’’ là coi nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa là một hệ thống tự điều tiết nhờ hoạt động của các quy luật thị
trường, trong đó các chủ thể thị trường tự do hoạt động kinh doanh, tự do
tham gia vào thị trường dựa trên chế độ tư hữu. Họ coi nhà nước đóng vai trò
bên ngoài các quá trình sản xuất kinh doanh, vai trò giữ gìn trật tự an ninh xã
hội và bảo vệ chế độ tư hữu .
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền ra đời và

các tổ chức độc quyền trở thành phổ biến trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Dưới sự thống trị của các tổ chức độc quyền số lượng tư bản tích tụ và tập
trung cao, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động trên hai nguyên tắc đối
nghịch là “tự do” và “độc đoán” của các nhà tư bản tài phiệt. Khi nền kinh tế
đã lâm vào cuộc khủng hoảng và thất nghiệp kéo dài thì sự vận động của các
quy luật thị trường bị biến dạng và cơ chế thị trường trở nên bất cập trước
việc điều tiết một nền kinh tế tích tụ tập trung tư bản cao. Vào thời kì này,
“Lý thuyết tự do kinh tế” lâm vào khủng hoảng. Hai trào lưu tư tưởng kinh tế
mới nảy sinh, đó là trường phái “tân cổ điển”, những người muốn cải biến và
hoàn thiện lý thuyết tự do kinh tế cho phù hợp với thực tế vận động của nền
kinh tế đã thay đổi, trường phái Keynes muốn phủ nhận vai trò của thị trường
10


và nhấn mạnh vai trò kinh tế của nhà nước trong việc điều chỉnh các quá trình
kinh tế.
Cuối cùng các học thuyết kinh tế của J.M.Keynesđã thắng thế vì nó đã
đưa ra được các giải pháp khả thi trong thực tiễn. Lúc đó, các tư tưởng tự do
kinh tế tuy vẫn tồn tại, song bị chìm vào quên lãng, chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước ra đời, trên cơ sở sự can thiệp chủ động của nhà nước vào
quá trình kinh tế nhằm điều chỉnh sự vận động của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa thích ứng với trình độ xã hội hóa cao lực lượng sản xuất.
Song chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước cũng chỉ là sự phát triển
tiếp tục những đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, điều chỉnh kinh
tế của nhà nước cũng chỉ là các giải pháp thích ứng không thể làm thay đổi
bản chất của chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, khi đề cao vai trò của nhà nước,
Keynes lại bỏ qua vai trò của thị trường, do đó học thuyết kinh tế của ông bộc
lộ nhiều hạn chế.
Vận dụng lý thuyết Keynes vào điều chỉnh nền kinh tế ở các nước tư
bản phát triển, tuy đã mang lại hiệu quả không nhỏ, song khi nền kinh tế tư

bản chủ nghĩa đã phát triển đến mức độ nhất định, thì các giải pháp kinh tế
dựa trên lý thuyết Keynes không còn hiệu quả, chúng không khắc phục được
căn bệnh đình trệ và lạm phát là hiện tượng mới nảy sinh trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa.
Đặc trưng hệ thống lý luận này là dựa trên lập trường tự do của các nhà
kinh tế cổ điển, song ở một chừng mực nhất định, chúng được kết hợp với tư
tưởng của trường phái Keynes mới và trường phái trọng thương mới.
Với sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
và sự xuất hiện của lý thuyết Keynes về vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước
đối với nền kinh tế, lần đầu tiên chủ nghĩa tự do cũ mất vị trí thống trị. Cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa (1929-1933) càng chứng minh
sự sụp đổ của học thuyết tự do kinh tế. Hơn nữa, những thành tựu quản lý
kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
11


nghĩa ngày càng chứng tỏ vai trò điều tiết của nhà nước. Điều đó tác động
mạnh mẽ tới tư tưởng tự do kinh tế. Trước tình hình đó, các nhà kinh tế tư sản
phải sửa đổi lại hệ thống lý thuyết tự do kinh tế cho phù hợp với tình hình
mới. Từ đó, chủ nghĩa tự do mới ra đời.
Nguồn gốc: Tư tưởng tự do kinh tế của các nhà cổ điển (cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX) được pháp triển ở các nhà cổ điển mới (cuối thể kỉ
XIX đến thập kỉ 30 của thế kỉ XX) gọi là chủ nghĩa tự do cũ. Sau đó, tư tưởng
chủ nghỉa tư bản có điều tiết (Keynes) thống trị, đến những năm 70 thì tư
tưởng tự do kinh tế được phục hồi dẫn đến sự xuất hiện “chủ nghĩa tự do”.
1.3.2. Đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tự do
Chủ nghĩa tự do mới là một trong các trào lưu tư tưởng tư sản hiện đại.
Trường phái này đã áp dụng và kết hợp tất cả các quan điểm cũng như
phương pháp luận của trường phái tự do cũ, trường phái trọng thương mới,
trường phái Keynes để hình thành lý thuyết điều tiết kinh tế của nhà nước ở

