Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Đánh giá các dịch vụ hỗ trợ với nhóm phụ nữ bị bạo lực gia đình tại trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 38 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------BÙI THỊ TUYẾT NHUNG

ĐÁNH GIÁ CÁC DỊCH VỤ HỖ TRỢ VỚI NHÓM PHỤ NỮ BỊ
BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI TRUNG TÂM CUNG CẤP DỊCH VỤ
CÔNG TÁC XÃ HỘI HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI

Mã số: 60 90 01 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Như Trang

Hà Nội – 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 6
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn..................................................................14
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 15
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 15
6. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 16
7. Cơ cấu của luận văn ................................................................................ 17
NỘI DUNG .......................................................................................................................18
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH........................................................18
1.1 Những vấn đề lý luận .......................................................................... 18
1.1.1 Khái niệm 18
1.1.2 Các hình thức bạo lực gia đình


22

1.1.3 Đặc điểm phụ nữ bị bạo lực gia đình

24

1.1.4 Một số lý thuyết tiếp cận trong công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực
gia đình ........................................................................................................... 25
1.1.5 Các cơ sở pháp lý của hoạt động hỗ trợ đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình . 31
1.2 Cơ sở thực tiễn.......................................................Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Các dịch vụ - mô hình hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực gia đình hiện có.Error!
Bookmark not defined.
1.2.2. Các mô hình hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực gia đình đã triển khai.Error!
Bookmark not defined.


1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu (Trung tâm cung cấp dịch vụ Công tác xã
hội TP.Hà Nội). .............................................. Error! Bookmark not defined.
1.3.1. Sơ đồ tổ chức Trung tâm .................. Error! Bookmark not defined.
1.3.2. Chức năng Error! Bookmark not defined.
1.3.3. Đối tượng phục vụ

Error! Bookmark not defined.

1.3.4 Nhiệm vụ, quyền hạn. Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 1 .........................................................Error! Bookmark not defined.
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC DỊCH VỤ HỖ TRỢ VỚI NHÓM
PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI TRUNG TÂM CUNG CẤP DỊCH VỤ
CÔNG TÁC XÃ HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI..Error! Bookmark not defined.
2.1. Quy trình tiếp nhận phụ nữ bị bạo lực gia đình tại Trung tâm cung cấp dịch vụ

công tác xã hội..............................................................Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Quy trình tiếp nhận đối tượng thông thường Error! Bookmark not
defined.
2.1.2. Quy trình tiếp nhận đối tượng khẩn cấp
defined.

Error! Bookmark not

2.2. Đặc điểm vấn đề bạo lực gia đình với nhóm phụ nữ tại Trung tâm cung
cấp dịch vụ công tác xã hội........................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Các hình thức Bạo lực gia đình Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Thời gian bị bạo lực gia đình Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Hậu quả của Bạo lực gia đình với phụ nữ tại Trung tâm Cung cấp
dịch vụ Công tác xã hội Hà Nội Error! Bookmark not defined.
2.3. Thực trạng các dịch vụ hỗ trợ nhóm phụ nữ bị bạo lực gia đình được tiếp
nhận tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thành phố Hà Nội.Error!
Bookmark not defined.


2.3.1. Hoạt động tư vấn Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Hoạt động hỗ trợ kết nối nguồn lực
defined.

Error!

Bookmark

not

2.3.3. Hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức Error! Bookmark not

defined.
2.3.4. Hoạt động hỗ trợ hồi gia Error! Bookmark not defined.
2.4. Đánh giá về hiệu quả các dịch vụ hỗ trợ với nhóm phụ nữ bị BLGĐ tại
Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội TP Hà NộiError! Bookmark not
defined.
2.4.1. Đánh giá chung về Trung tâm CCDVCTXH trong hiệu quả các dịch
vụ trợ giúp nhóm phụ nữ bị BLGĐ.
Error! Bookmark not defined.
2.4.2. Đánh giá về hiệu quả các dịch vụ hỗ trợ với nhóm phụ nữ bị BLGĐ
tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội TP Hà Nội. Error! Bookmark
not defined.
Tiểu kết chương 2 .........................................................Error! Bookmark not defined.
Chương 3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI HIỆU QUẢ CỦA CÁC DỊCH VỤ HỖ
TRỢ PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI TRUNG TÂM CUNG CẤP CÁC
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ...........................Error! Bookmark not defined.
3.1.Yếu tố giới tính, tuổi và trình độ chuyên môn của cán bộ Trung tâmError!
Bookmark not defined.
3.1.1. Yếu tố giới tính, tuổi.

Error! Bookmark not defined.

3.1.2. Yếu tố kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của nhân viên xã hội.
Error! Bookmark not defined.
3.2. Yếu tố Kinh phí tiếp nhận, nuôi dưỡng đối tượng tạm thời ... Error!
Bookmark not defined.
3.4. Yếu tố đặc điểm đối tượng ............... Error! Bookmark not defined.


3.5. Yếu tố nhận thức của gia đình, cộng đồng
defined.


Error! Bookmark not

3.6. Trường hợp điển cứu ...................................Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 3 .........................................................Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ..................................................................Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................35


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự biến đổi nhiều mặt về kinh tế, chính trị, xã hội, từ vi mô đến vĩ mô, từ cá nhân
đến cộng đồng, từ kinh tế đến chính trị đã làm biến đổi tất cả và gia đình cũng không nằm
ngoài phạm vi này. Bạo lực gia đình được coi là một dạng tệ nạn xã hội gây hậu quả ở
nhiều mức độ lên đời sống gia đình và xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến nhân cách và quá
trình phát triển của mỗi cá nhân, gián tiếp tạo nên mầm mống các tệ nạn và tội phạm
nguy hiểm khác cho xã hội. Đối tượng của hành vi bạo lực trong gia đình thường là
những thành viên yếu đuối, dễ bị tổn thương và trong hầu hết các trường hợp thường là
phụ nữ, người già và trẻ em. Luật Bình đẳng giới là đạo luật mang số 73/2006/QH11
được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XII thông qua vào
ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Luật
này quy định về bình đẳng giới ở Việt Nam. Đó là hành lang pháp lý để đảm bảo công
bằng xã hội.
Trong các năm từ 2011 – 2015 (ở nước ta) có 157.859 vụ bạo lực gia đình, trong
đó nạn nhân là nữ chiếm 74,24%. Trong số 492.520 vụ ly hôn đã giải quyết thì nguyên
nhân từ bạo lực gia đình chiếm 83,78%. Mỗi năm có hơn 8.000 vụ ly hôn mà nguyên
nhân từ bạo lực gia đình. Đây là thông tin được đại biểu Điểu Huỳnh Sang (Bình Phước),
phát biểu tại Quốc hội sáng 10/11/2016. Kết quả nhiều cuộc khảo sát và báo cáo địa
phương cho thấy, hiện nay bạo lực gia đình đã gây ra những hậu quả cho phụ nữ và xã
hội nói chung. Nạn nhân của BLGĐ rất cần sự giúp đỡ của xã hội và cộng đồng. Hiện