một mức độ nhất định. Trong việc lý giải các hiện tượng và quá trình kinh tế
họ nhấn mạnh yếu tố tâm lý cá nhân trong việc quyết định sản xuất và tiêu
dùng, đồng thời sử dụng đồ thị, toán học để chứng minh cho lý thuyết của
mình.
Chủ nghĩa tự do mới dựa trên nền tảng lập trường tự do tư sản cổ điển
đồng thời lại muốn áp dụng và kết hợp quan điểm của trường phái Keynes,
trường phái trọng thương ở mức độ nhất định để hình thành hệ tư tưởng mới
điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Tuyên ngôn của chủ nghĩa tự do mới là: “thị trường nhiều hơn, nhà
nước can thiệp ít hơn”, hay “tự do tối đa, can thiệp tối thiểu”. Điều này có
nghĩa là, mở rộng tự do cạnh tranh trên thị trường, tăng cường vị trí của khu
vực tư nhân, giảm vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước xuống dưới mức thấp
nhất, giảm tỷ lệ chi tiêu công, điều chỉnh phân phối thu nhập có lợi cho chủ tư
bản, thực hiện tự do hóa thương mại, đầu tư trên phạm vi quốc tế. Nhận xét về
điều này, nhà triết học Pháp nổi tiếng Cornieliut castori Odi cho rằng: “với
12


việc áp dụng chủ nghĩa tự do mới, nhà nước trút bỏ trách nhiệm của mình và
tự đặt mình dưới sự chi phối của các thị trường tiền tệ”. Chủ nghĩa tự do mới
phát triển ở nhiều nước với những tên gọi khác nhau như “chủ nghĩa bảo thủ
mới”, hay “chủ nghĩa tiền tệ” ở Mỹ, “chủ nghĩa cá nhân mới” ở Anh, “chủ
nghĩa kinh tế” ở Áo, “chủ nghĩa tự do mới” ở Cộng hòa Liên bang Đức… Với
sự ủng hộ mạnh mẽ của những nhà cầm quyền tại nhiều nước tư bản, lại được
sự tài trợ của Ngân hàng thế giới (WB) và quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), chủ
nghĩa tự do mới nhanh chóng lan rộng từ nước Anh, CHLB Đức, Mỹ... ra
nhiều nước phát triển và đang phát triển. Dưới thời Thatcher và Reagan, trong
các văn bản chính thống, người ta còn xem chủ nghĩa tự do mới là “mô hình
duy nhất thống trị trên thế giới mà tất cả các nước sẽ phải đi theo”.
1.3.3. Chủ nghĩa tự do mới trên thế giới hiện nay và phương pháp

luận của chúng
Chủ nghĩa tự do mới trên thế giới hiện nay có những điểm thống nhất
và những điểm khác nhau đó là:
Thống nhất về:
-Vấn đề cơ bản của hệ thống kinh tế TBCN.
-Vai trò kinh tế của nhà nước trong cơ chế thị trường.
-Sự hoạt động của kinh tế TBCN: tự do cạnh tranh dẫn đến hoạt động
hiệu quả hơn.
Bên cạnh những mặt thống nhất, chủ nghĩa tự do mới trên thế giới vẫn
có những điểm khác nhau đó là:
- Hình thức tham gia cụ thể vào kinh tế của nhà nước mỗi nước.
-Điều kiện kinh t , dân tộc.
-Phương pháp luận xuất phát điểm.
Phương pháp luận của chúng:
- Đề cao tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp sâu của nhà nước vào các
hoạt động kinh tế, khẩu hiểu “thị trường nhiều hơn nhà nước ít hơn”

13


- Lặp lại các phương pháp luận của trường phái tự do cũ (cổ điển, tân
cổ điển) và trường phái Keynes; phát triển theo hướng toàn diện => phù hợp
với lợi ích của CBTBĐQ NN.
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của các trường phái nêu trên,
và chủ yếu là:
+So sánh, thống kê, định lượng các hiện tượng kinh tế bên ngoài,
không đi sâu vào bản chất.
+Xem xét các hiện tượng kinh tế từ góc độ tâm lí, chủ quan, đưa ra
tổng thể các nhân tố phụ thuộc vào tư chất tinh thần của con người.
BẢNG TÓM TẮT:

Cổ điển
Tân cổ điển
Keynes
CNTD mới
- Phương pháp - Phương pháp - Phương pháp - Phương pháp
phân tích vĩ mô, phân tích vi mô, phân tích vĩ mô, phân tích vi mô,
quy luật kinh tế kết hợp kinh tế phương

pháp định

lượng,

khách quan chi và toán học

phân tích toán thống kê.

phối hoạt động

học.

kinh tế.
- Ủng hộ tự do - Ủng hộ tự do - Mất lòng tin - Ủng hộ tự do
kinh tế, nền kinh kinh tế, nền kinh vào cơ chế thị kinh tế, không phủ
tế tự điều tiết tế tự điều tiết, trường tự điều nhận vai trò nhà
chống

sự

can chống


thiệp nhà nước.

thiệp

sự

can chỉnh=> cần sự nước, nhưng chống

của

nhà can thiệp của nhà can thiệp sâu ,

nước

nước ở tầm vĩ mô khẩu hiệu “ thị
với

-

Cung

định

cầu,

các

chính trường nhiều hơn,

sách kích cầu.

nhà nước ít hơn”
quyết - Cầu quyết định - Thuyết trọng - Cầu quyết định
sản cung, tự do quyết cầu. Quan tâm cung.

xuất quyết định định

sản

Xét

các

xuất. phân tích nhu cầu hiện tượng kinh

tự do. Quy luật Quan tâm nhu tâm lí chủ quan tế từ góc độ tâm
khách quan chhi cầu tâm lí chủ của con người lý ,chủ quan.
14


phối hoạt động quan
của con người.

của

con mà không dựa

người.

vào


quy

luật

khách quan.
- Đi sâu vào phân - Phân tích sâu - Phân tích hiện - Mô tả bề ngoài
tích bản chất bên vào bản chất bên tượng bên ngoài không đi sâu vào
trong

của

các trong

hiện

tượng

tự hiện

nhiên.

của

các không đi sâu vào bản chất => biện

tượng. bản

chất

Muốn xây dựng trong

khoa

học

bên hộ cho sự tồn tại
của CNTB



thuật.
1.3.4. Đánh giá về chủ nghĩa tự do mới
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa tự do mới và sự thúc đẩy của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật trong hai thập kỷ (từ 1960 – 1970), các nước tư bản
phát triển đã bước vào thời đại phồn vinh, kinh tế tăng trưởng với tốc độ
nhanh. Theo thống kê, trong thời gian từ 1950 – 1973, tỷ lệ tăng trưởng kinh
tế bình quân hằng năm của các nước tư bản phát triển đạt gần 5%, cao hơn
hẳn so với các thời kỳ trước đó. Trong đó có Nhật Bản, tăng trưởng nhanh
nhất, từ năm 1953 đến 1962 tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 8.7%. từ
những năm 1963 đến 1972, tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 10,4%.
Những thành tựu đạt được trong thời kỳ này đã tạo đà cho các nước tư bản
vượt qua thời kỳ “đình trệ” của những năm 1970, tiếp tục điều chỉnh ở những
năm 1980 để đến những năm 1990 đã bắt đầu chuyển từ xã hội công nghiệp
sang xã hội thông tin, trong đó nền kinh tế Mỹ duy trì tăng trưởng liên tục gần
một thập kỷ.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản có lực lượng sản xuất
phát triển chưa từng có, có quan hệ sản xuất có sự điều chỉnh quan trọng,
trong một mức độ nào đó đã làm dịu đi mâu thuẫn cơ bản giữa sản xuất xã,độ
thu thuế, phúc lợi và hệ thống bảo hiểm xã hội, trong một chững mực nhất
định đã điều tiết thu nhập, tuy không xóa bỏ căn bản hai cực giàu nghèo,