nay trên toàn quốc đã có nhiều mô hình can thiệp trợ giúp phụ nữ bị BLGĐ. Ví dụ: “mô
hình trợ giúp pháp lý”, “mô hình nhóm nhỏ”, “mô hình nhà tạm lánh”... Các mô hình trên
đã thực hiện nhiều dịch vụ khác nhau nhằm hỗ trợ tốt nhất cho phụ nữ bị BLGĐ, được an
toàn, được động viên, an ủi, sớm được trở lại với đời sống bình thường với một nhận thức
mới, vị thế mới.
Trung tâm Cung cấp dịch vụ Công tác xã hội Hà Nội là đơn vị sự nghiệp công lập
trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Là đơn vị cung cấp các dịch vụ công
tác xã hội cho các đối tượng xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội theo quy định của pháp


luật. Tuy mới thành lập được gần 3 năm nhưng đối tượng gặp vấn đề bị bạo lực gia đình
tới Trung tâm ngày càng tăng, đặc biệt là bạo lực phụ nữ. Thực tế cho thấy bạo lực gia
đình cũng đang là một vấn nạn của toàn xã hội mà bản thân người phụ nữ trong gia đình
thường giấu kín, e ngại khi đề cập, chia sẻ hoặc tìm kiếm sự hỗ trợ từ các thành viên
trong gia đình hay cơ quan chức năng.
Đề tài tập trung đi sâu tìm hiểu những dịch vụ hỗ trợ đối với nhóm phụ nữ bị bạo
lực gia đình của Trung tâm cung cấp dịch vụ Công tác xã hội TP.Hà Nội nhằm phất triển
chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ dưới góc độ Công tác xã hội. Góp phần phản ánh
về vấn nạn phụ nữ bị bạo lực gia đình, cùng xã hội đẩy lùi bạo lực gia đình, giúp phụ nữ
giảm bớt phần nào những căng thẳng, khủng hoảng từ bạo lực gia đình mang lại khiến họ
tự tin hơn để tái hòa nhập với cuộc sống.
Vì vậy, dựa trên thực tiễn xã hội tôi chọn đề tài “Đánh giá các dịch vụ hỗ trợ nhóm
phụ nữ bị bạo lực gia đình được tiếp nhận tại Trung tâm cung cấp dịch vụ Công tác xã
hội TP. Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây bạo lực gia đình đã trở thành một vấn đề nóng thu hút được
nhiều sự quan tâm của toàn xã hội. Không chỉ riêng giới chuyên môn mà các nhà truyền
thông, báo chí cũng đã tốn không ít giấy mực khi bàn đến vấn đề này. Nhiều công trình
nghiên cứu, các cuộc hội thảo chuyên ngành đã được diễn ra ở cả trong nước và quốc tế.

Mỗi công trình nghiên cứu lại đưa đến những cách tiếp cận khác nhau khi bàn về vấn đề
BLGĐ, đóng góp vào cái nhìn chung cho lĩnh vực này.
Trong số các nghiên cứu của nước ngoài, phải kể đến đóng góp của nhà nữ quyền
Dobash với cuốn sách “Violence Against Wives” (Tạm dịch là Bạo lực chống lại những
người vợ - 1979) là một trong những công trình nghiên cứu nổi tiếng về BLGĐ. Nghiên
cứu được tiến hành ở Scotland bao gồm những cuộc phỏng vấn sâu và phỏng vấn không
chính thức 137 phụ nữ đang lánh nạn vì bạo lực của người chồng. Trong số đó, có tới
84% các trường hợp phụ nữ bị tấn công lần đầu tiên trong 3 năm đầu của hôn nhân.
Dobash đã chỉ ra nguyên nhân chính của các vụ bạo lực trong hôn nhân là do uy quyền


của người chồng và sự phụ thuộc của người phụ nữ vào đàn ông. Uy quyền của người
chồng thường được khơi tỏa bởi sự ghen tuông, tình dục, con cái, tiền nong, say rượu ….
Dobash cũng chỉ ra rằng phụ nữ bị bạo lực thường có xu hướng quay lại với người chồng
bạo lực vì bị phụ thuộc về kinh tế và lo lắng về sự thiếu vắng vai trò của người bố đối với
con cái của họ. Chính từ những lo lắng đó nên khi xảy ra bạo lực, những người phụ nữ
thường không muốn đi trình báo cảnh sát hoặc cơ quan chức năng. Do vậy, họ thường
không nhận được sự hỗ trợ từ gia đình, cộng đồng hay các dịch vụ phúc lợi.
Năm 2004, cuốn sách “Healing the trauma of domestic violence” (Hàn gắn
những khủng hoảng sang chấn của BLGĐ) của Esward.S.Kubany xuất bản tại Canada đã
đề cập đến các kĩ thuật giúp những phụ nữ là những nạn nhân bị BLGĐ có thể vượt qua
được những khủng hoảng, sang chấn do bạo lực đem lại.
Năm 2005, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phối hợp với Trường Dược nhiệt đới
của Mỹ đã thực hiện một nghiên cứu đa quốc gia với chủ đề “Women’s Health and
Domestic Violence against Women” (Sức khỏe phụ nữ và BLGĐ chống lại phụ nữ).
Nghiên cứu đã tiếp cận với phụ nữ trên 10 quốc gia bao gồm Bawngladet, Brazin,
Ethiopia, Nhật, Peru, Namibia, Samoa, Serbia và Montenegro, Thái Lan và nước Cộng
hòa Tanzania cho thấy có 15% đến 71% phụ nữ phải chịu đựng một hình thức bạo lực
nào đó về thể xác và tình dục ngay trong gia đình họ và đây là vấn đề có tính chất toàn
cầu hiện đang xảy ra ở cả các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển. Chi phí kinh