15


nhưng đã làm cho người sống dưới mức nghèo khổ có được sự bảo đảm cuộc
sống cơ bản, dân chủ và pháp chế được kiện toàn, cơ chế vận hành xã hội
tương đối hoàn thiện… trên thực tế đã có tác dụng như “van giảm áp”, làm
dịu đi mâu thuẫn giai cấp của xã hội.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tự do mới không phải là một phép màu. Không
phải chờ đợi lâu, chỉ trên dưới một thập kỷ áp dụng lý thuyết theo chủ nghĩa
tự do mới, hàng loạt nước đang phát triển ở châu Phi, Mỹ Latinh và không ít
nước châu Á đã lâm vào tình trạng rối loạn và khủng hoảng. Một lãnh tụ công
đoàn Brazin đã ví tác hại của chủ nghĩa tự do mới gây ra giống như một cuộc
chiến tranh thế giới mới, cuộc chiến tranh này đã tàn phá Brazin, châu Mỹ
Latinh và cả thế giới thứ ba, lính không chết nhưng trẻ em chết, không có
hàng triệu người bị thương nhưng có hàng trăm người thất nghiệp… đó chính
là chiến tranh nợ nước ngoài, mà vũ khí chủ yếu là tiền lãi.
Ngay tại các nước phát triển, việc thực hành nền kinh tế thị trường theo
chủ nghĩa tự do mới cũng đã và đang gây ra nững hậu quả kinh tế, xã hội và
chính trị nghiêm trọng mà điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ,
hiện nay đang cuốn thế giới vào một cuộc suy thoái kinh tế mà hậu quả của
nó còn đáng sợ hơn cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933. Khi phân
tích cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ hiện nay, các chuyên gia kinh tế đã
nêu ra ba nguyên nhân:


Một là: Sự tham lam vô độ của các tập đoàn tài chính



Hai là: Sự ứng phó chậm chạp của các chính phủ.




Ba là:Sự đổ vỡ niềm tin của dân chúng.
Vì sao có sự khủng hoảng nghiêm trọng đó? Đó là do nền kinh tế thị
trường như mất hết mọiý thức về mục tiêu.

16


CHƯƠNG II: LÝ THUYẾT “KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
XÃ HỘI”CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DÂN
Ở CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC
2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Đức thua trận, nền kinh tế bị chiến
tranh tàn phá nặng nề. Các nhà kinh tế học ở CHLB Đức cho rằng, về lý
thuyết cũng như thực tiễn đều chứng minh sự điều tiết độc tài phát xít dựa
trên cơ sở lý thuyết của chủ nghĩa tư bản có điều tiết không mang lại hiệu quả.
Họ phê phán mô hình hinh tế chỉ huy, kinh tế kếhóa tập trung và ủng hộ mạnh
mẽ tư tưởng tự do: “sức mạnh tự do”, “kinh tế thị trường tự do”,“kinh tế thị
trường xã hội”…
Học phái Frankfuoc là học phái lí luận đặc trưng cho chủ nghĩa tự do
kinh tế mới. Từ năm 1948, tư tưởng kinh tế của trường phái này trở thành lí
luận kinh tế chính thống và là cơ sở hoạch định các chính sách kinh tế của
chính phủ Bon.
Các đại biểu của chủ nghĩa tự do mới ở CHLB Đức là: W.Euskens,
W.Ropke, Armack… đã đưa ra nhiều tư tưởng kinh tế nhằm khôi phục lại chủ
nghĩa tự do. Trong số đó, lý thuyết nền “kinh tế thị trường xã hội của Armack
là nổi bật hơn cả.
* Một số quan điểm các đại biểu của chủ nghĩa tự do mới ở CHLB Đức

- Quan điểm của W.Euskens về "các mô hình kinh tế lý tưởng" có hai
kiểu kinh tế:
+Kinh tế đóng: kiểu kinh tế tập trung, độc đoán tồn tại trong các xã hội
cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, kinh tế quốc xã, kinh tế
XHCN.

17


+Kinh tế mở: kiểu kinh tế thị trường xã hội, là mô hình lý tưởng tồn tại
ở các nước tư bản.
- Quan điểm của W.Repke về mô hình kinh tế kiểu "Sân bóng đá": theo
mô hình này, nền kinh tế là sân bóng đá, các giai cấp và chủ thể kinh tế là các
cầu thủ, mỗi cầu thủ có một vị trí nhất định trên sân, nhà nước giữ vai trò
trọng tài điều khiển trận đấu, không trực tiếp tham gia đá bóng mà canh giữ
cho trận đấu diễn ra theo luật và ngăn ngừa các trục trặc nếu có (khủng hoảng,
thất nghiệp, lạm phát...).
- Lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội của Muller - Armark: đây là
lý thuyết nổi bật của chủ nghĩa tự do mới ở Đức.
* Nguyên tắc cơ bản của thị trường xã hội:Kết hợp chặt chẽ nguyên tắc
tự do và nguyên tắc công bằng xã hội để đạt mục tiêu nhất định là:
+Một mặt khuyến khích và động viên những động lực tạo ra sáng kiến
cá nhân phục vụ lợi ích nền kinh tế.
+ Một mặt cốgắng loại trừ các hiện tượng tiêu cực, khi điều kiện cho
phép như : sự nghèo khổ của một số tầng lớp nhân, lạm phát, thất nghiệp.
Trong hai mặt đó, việc bảo đảm quyền tự chủ của người tiêu dùng và
công dân phải chiếm địa vị thống trị, mọi hoạt động chính trị, kinh tế phải
được hoạch định trên cơ sở chú ý đến nhu cầu và nguyện vọng cá nhân.+)
Không phải là sự kết hợp kinh tế thị trường kiểu tư bản chủ nghĩa trước đây
với kinh tế xã hội chủ nghĩa có kế hoạch để tạo thành thể thống nhất mà là

"kết hợp nguyên tắc tự do với nguyên tắc công bằng xã hội trên thị trường".
+Không đồng nhất với "nền kinh tế thị trường tự do" của các nhà kinh
tế Mỹ, theo đó nhà nước chỉ nên can thiệp tối thiểu còn chủ yếu là để cho nền
kinh tế tự thân vận động.
18


+Không phải là tư tưởng tự do kinh tế theo kiểu của trường phái trọng
tiền: thả lỏng nền kinh tế và nhà nước chỉ cần thực hiện chính sách tiền tệ có
quy tắc để điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông.
+Không phải là chủ nghĩa tự do ORDO theo đó đòi hỏi một nhà nước
mạnh có thể tổ chức và duy trì hệ thống cạnh tranh trên quy mô lớn, thông
qua các biện pháp kinh tế và chính thức.
2.2. Khái quát chủ nghĩa tự do mới ở CHLB Đức
Chủ nghĩa tự do mới ở CHLB Đức còn gọi là trường phái Freiburg. Sau
đại chiến thế giới thứ hai, ở CHLB Đức xuất hiện một nhánh quan trọng của
kinh tế học chủ nghĩa tự do chủ nghĩa mới. Trung tâm hoạt động của nó ở
trường đại học Freiburg. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa tự do mới ở CHLB Đức
là lý luận “ kinh tế thị trường xã hội”. Loại lý luận này lấy mô hình kinh tế
của Lenin làm cơ sở, cho rằng trong đời sống kinh tế xã hội có 2 loại mô hình
kinh tế: Một là kinh tế thị trường tự do, hai là quản lý Trung ương. Đặc điểm
của kinh tế thị trường tự do là hoàn toàn dựa vào hệ thống giá cả thị trường để
điều tiết nền kinh tế, loại bỏ sự can thiệp của nhà nước. Còn đặc điểm kinh tế
quản lý Trung ương là điều tiết và quản lý kinh tế. Loại bỏ tác dụng của thị
trường hoàn toàn thông qua kế hoạch và mệnh lệnh hành chính. Đồng thời
còn chỉ ra rằng , hình thức thuần túy của hai loại mô hình này chỉ tồn tại trên
khái niệm lý luận, bất kể loại nào cũng có những thiếu sót. Mô hình kinh tế
tối ưu phải là sự kết hợp của hai mô hình kinh tế nêu trên, lấy “ kinh tế thị
trường tự do” làm bộ phận cơ bản, còn hạn chế sự điều tiết của nhà nước đối
với đời sống kinh tế trong phạm vi thích đáng, làm cho nó phát huy được tác

dụng, đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế thị trường tự do, cạnh tranh tự do
không bị phá hoại và hạn chế. Đây là chủ trương cơ bản của chủ nghĩa tự do
mới ở CHLB Đức. Họ gọi loại mô hình kinh tế này là “kinh tế thị trường xã
hội”. “Kinh tế thị trường xã hội” căn cứ vào các qui luật của nền kinh tế thị
trường, đảm bảo trật tự kinh tế về “an toàn xã hội” và “bảo đảm xã hội” thực
19


hiện dựa vào trật tự kinh tế xã hội, phát triển sức sản xuất hoàn toàn nhịp
nhàng với tiến bộ khoa học và tự do cá nhân. “Kinh tế thị trường xã hội” lấy
chế độ tư hữu làm cơ sở, còn nhà tư bản là động lực, đồng thời là người sáng
tạo ra nền kinh tế thị trường xã hộ. Để thực hiện kinh tế thị trường xã hội, chủ
nghĩa tự do mới ở CHLB Đức đã nêu ra một hệ thống chủ trương, chính sách:
1.

Chủ trương kiên quyết duy trì và đẩy mạnh chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất,
nhấn mạnh tính chất thiêng liêng không thể xâm phạm của chế độ tư hữu.

2.

Chủ trương chế độ cùng nhau quyết sách giữu thợ và chủ. Khuyến khích công
nhân trong xí nghiệp có quyền tham gia quản lý kinh doanh.