tế cũng rất đáng quan tâm – một báo cáo năm 2003 của Trung tâm kiểm soát và phòng
bệnh Mỹ ước tính rằng chi phí cho những vụ bạo lực do người quen biết gây ra chỉ tính
riêng ở Mỹ cũng đã lên đến 5,8 tỷ đô la mỗi năm; 4,1 tỷ cho các dịch vụ y tế và chăm sóc
sức khoẻ trực tiếp và 1,8 tỷ cho những thiệt hại về khả năng lao động.
Với cách tiếp cận vào thủ phạm gây bạo lực, cuốn sách “Stop domesticviolence”
(Chấm dứt bạo lực) của David.B Waxler xuất bản tại Mỹ năm 2006 đã đề xuất cách thức trị
liệu nhóm dành cho nam giới là thủ phạm gây BLGĐ; trong đó, tập trung vào hình thức trị


liệu nhận thức hành vi, xây dựng các kĩ năng, cách thức kiểm soát cảm xúc bản thân với
nguyên tắc lấy thân chủ làm trọng tâm.
Báo cáo về “Nghiên cứu sâu về bạo hành với phụ nữ” được Tổng thư ký LHQ
trình bày tại kỳ họp lần thứ 61 của Đại hội đồng LHQ là một tài liệu quan trọng thể hiện
rõ tình hình bạo lực đối với phụ nữ đang diễn ra ở 71 quốc gia trong phạm vi nghiên cứu.
Báo cáo đã chỉ ra các yếu tố dẫn đến bạo lực đối với phụ nữ ở các quốc gia trong phạm vi
nghiên cứu là việc sử dụng bạo lực để giải quyết những mâu thuẫn và xung đột, quan
điểm “riêng tư”, sự thờ ơ của các cấp ban ngành và một số yếu tố nguy cơ ở cấp độ cá
nhân, gia đình và cộng đồng khác. Báo cáo đã phản ánh một cách khái quát về tình hình
bạo lực với phụ nữ trên Thế giới, cùng các hình thức biểu hiện, các chỉ số và hậu quả của
nó. Báo cáo cũng chỉ ra những hoạt động có triển vọng nhằm giải quyết vấn nạn này như:
chú trọng vào pháp luật và cung cấp các dịch vụ phòng ngừa. Bên cạnh đó, báo cáo cũng
chỉ ra những thách thức, khó khăn không nhỏ cho nhân loại trong công tác phòng chống,
ngăn chặn bạo lực đối với phụ nữ như: nguồn lực mỗi quốc gia khác nhau, thiếu hụt ngân
quỹ, thiếu sự xử phạt, thiếu sự đánh giá hay các cách tiếp cận toàn diện.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về BLGĐ, tuy nhiên các công trình nghiên
cứu này mới chỉ dừng lại ở việc nêu lên thực trạng và đưa đến những giải pháp và cũng
chưa có công trình nghiên cứu nào xây dựng mô hình can thiệp cho nhóm phụ nữ chịu
ảnh hưởng của bạo lực gia đình trên góc độ của ngành công tác xã hội.
Ở Việt Nam, cũng có rất nhiều những đóng góp của nhiều tác giả nghiên cứu
trong lĩnh vực này. Chuyên gia nghiên cứu về Giới và Gia đình – tác giả Lê Thị Quý là

người đã có nhiều công trình nghiên cứu về BLGĐ. Có thể kể đến như bài viết “Một số
vấn đề về Bạo lực gia đình hiện nay” được đăng trên Tạp chí Khoa học về phụ nữ năm
1991. Trong bài viết tác giả đã nhận định nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và đề ra
phương hướng giải quyết thỏa đáng, tích cực về vấn đề BLGĐ … là một công việc không
chỉ mang tính chất nhân đạo mà còn góp phần nâng cao không ngừng địa vị và vai trò của
người phụ nữ trong xã hội. Tác giả đã điểm qua tình hình BLGĐ ở nước ta và chỉ rõ
những nguyên nhân của tình trạng này là do: tư tưởng trọng nam khinh nữ, chênh lệch


giàu nghèo, hủ tục lạc hậu, đạo đức lối sống suy đồi, tệ nạn xã hội, trình độ văn hóa thấp
… Tác giả cũng đã đưa ra một số khuyến nghị để giải quyết tình trạng BLGĐ.
Năm 1994, tác giả Lê Thị Quý tiếp tục có bài viết “Bạo lực gia đình ở Việt Nam”
đăng trên tạp chí Khoa học và Phụ nữ . Trong bài viết, tác giả đã chỉ ra năm nguyên nhân
chính của nạn BLGĐ là: nguyên nhân kinh tế, nguyên nhân nhận thức, nguyên nhân văn
hóa – xã hội, nguyên nhân sức khỏe, nguyên nhân từ phía những người phụ nữ, và một nguyên
nhân sâu xa nhất là sự bất bình đẳng trong quan hệ giới.
Công trình nghiên cứu “Bạo lực trên cơ sở giới” (1999) của TS Vũ Mạnh Lợi,
Vũ Tuấn Huy, Nguyễn Hữu Minh – thuộc Viện nghiên cứu Gia đình và Giới tiến hành ở
ba thành phố: Hà Nội, Huế, TP HCM. Trong nghiên cứu các tác giả đã đi sâu tìm hiểu về
thái độ của cộng đồng và các thiết chế xã hội về bạo lực trên cơ sở giới, tìm hiểu phản
ứng của các cá nhân, luật pháp và các thiết chế đối với nạn BLGĐ. Trong nghiên cứu các
tác giả cũng cho thấy tình trạng bạo lực gia đình đang có chiều hướng gia tăng tại ba
thành phố trong địa bàn nghiên cứu, đặc biệt là trong những gia đình mà người phụ nữ
đang thực hiện và khẳng định vai trò kinh tế hộ. Tuy nhiên nghiên cứu này vẫn chưa đưa
ra được hướng giải quyết trực tiếp giúp chị em phụ nữ bị bạo lực gia đình nâng cao được
năng lực của bản thân, từ đó họ có thể tự giúp bản thân họ vươn lên, thoát khỏi hoàn
cảnh.
Năm 2000, tác giả Lê Thị Quý tiếp tục có cuốn sách “Domestic Violence in Viet
Nam” ( Bạo lực gia đình ở Việt Nam) do tổ chức Asia Pacific Forum on Women, Law
and Development (Diễn đàn Châu Á Thái Bình Dương về Phụ nữ , Luật Pháp và Phát

triển – APWLD) xuất bản. Trong cuốn sách, tác giả đã trình bày kết quả một cuộc khảo
sát xã hội học về BLGĐ tại ngoại thành Hà Nội. Bằng những dẫn chứng cụ thể tác giả đã
làm rõ tình hình BLGĐ ở địa bàn nghiên cứu bằng việc phân chia rõ hai hình thức bạo
lực: bạo lực nhìn thấy được và bạo lực không nhìn thấy được. Tác giả cũng chỉ ra những
nguyên nhân của tình trạng trên là đói nghèo, căng thẳng vì kiếm sống, nguyên nhân văn


hóa – xã hội, phong tục tập quán, sự khủng hoảng của các mối quan hệ trong gia đình và
nhóm nguyên nhân thuộc về người phụ nữ.
Năm 2001, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành thực hiện đề tài: “Bạo lực
gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam” tại ba tỉnh: Thái Bình, Lạng Sơn và Tiền Giang. Đề
tài tiến hành tìm hiểu nhận thức, thái độ của người dân và các cán bộ thi hành pháp luật
của các tổ chức đoàn thể xã hội tại địa phương. Đề tài cũng đã chỉ ra được những nguyên
nhân và hậu quả của nạn BLGĐ đối với phụ nữ và phản ứng của nạn nhân trước những
hành vi bạo lực.
Năm 2006, nghiên cứu “BLGĐ – nhận thức và thực trạng” của tác giả Hoàng Bá
Thịnh thực hiện tại 6 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Thanh Hóa, Nam Định, Quảng Ngãi, Đồng
Tháp, Trà Vinh đã cho thấy: Phần lớn nhận thức của người dân tại 6 địa bàn trên về
BLGĐ còn rất hạn chế. Có những hành vi bạo lực nhưng người dân lại không quan niệm
đó là BLGĐ như: ép buộc làm chuyện gì đó, ép buộc quan hệ tình dục, không cho ra khỏi
nhà … Không những thế, trong nhận thức của hầu hết người dân tại địa bàn nghiên cứu
cho rằng BLGĐ là chuyện riêng của mỗi nhà. Đặc biệt, không chỉ người dân quan niệm
như vậy mà ngay đến chính cán bộ xã, phường cũng cho rằng BLGĐ là chuyện nội bộ,
gia đình tự giải quyết. Tác giả cũng chỉ ra những hậu quả của bạn BLGĐ đối với phụ nữ
như: gây thương tích trên thân thể, tổn thương về tinh thần, ly hôn, thậm chí dẫn đến cái
chết trực tiếp hoặc gián tiếp cho người phụ nữ. Trong đó, phần lớn những cái chết gián
tiếp là do người phụ nữ tự tử bằng thuốc sâu, thuốc chuột.
Cùng năm 2006, hai tác giả Magali Romedenne và Vũ Mạnh Lợi đã xuất bản
cuốn sách “Bạo lực gia đình: Sự thay đổi ở Việt Nam” – Kết quả và khuyến nghị từ một
dự án của UNFPA và SDC (Cơ quan hợp tác và phát triển của Thụy Sỹ). Trong cuốn

sách, các tác giả đã phản ánh những hậu quả của BLGĐ đối với phụ nữ, trẻ em, phúc gia
đình và cộng đồng. Từ đó, các tác giả cũng đưa ra các mô hình để giải quyết vấn đề này:
mô hình truyền thông kết hợp, mô hình giáo dục và tập huấn, mô hình câu lạc bộ và mô
hình can thiệp khẩn cấp. Trong cuốn sách, các tác giả cũng nêu lên những bài học kinh


nghiệm nhằm tăng cường hiệu quả của các hoạt động phòng chống BLGĐ như: thực hiện
trao quyền cho phụ nữ, hợp tác với nam giới và nhiều ban ngành trong việc phòng chống
BLGĐ, khuyến khích các sáng kiến của người dân…
Nhóm tác giả Nguyễn Hữu Minh, Lê Ngọc Lân, Nguyễn Thị Mai Hoa, Trần Thị
Cẩm Nhung cùng nghiên cứu “Bạo lực của chồng đối với vợ ở Việt Nam trong những
năm gần đây” (2006) đã đưa ra nhận định: chủ thể gây ra BLGĐ là người chồng, người
bạn đời hoặc chồng cũ. Nghiên cứu cũng chỉ ra những khác nhau trong hình thức bạo lực
gia đình giữa hai khu vực là thành thị và nông thôn. Theo đó, ở nông thôn thường diễn ra
hình thức bạo lực về thể chất, còn ở thành thị thường là hình thức bạo lực về tinh thần và
tình dục. Qua nghiên cứu, các tác giả cũng đưa ra những khuyến nghị nhằm giải quyết
vấn đề BLGĐ như: cần nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo về BLGĐ đối với phụ
nữ, đồng thời cần tiến hành nghiên cứu toàn diện về bạo lực trong gia đình nhằm tìm hiểu
sâu nguyên nhân, hậu quả của vấn đề để có những can thiệp kịp thời và hợp lý.
Điều tra gia đình Việt Nam – năm 2006, nghiên cứu không chỉ tập trung vào bạo
lực gia đình với phụ nữ mà còn những mục tiêu rộng và dàn trải hơn là tập trung vào mối
quan hệ gia đình, giá trị, chuẩn mực gia đình, kinh tế phúc lợi gia đình. Điều tra gồm cả
nam và nữ. Những câu hỏi về bạo lực được đặt ra cho cả nam và nữ trong độ tuổi từ 18 –
60, những người ngoài độ tuổi này trong nhà cũng được phỏng vấn. Phỏng vấn ngay trực
tiếp tại nhà của họ không có tính đảm bảo riêng tư và bảo mật thông tin. Bạo lực được
xác định bởi 3 câu hỏi với nội dung: một hành vi bạo lực thể xác (đánh đập), một hành vi
bạo lực tình dục (quan hệ tình dục ngoài ý muốn), một hành vi bạo lực tinh thần (chửi
bới). Thêm một câu hỏi về “dỗi hờn” (giận nhưng không nói ra) đây là câu hỏi không liên
quan đến xác định bạo lực.
Năm 2007, với tác phẩm “Bạo lực gia đình – một sự sai lệch giá trị” của hai tác