3.

Chính sách nhà nước phúc lợi.

4.

Chính sách tài chính tiền tệ.

Trong chính sách tài chính chủ trương thực hiện cấn đối ngân sách,
chống bội chi tài chính. Về chính sách tiền tệ, chủ trương tăng dự trữ ngoại
hối và vàng, kiểm soát số lượng tiền tệ trong lưu thông.
2.3. Những lí thuyết cơ bản về nền kinh tế thị trường xã hội ở
CHLB Đức
Lý thuyết cơ bản về nền kinh tế thị trường xã hội ở CHLB Đức bao
gồm 4 lý thuyết chính sau:
- Nền kinh tế thị trường xã hội
- Các tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường xãhội.
- Các chức năng của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường xã hội.
- Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội.
Sau đây, ta cùng nhau đi tìm hiểu từng lý thuyết của nền kinh tế thị
trường xã hội ởCHLB Đức :
2.3.1.Nền kinh tế thị trường xã hội.
Nền kinh tế thị trường xã hội là một nền kinh tế thị trường kết hợp tự
do cá nhân với công bằng xã hội.
Nguồn gốc triết học và lý luận của nền kinh tế thị trường xã hội đã xó
từ lâu. Nó bắt đầu được thực thi trên thực tế ở Cộng hòa liên bang Đức từ
20


năm 1948.Một trongnhữngngười kiến trúc sư và chủ xướng của lý thuyết nền
kinh tế thị trường xã hội là Genost Gutmannn, sinh năm 1929, tiến sĩ kinh tế,
chủ tịch hội đồng các nhà khoahọc kinh tế và khoa học xã hội ở Cộng hòa liên
bang Đức.
Nền kinh tế thị trường xã hội không phải là kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa truyền thống của thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX.
Nền kinh tế thị trường xã hội cũng không phải là nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung kiểu chủ nghĩa xã hội hoặc kinh tế chỉ huy (như Liên Xô, Đông
Âu, hay Trung Quốc trước đây).

Nền kinh tế thị trường xã hội không phải là nền kinh tế thị trường hiện
đại của trào lưu tự do mới vì trào lưu này quá coi nhẹ vai trò của nhà nước và
các vấn đề xã hội.
Nền kinh tế thị trường xã hội cũng không đồng nhất với chủ nghĩa tự do
của trường phái Freigurg ở Tây Đức. Trường phái này theo quan điểm “tự do có
trật tự”, nó tích cực ủng hộ một nhà nước manh, có thể tổ chức và duy trì hệ
thống cạnh tranh trên quy mô lớn thông qua các biện pháp kinh tế và chính trị.
Vậy nền kinh tế thị trường xã hội là một nền kinh tế thị trường kích
thích mạnh mẽ sáng kiến cá nhân và lợi ích toàn xã hội, đồng thời phòng tránh
được các khuyết tật lớn của thị trường chống lạm phát, giảm thất nghiệp, bảo
vệ và giúp đỡ các tầng lớp xã hội thiếu đói, gặp khó khăn nghèo khổ, che chắn
cho họ, bảo đảm cho họ có cuộc sống an toàn và xứng đáng, phù hợp vớitrình
độ phát triển chung của một xã hội hiện đại. Như vậy, nền kinh tế thị trường xã
hội vừa tạo dựng và duy trì một nền kinh tế thị trườngvừa thực hiện công bằng
xã hội. Các quyếtđịnh về kinh tế và chính trị của nhà nước phải nhằm phục vụ
lợi ích của cá nhân và gia đình họ, do vậy nó phải được hoạch định trên cơ sở
chú ý đến nhu cầu và nguyện vọng cá nhân.
Nền kinh tế thị trường xã hội là nền kinh tế dựa trên cơ sở kết hợp chạt
chẽ giữa nguyên tắc tự do và nguyên tắc công bằng xã hội, trên cơ sở nền
kinh tế thị trường và hướng vào mục tiêu khuyến khích động viên mọi sáng
21


kiến của cá nhân để bảo đảm lợi ích chung của xã hội, đồng thời loại bỏ lạm
phát, thất nghiệp và nghèo đói. Các quyết định về kinh tế, chính trị của nhà
nước phải nhằm phục vụ lợi ích của cá nhân và gia đình.
Tư tưởng trung tâm của mô hình là
+Tự do thị trường, tự do kinh doanh, không có sự khống chế của độc
quyền, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, bảo vệ hệ thống kinh tế tư bản chủ
nghĩa, tính độc lập kinh tế và chịu trách nhiệm của chủ doanh nghiệp, thừa