giả tác giả Lê Thị Quý và Đặng Vũ Cảnh Linh đã một lần nữa cho thấy được tính cấp
thiết của những đề tài nghiên cứu về vấn đề bạo lực gia đình. Bên cạnh những lý luận
chung về BLGĐ, hai nhà nghiên cứu còn đưa ra những nhận xét, mô tả, phân tích rất chi


tiết một số nghiên cứu can thiệp trong thực tiễn về BLGĐ và một số dự án phòng chống
BLGĐ ở Việt Nam tại các địa bàn: Hà Nội, Phú Thọ, Thái Bình, Huế. Nhiều mô hình
phòng chống BLGĐ đã được đưa ra phân tích như mô hình truyền thông; mô hình can
thiệp và cứu giúp nạn nhân; mô hình tư vấn, hỗ trợ về tâm lý giáo dục; mô hình can thiệp
tại cộng đồng. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả, hạn chế của một số mô hình đã thực hiện tại
địa phương, các tác giả đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho công tác phòng
chống BLGĐ ở nước ta.
Tác phẩm “Giới, việc làm và đời sống gia đình” của tác giả Nguyễn Thị Hòa
(NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007) đã tổng hợp nhiều công trình nghiên cứu và nhiều
bài viết của các cán bộ Trung tâm nghiên cứu Gia đình và Giới thuộc Viện Khoa học Xã
hội vùng Nam Bộ. Cuốn sách gồm 4 nội dung chính: giới và phát triển, phụ nữ và việc
làm, phụ nữ và gia đình, phụ nữ và các vấn đề xã hội. Trong đó đáng chú ý nhất là bài
viết “Sự biến đổi của gia đình Việt Nam thời kỳ đổi mới” của tác giả Nguyễn Thị Hòa đã
phân tích đượ những biến đổi về chức năng cũng như sự khủng hoảng của gia đình Việt
nam hiện nay như: hiện tượng ly hôn, bạo lực và bất bình đẳng giới trong gia đình.
Báo cáo “Nghiên cứu rà soát các chương trình phòng chống bạo lực trên cơ sở
giới ở Việt Nam” được thực hiện bởi UNFPA trong năm 2007 cùng với sự tham gia của
rất nhiều những tổ chức của chính phủ và phi chính phủ đã đưa đến cho người đọc một
cái nhìn bao quát, toàn diện về bạo lực trên cơ sở giới. Trong đó có BLGĐ – một dạng
đặc biệt của bạo lực giới ở nước ta. Qua nghiên cứu, rà soát, báo cáo đã cho thấy những
hoạt động, hiệu quả và những tồn tại trong công tác phòng chống BLGĐ ở các cấp, các
ngành của nước ta. Trên cơ sở những điểm mạnh, những thách thức đặt ra, báo cáo đã
đưa đến những khuyến nghị đối với các cấp chính quyền, các ban ngành (y tế, pháp luật,
giáo dục …), cấp cộng đồng. Trong đó, đáng lưu ý là việc cần thiết phải cung cấp các
dịch vụ toàn diện cho nạn nhân của BLGĐ và những người gây ra bạo lực là nam giới.

Năm 2008, ở nhiều địa phương trên cả nước đã diễn ra nhiều cuộc hội thảo bàn
về vấn đề BLGĐ nhằm tìm ra các biện pháp ngăn chặn, xóa bỏ vấn nạn này. Trong hội


thảo bàn về biện pháp phòng chống BLGĐ tổ chức tại TP HCM, bác sỹ Nguyễn Minh
Tiến – một chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý trị liệu đã có bài tham luận: “Làm việc với
thân chủ có vấn đề bạo hành trong gia đình”. Bài tham luận đã phản ánh thực trạng
BLGĐ ở Việt Nam và nêu lên những chuyển biến, những thuận lợi và hạn chế trong công
tác phòng chống BLGĐ trong những năm vừa qua. Từ đó, tác giả đã đưa ra những dấu
hiệu nhận biết, các biện pháp hỗ trợ nạn nhân một cách tức thời cũng như về lâu dài.
Trong hội thảo về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng
chống BLGĐ được tổ chức tại thành phố Yên Bái, tác giả Nguyễn Hữu Minh đã có bài
tham luận: “Vai trò của các tổ chức trong phòng chống BLGĐ”. Tham luận đã chỉ rõ vai
trò, trách nhiệm của các tổ chức ở các cấp trước những yêu cầu đặt ra của Luật phòng
chống BLGĐ. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn trong hoạt
động phòng ngừa và can thiệp BLGĐ, cần chú ý tới quy trình can thiệp trong quá trình
thực hiện.
Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình với Phụ nữ ở Việt Nam - năm 2010 do
Tổng cục thống kê thực hiện. Nghiên cứu bao gồm cấu phần định lượng (khảo sát mẫu)
và cấu phần định tính (phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung). Trong nghiên cứu tập
trung vào chủ đề bạo lực gia đình với phụ nữ, chỉ sử dụng điều tra viên là phụ nữ, chọn
ngẫu nhiên một phụ nữ trong hộ gia đình và mời đến phỏng vấn trực tiếp qua Bảng hỏi
điều tra sử dụng các câu hỏi của nghiên cứu đa quốc gia của WHO về sức khỏe phụ nữ và
bạo lực gia đình với phụ nữ còn các thành viên khác trong gia đình không được phỏng
vấn và được biết về chủ đề cuộc khảo sát. Câu hỏi được đưa ra bằng cách liệt kê một loạt
các hành vi cá nhân mà phụ nữ từng phải hứng chịu: chỉ số bạo lực do người chồng gây
ra được xác định ở những câu hỏi về 6 câu hỏi hành vi về bạo lực thể xác và 4 hành vi
bạo lực tình dục. Bạo lực tinh thần và các hành vi kiểm soát cũng được thu thập sử dụng
trong danh sách các hành vi.
Như vậy, có thể thấy theo dòng lịch sử vấn đề về BLGĐ và Phòng chống BLGĐ