nhận vai trò nhất định của Nhà nước (để đảm bảo phối hợp sự tự do kinh tế
với các quy tắc và chuẩn mực xã hội).
+ Được tổ chức theo kiểu "sân bóng đá" (Ropke và Erhard nêu ra)
Trong đó:
-Xã hội là một sân bóng đá
-Các giai cấp và tầng lớp xã hội là các cầu thủ
-Nhà nước là trọng tài, đóng vai trò bảo đảm cho trận đấu diễn ra theo
luật, tránh khỏi những tai họa.
2.3.2. Các tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường xã hội
Để xác định một nền kinh tế là “kinh tế thị trường xã hội” phải dựa
trên 6 tiêu chuẩn cụ thể sau:
- Thứ nhất, tuyệt đối đảm bảo quyền tự do cá nhân. Về kinh tế, tự do
cá nhân là cơ sở để tạo lập nên những đơn vị kinh tế hoạt động tự do và thị
trường hoạt động trôi chảy.
- Thứ hai, bảo đảm công bằng xã hội. Nền kinh tế thị trường vốn chứa
đựng sự bất bình đẳng, bất công và nó luôn tái sản xuất mở rộng sự bất bình
đẳng, bất công và nó luôn tái sản xuất mở rộng sự bất bình đẳng đó. Do vậy,
công bằng xã hội chỉ có thể đạt được thông qua các chính sách xã hội của nhà
nước.
Vốn thị trường là lạnh lùng, nó chỉ vận hành trên cơ sở trao đổi ngang
giá giữa các chủ thể sở hữu, do đó, phân phối qua thị trường phải dựa trên cơ
sở đóng góp tương xứng của các chủ thể. Thị trường không biết đến khái
22


niệm đạo đức và nhân đạo. Trong khi đó, xét về mặt xã hội, nhiều thành viên
rất cần thiết được giúp đỡ để bảo đảm cho xã hội phát triển như: trẻ thơ,
người thất nghiệp, người già,… lại không có sở hữu, chưa có hoặc không có
khả năng lao động trực tiếp tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhà nước phải
thông qua chính sách tài chính để phân phối lại và thông qua các chính sách

xã hội để giúp đỡ họ.
- Thứ ba, chính sách kinh doanh theo chu kì. Nền kinh tế thị trường tự
bản thân nó không thể cân đối hợp lí và ổn định được và thường dẫn tới
khủng hoảng có chu kì. Nền kinh tế thị trường tự do thường lâm vào các cuộc
khủng hoảng chu kì mà hậu quả của nó là sản xuất bị trì trệ và năng lực sản
xuất không khai thác hết. Do vậy, nhà nước cần phải có các chính sách khắc
phục hậu quả xấu, làm giảm nhẹ các chu kì, đặc biệt là chính sách điều chỉnh
mất cơ cấu kinh tế.
- Thứ tư, là chính sách tăng trưởng kinh tế và xã hội. Để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, nhà nước cần phải tạo ra khuôn khổ pháp luật cần thiết, để cho
các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, đồng thời phải xây dựng được hệ thống
kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội đồng bộ, hoàn chỉnh và khuyến khích, kích
thích các sáng chế phát minh công nghệ hiện đại giúp các doanh nghiệp nâng
cao năng lực sản xuất.
-Thứ năm, chính sách cơ cấu. Đây là tiêu chuẩn đặc trưng cho nền kinh
tế thị trường xã hội, là hạt nhân trong chính sách tăng trưởng. Nhà nước cần
có chính sách cơ cấu năng động, linh hoạt, chuyển dịch theo yêu cầu của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ và những yêu cầu về chính trị, kinh tế v.v…
Trong nhiều chính sách thì chính sách cơ cấu phát triển chiều sâu của ngành,
vùng, chính sách đào tạo bồi dưỡng vốn con người được coi là quan trọng
nhất. Khi nền kinh tế gặp phải các vấn đề dài hạn thì Nhà nước phải thực hiện
một chính sách cơ cấu thích hợp để uốn nắn và khắc phục.
-Thứ sáu, là bảo đảm tính phù hợp với cạnh tranh trên thị trường.Thực
chất, đây là mối quan hệ tương hợp giữa các chính sách kinh tế của nhà nước
23


với tự do cạnh tranh của các chủ thể thị trường. Các chính sách kinh tế phải
đảm bảo cho cạnh tranh công bằng; đồng thời, ngăn ngừa sự hạn chế hoặc phá
vỡ cạnh tranh và những hoạt động cạnh tranh quá mức .