đã và đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các học giả. Song có lẽ, cho
đến nay, BLGĐ vẫn đang là một vấn đề nóng được xã hội quan tâm bởi những biến đổi


ngày càng phức tạp của nó đang diễn ra trong thực tiễn đời sống hàng ngày. Còn rất nhiều
những công trình nghiên cứu với quy mô khác nhau về vấn đề BLGĐ đã được các tác giả
thực hiện với mong muốn sẽ góp phần đưa đến một cái nhìn đa sắc cạnh về vấn đề BLGĐ
tại các địa phương trên cả nước. Các nghiên cứu đã phần nào phản ánh được thực trạng,
nguyên nhân, hậu quả của BLGĐ cũng như đã đưa ra được các kết luận, khuyễn nghị có ý
nghĩa cho công tác phòng chống BLGĐ ở nước ta.
Những tài liệu đã được công bố nói trên luôn là những tài liệu tham khảo quan
trọng trong việc nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn :”Đánh giá các dịch vụ hỗ trợ
nhóm phụ nữ bị bạo lực gia đình được tiếp nhận tại Trung tâm Công tác xã hội TP Hà
Nội”.

3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
3.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài này sẽ góp phần làm sang tỏ một số lý luận liên quan tới vấn đề nghiên cứu
như : Bạo lực gia đình là gì? Phụ nữ bị bạo lực gia đình là gì?Các dịch vụ công tác xã hội
hỗ trợ đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình và các yếu tố ảnh hưởng.
Đề tài thể hiện được vai trò của công tác xã hội trong việc trợ giúp nạn nhân bị bạo
lực gia đình đặc biệt là phụ nữ, từ đó mọi người nhận rõ được tầm quan trọng của nhân
viên công tác xã hội hiện nay. Đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm phát triển các
dịch vụ trợ giúp phụ nữ bị bạo lực dưới góc độ Công tác xã hội
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài xây dựng nhằm nghiên cứu thực trạng cung cấp dịch vụ công tác xã hội, phát
hiện các vấn đề trong thực trạng nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển chất
lượng và hiệu quả của các dịch vụ hỗ trợ với phụ nữ bị bạo lực gia đình tại Trung tâm cung
cấp dịch vụ Công tác xã hội TP. Hà Nội



4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá các dịch vụ hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực gia đình hiện có tại Trung tâm
cung cấp dịch vụ Công tác xã hội TP. Hà Nội
Tìm hiểu các yếu tố tác động đến các dịch vụ tại Trung tâm

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá các dịch vụ hỗ trợ với nhóm phụ nữ bị bạo lực gia đình của Trung tâm
cung cấp dịch vụ Công tác xã hội TP.Hà Nội về: cách thức tổ chức quản lý, ngân sách, sự
phong phú của các dịch vụ? Có lạc hậu không? Sự đáp ứng nhu cầu của xã hội? Các dịch
vụ có đủ để đáp ứng nhu cầu đối tượng...
Tìm hiểu các yếu tố tác động đến hiệu quả các dịch dịch vụ tại Trung tâm: nhân
lực, cơ sở vật chất, ngân sách, cách thức quản lý chỉ đạo, chính sách pháp lý có hiệu quả
không.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đánh giá các dịch vụ hỗ trợ đối với nhóm phụ nữ bị bạo lực gia đình
do Trung tâm cung cấp dịch vụ Công tác xã hội TP Hà Nội tổ chức thực hiện.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Phạm vi đối tượng: các dịch vụ hỗ trợ nhóm phụ nữ bị bạo lực gia đình hiện do

Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Hà Nội thực hiện.
-

Phạm vi về khách thể:
+ Phụ nữ bị bạo lực tại Trung tâm

+ Cán bộ làm việc trực tiếp với phụ nữ bị bạo lực của Trung tâm
+ Ngoài ra còn có các thành viên của gia đình.

-

Phạm vi về không gian, thời gian:
Từ tháng 1/2016 đến tháng 6/2016.


Tại Trung tâm cung cấp dịch vụ Công tác xã hội TP Hà Nội – Địa chỉ: Sổ 45
Bà Triệu, P.Nguyễn Trãi, Q.Hà Đông, TP.Hà Nội.

6. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu
Nghiên cứu sử dụng và phân tích nguồn thông tin của nhiều loại tài liệu:
- Tài liệu hướng dẫn tổ chức và hoạt động của các cơ sở bảo trợ xã hội
- Báo cáo thường xuyên và định kỳ của Trung tâm cung cấp các dịch vụ Công tác
xã hội TP. Hà Nội.
- Dữ liệu khảo sát tổ chức và hoạt động của các cơ sở xã hội do UNICEF và cục
Bảo trợ xã hội phối hợp thực hiện.
- Tài liệu quy hoạch mạng lưới cơ sở bảo trợ xã hội giai đoạn 2010 – 2030;
- Chương trình đào tạo bồi dưỡng nghề về công tác xã hội cho cán bộ cấp cơ sở
* Phương pháp phỏng vấn sâu
Nghiên cứu thực hiện phỏng vấn sâu 11 người có liên quan bao gồm:
- 01 Lãnh đạo cơ quan quản lý cơ sở
- 01 Chuyên chuyên phụ trách thuộc cơ quan chủ quản
- 01 Lãnh đạo trung tâm
- 03 nhân viên trung tâm làm việc trực tiếp với đối tượng bị bạo lực (2 NVTV, 1
NVXH).
- 01 Bảo vệ

- 06 phụ nữ bị bạo lực
Nội dung chủ yếu của các cuộc phỏng vấn sâu tập trung vào hai nội dung căn
bản: tìm hiểu thực trạng BLGĐ đối với phụ nữ và nhu cầu cần trợ giúp của họ; khảo sát


và đánh giá các dịch vụ hỗ trợ với phụ nữ bị BLGĐ tại Trung tâm cung cấp dịch vụ
Công tác xã hội.
* Phương pháp quan sát tham dự:
Người nghiên cứu đã xin đến làm việc tình nguyện tại Trung tâm CCDVCTXH
từ tháng 01/2016 đến tháng 6/2016 với nhiệm vụ là cộng tác viên công tác xã hội. Tham
gia các hoạt động của trung tâm liên quan đến quá trình tiếp nhận và trợ giúp phụ nữ bị
BLGĐ qua đó quan sát thực tiễn, rút ra được những nhận định của bản thân về dịch vụ
cung cấp tại Trung tâm với nhóm phụ nữ bị BLGĐ.
* Phương pháp thảo luận nhóm.
Thảo luận nhóm tập trung được tiến hành với sự tham gia của 7 người bao gồm:
1 NVXH, 2 NVTV, 1 lãnh đạo cơ quan quản lý cơ sở, 1 chuyên viên phụ trách thuộc cơ
quan chủ quản, 1 lãnh đạo trung tâm.