Sáu tiêu chuẩn trên đây bổ sung cho nhau, kết hợp với nhau tạo nên đặc
trưng của nên kinh tế thị trường xã hội.
2.3.3. Các chức năng của cạnh tranh trong nền
kinh tế thị trường xã hội
Chức năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường xã hội:
Cạnh tranh có hiệu quả là một yếu tố trung tâm của nền kinh tế thị
trường xã hội. Muốn cạnh tranh có hiệu quả phải có sự bảo hộ và hộ trợ của
nhà nước. Cần phải tôn trọng quyền tự do của các cá nhân, các doanh nghiệp.
Trong cạnh tranh, các doanh nghiệp đều có những cơ hội thành công và gặp
những rủi ro, bất trắc.
Trong nền kinh tế thị trường xã hội, cạnh tranh có những chức năng cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, sử dụng hợp lí, tiết kiệm có hiệu quả mọi nguồn lực, kích
thích cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất, lao động. Do chạy theo lợi nhuận tối đa,
những người sở hữu các nguồn tài nguyên đó dưới sự tác động của cơ chế
cạnh tranh đã chuyển chúng đến nơi mà chúng được sử dụng với năng suất
cao nhất. Không có một cơ chế kế hoạch hóa tập trung nào thay thế được chức
năng “chiếc gậy và củ cà rốt” này của cạnh tranh trong việc ra các quyết định
đầu tư. Ngoài ra, cạnh tranh còn kích thích các doanh nghiệp phát huy sáng
kiến cải tiến kĩ thuật sản xuất, làm cho sức sản xuất phát triển.
Thứ hai, tạo ra nhiều hàng hóa với chất lượng ngày càng cao, giá thành
ngày càng hạ, mẫu mã chủng loạingày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của người tiêu dùng. Đồng thời, nó cung cấp một số sơ đồ phân phối
thu nhập lần đầu cho nền kinh tế.
Thứ ba, cạnh tranh đã tạo ra tính linh hoạt của sự điều chỉnh các hoạt
động kinh tế. Cho phép duy trì sự di chuyểnliên tục các nguồn tài nguyên đến
24


nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Cạnh tranh tạo ra tính linh hoạt không chỉ giúp

phân phối sử dụng các nguồn lực tối ưu, thúc đẩy tiến bộ kĩ thuật sản xuất mà
còn phát ra các tín hiệu giúp nhà nước nhận biết tính đúng đắn hay sai lệch
của các chính sách kinh tế.
Thứ tư, cạnh tranh góp phần kiểm soát được sức mạnh kinh tế và sức
mạnh chính trị. Cạnh tranh có hiệu quả không loại trừ việc hình thành sức
mạnh kinh tế được kiểm soát thường xuyên, vì cạnh tranh làm lung lay các
trạng thái độc quyền gây trì trệ và san bằng những lợi nhuận độc quyền lâu
dài. Ngoài ra, việc chấp nhận cơ chế thị trường với tư cách là cơ chế chủ yếu
điều tiết nền kinh tế đồng nghĩa với việc chính phủ phải hạn chế vai trò của
mình và chỉ can thiệp vào những nơi cạnh tranh không có hiệu quả. Trên cơ
sở những ý nghĩa đó, cạnh tranh đã kiểm soát được cả sức mạnh kinh tế lẫn
sức mạnh chính trị.
Thứ năm, cạnh tranh có hiệu quả tạo ra quyền tự do tối đa cho sự lựa
chọn và hành động của cá nhân tham gia vào các quá trình kinh tế .
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường xã hội luôn luôn tồn tại những
nguy cơ đe dọa cạnh tranh có hiệu quả.
Những nguy cơ đe dọa hạn chế cạnh tranh có hiệu quả:
Một là, nguy cơ do nhà nước gây ra. Hoạt động củanhà nước với tư
cách là người quản lí xã hội có thể làm suy yếu cạnh tranh .Thông qua các
chính sách , đặc biệt là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hoặc thông
qua những quy định của nhà nước , có thể làm hạn chế cạnh tranh.Ngoài ra,
khi nhà nước với tư cách là một chủ thể kinh tế có sức mạnh trên thị trường
hoặc là người độc quyền kinh doanh trên lĩnh vực thương mại thì nó có thể
hạn chế hoặc bóp méo sự cạnh tranh.
Hai là, những nguy cơ do tư nhân gây ra. Sự hoạt động kinh tế của các
doanh nghiệp tư nhân đã làm hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và chiều
ngang. Sự hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang chính là việc hình thành
những Cartel độc quyền để thỏa thuận với nhau về một số vấn đề kinh tế nào
25



×