7. Cơ cấu của luận văn
Cơ cấu của luận văn: ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được chia làm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực gia
đình.
Chương 2: Thực trạng triển khai các dịch vụ hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực gia đình được
tiếp nhận tại Trung tâm cung cấp dịch vụ Công tác xã hội TP.Hà Nội.
Chương 3: Các yếu tố tác động đến hiệu quả các dịch vụ hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực
gia đình tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội TP. Hà Nội.


NỘI DUNG

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH

1.1 Những vấn đề lý luận
1.1.1Khái niệm:
* Dịch vụ xã hội:
“Dịch vụ xã hội là hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân, nhóm
người nhất định nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội”
Một khái niệm thống nhất về dịch vụ xã hội cho người yếu thế là rất cần thiết và
đó cũng là cơ sở để thiết kế hệ thống dịch vụ xã hội cho các nhóm đối tượng này. Dựa
vào những lý giải về dịch vụ, chính sách xã hội, dịch vụ xã hội, dịch vụ xã hội cơ bản nêu
trên, khái niệm dịch vụ xã hội cho người yếu thế được hiểu là:
“Dịch vụ xã hội cho nhóm yếu thế là các hoạt động có chủ đích của con người
nhằm phòng ngừa-hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cơ bản
và thúc đẩy khả năng hoà nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng yếu thế”
(Từ điển Tiếng Việt, 2004, NXB Đà Nẵng)
* Công tác xã hội:
Định nghĩa của Hiệp hội quốc gia nhân viên xã hội Mỹ (NASW - 1970): “Công
tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường
hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích
hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó”.
Định nghĩa của Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế thông qua tháng 7 năm
2000 tại Montréal, Canada (IFSW): “Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã hội,
giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải phóng cho
người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các


lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, công tác xã hội tương tác vào những
điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và Công bằng xã hội là các

nguyên tắc căn bản của nghề” [11].
Theo Foundation of Social Work Practice: “Công tác xã hội là một môn khoa học
ứng dụng để giúp đỡ mọi người vượt qua những khó khăn của họ và đạt được một vị trí ở
mức độ phù hợp trong xã hội. Công tác xã hội được coi như là một môn khoa học vì nó
dựa trên những luận chứng khoa học và những cuộc nghiên cứu đã được chứng minh. Nó
cung cấp một lượng kiến thức có cơ sở thực tiễn và xây dựng những kỹ năng chuyên môn
hoá” [20].
* Gia đình
Giữa các ngành khoa học, các nhà khoa học khác nhau cũng có nhiều quan điểm
khác nhau về gia đình. Có quan niệm cho gia đình là “tế bào xã hội”, gia đình là “thiết
chế xã hội”, "là “nhóm xã hội”, là “tổ chức cơ bản của xã hội”…
Trong tác phẩm “Cấu trúc xã hội” (1949) G.P. Murdock cho rằng “Gia đình là
một nhóm xã hội có đặc trưng là cùng cư trú, hợp tác và tái sản xuất kinh tế (người lớn
và của cả hai giới), và ít nhất trong đó có quan hệ tình dục với nhau, được xã hội tán
thành, một hoặc nhiều con cái (do họ đẻ ra hoặc do họ nhận con nuôi)” [12, tr. 21].
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam (năm 2002) định nghĩa “Gia đình là thiết chế
xã hội dựa trên cơ sở kết hợp những thành viên khác giới, thông qua hôn nhân để thực
hiện các chức năng sinh học, kinh tế, văn hóa….Gia đình là một phạm trù lịch sử thay
đổi cùng sụ phát triển của lịch sử” [6, tr. 17].
Dưới góc độ Luật pháp, theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam “Gia đình là
tập hợp những gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi
dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau” [18, tr. 25]
* Bạo lực gia đình


Bạo lực ngày càng được quan tâm nhiều hơn bởi bản chất của nó gắn liền với tội
phạm, người gây ra bạo lực không phân biệt giới tính, lứa tuổi hay dân tộc và nạn nhân
của bạo lực cũng không có mối liên hệ tới những phạm trù trên. Tức là ai cũng có thể gây
ra bạo lực và ai cũng có thể là nạn nhân của bạo lực. Bạo lực không chỉ ảnh hưởng tới
riêng nạn nhân mà còn là gây nên những hệ lụy tiêu cực tới cộng đồng rộng lớn, làm mất

an toàn xã hội khi hiện tượng khủng bố hay giết người hàng loạt ngày càng gia tăng.
Nhận thức được sự nghiêm trọng của bạo lực, năm 1995 Liên Hợp Quốc đã đưa
ra quan niệm: “Bạo lực là việc cố ý sử dụng vũ lực hay quyền lực để đe dọa, tước đoạt
đối với một người, một nhóm người để gây ra chấn thương về thể xác, tổn hại về mặt tâm
lý, thậm chí còn dẫn đến tử vong” [1, tr. 42].
Xét trong mối quan hệ thì “BLGĐ là tình trạng bạo lực xảy ra với các thành
viên trong một gia đình. Không đơn thuần coi BLGĐ chỉ xảy ra giữa người chồng và vợ
mà còn là bạo lực giữa cha mẹ và con cái, giữa những đứa con với nhau…”
(tríchWikimedia.com).
Xét dưới môi trường gây ra bạo lực, BLGĐ và bạo lực xã hội khác nhau ở môi
trường gây ra bạo lực. Bạo lực xã hội diễn ra trên quy mô lớn và với những người không
quen biết, còn BLGĐ xảy ra với những người thân trong gia đình, những người gắn kết
bởi quan hệ huyết thống và hôn nhân.BLGĐ liên quan tới trạng thái cảm xúc của mỗi cá
nhân, nhưng dù trong trường hợp nào thì nó cũng là sự lệch chuẩn xã hội.
Nhìn nhận về vấn đề BLGĐ, trong Đại hội của Hội đồng Liên Hợp Quốc tháng
12/1993, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về BLGĐ như sau: “Bất kỳ hành động bạo
lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể,
tình dục, tâm lý…sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tùy tiện sự tự do, dù nó xảy ra ở
nơi công cộng hay trong cuộc sống riêng tư.”
Quan điểm của Việt Nam về BLGĐ được thể hiện trong Luật Phòng chống
BLGĐ đã được thông qua ngày 1/7/2008. Khoản 2, điều 1, chương I của Luật này đã nêu
rõ: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả


năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia
đình.”.[19, tr. 40]
Trên thực tế đời sống và các nghiên cứu có nhiều dạng bạo lực gia đình như
bạo lực giữa vợ - chồng, chồng – vợ, bố mẹ - con cái, mẹ chồng – nàng dâu. Trong
nghiên cứu tập trung đi sâu vào người chồng gây bạo lực với vợ và người phụ nữ là nạn
nhân.



1.1.2 Các hình thức bạo lực gia đình
Các hành vi BLGĐ với phụ nữ được biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau, có
những hành vi bạo lực dễ dàng nhận thấy nhưng cũng có những bạo lực mà không thể
nhận thấy. Khái quát các hành vi bạo lực, có 4 nhóm hành vi bạo lực chủ yếu bao gồm
bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục và bạo lực kinh tế.
Các hành vi BLGĐ với phụ nữ được biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau, có những
hành vi bạo lực dễ dàng nhận thấy nhưng cũng có những bạo lực mà không thể nhận
thấy. Khái quát các hành vi bạo lực, có 4 nhóm hành vi bạo lực chủ yếu bao gồm bạo lực
thể chất, bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục và bạo lực kinh tế.
* Bạo lực thể chất
Là những hành vi ngược đãi, đánh đập hoặc sỉ nhục của một hoặc nhiều thành viên
trong gia đình làm tổn thương tới nhân phẩm, sức khỏe, tâm thần, tính mạng của một hay
nhiều thành viên khác. Bạo lực gia đình xảy ra giữa những người có quan hệ đặc biệt (vợ
chồng, con dâu, con rể) hoặc ruột thịt (ông bà, cha mẹ, con cháu, anh chị em, họ hàng) có
thể trong cùng một mái nhà hoặc mái nhà khác. [8, tr.43,44]
* Bạo lực tinh thần
Là những lời nói, thái độ, hành vi ngược đãi hoặc sỉ nhục của một hoặc nhiều thành
viên trong gia đình làm tổn thương tới nhân phẩm, sức khỏe, tâm thần của một hay nhiều
thành viên khác. Bạo lực tinh thần cũng còn là sự áp đặt, chỉ đạo hoặc xâm phạm tới nguyện
vọng, ý thích, thị hiếu riêng của mỗi người.[8, tr.44]
* Bạo lực tình dục
Là những hành vi cưỡng ép hoặc dùng bạo lực để thỏa mãn tình dục của một
người hoặc một nhóm người đối với một người hoặc một nhóm người khác. Hành vi này
có thể diễn ra một lần hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần và diễn ra cả trong quan hệ vợ chồng
hoặc bạn tình. Bạo lực tình dục còn bao hàm cả việc cưỡng ép vợ sinh nhiều con hoặc đẻ
con trai.Bạo lực tình dục là một dạng đặc biệt trong quan hệ giới tại gia đình. Nó vừa có



thể diễn ra kín đáo, âm thầm vừa có thể diễn ra công khai nhưng nhìn chung cả đạo đức
và pháp luật đều khó có thể can thiệp.[8, tr.44]


* Bạo lực kinh tế
Là việc dùng sức mạnh để đe dọa, áp đặt hoặc lừa mị nhằm bóc lột lao động, chiếm
giữ và kiểm soát tài chính của một hoặc một nhóm người với một hoặc một nhóm người
khác trong gia đình. Dạng bạo lực này đưa đến sự phân công lao động và hưởng thụ bất hợp
lý giữa các thành viên trong gia đình.[8, tr.44]

1.1.3 Đặc điểm phụ nữ bị bạo lực gia đình
BLGĐ thường để lại những dư âm tới nạn nhân BLGĐ và hậu quả của nó
thường dai dẳng hơn nhiều so với ảnh hưởng về thể chất. Những tổn thương về thể chất ở
nạn nhân BLGĐ còn có thể khắc phục được bởi can thiệp y tế nhưng tổn thương về tinh
thần của họ không dễ gì can thiệp và can thiệp nhanh chóng được.
Nạn nhân bị BLGĐ thường chịu ảnh hưởng tâm lý như cảm giác sợ sệt, lo lắng,
đặc biệt với phụ nữ, họ không chỉ sợ cho bản thân mà còn luôn lo sợ cho tính mạng của
con mình.Nạn nhân bị BLGĐ thường hạ thấp giá trị của mình, cảm thấy như mình có tội
lỗi và xấu hổ trước những người khác. Có những nạn nhân BLGĐ bị tổn thương tâm lý
trầm trọng tới mức họ có những rối loạn tâm lý như trầm uất, hoang tưởng. Họ sẽ trở nên
phụ thuộc nhiều hơn vào người có hành vi BLGĐ và từ đó khiến họ ngày một thụ động,
không dám đưa ra ý kiến, đề xuất hay quyết định trong gia đình họ, thâ ̣m chí là không
dám nói điều này ra với ai, kể cả những người thân của min
̀ h.
Bởi vậy nên việc họ chịu tiếp xúc và cởi mở chia sẻ vấn đề là rất khó. Muốn trợ
giúp các nạn nhân bị bạo hành thì chính bản thân họ phải mong muốn và có nhu cầu được
trợ giúp.
-

Đặc điểm thể chất

Những hành vi BLGĐ như đánh đập, ném, sử dụng hung khí để hành hạ khiến nạn

nhân BLGĐ có thể bị giảm khả năng về ăn, ngủ, nghỉ. Bị tổn thương thực thể từ nhẹ như
bầm tím, xây xước, chảy máu. Tới nặng hơn như bị thương tật làm giảm hoặc mất khả
năng lao động thậm chí là tử vong.


×