Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

MỘT số GIẢI PHÁP NHẰM cải THIỆN TÌNH HÌNH học văn của học SINH TRUNG học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.76 KB, 28 trang )

TÊN ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN TÌNH HÌNH
HỌC VĂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ”
MỤC LỤC

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

1. Trong thời điểm hiện nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển với
tốc độ nhanh, khi mà những lợi ích của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật mang
lại vô cùng to lớn thì xu hướng chọn học những ngành thuộc khoa học tự nhiên
của học sinh là điều dễ hiểu. Một thực tế hiển nhiên là phụ huynh nào cũng
muốn cho con em mình học tốt các môn: Toán, Lí, Hóa… còn các môn: Văn,
Sử, Địa… có yếu cũng không sao. Thậm chí, có những học sinh có năng khiếu
văn từ nhỏ, có thể ngay lập tức “ cái mầm” ấy bị thui chột theo yêu cầu của bố
mẹ. Tư tưởng học lệch, không coi trọng môn văn phần nào đã ngấm vào học
sinh từ tiểu học và các lớp đầu của trung học cơ sở.
2. Văn học là một môn học rất cần thiết. Nó không chỉ cung cấp tri thức
sống, nó còn rèn nhân cách sống, cách cảm nhận cái đẹp… Nhưng đây lại là
một môn học khó, rất khó. Vì nó trừu tượng và chẳng theo một công thức nào.
Khó còn vì không thích học nên chỉ học qua loa, học đại khái. Càng như vậy lại
càng học không vào. Bệnh đối phó trong học văn sinh ra từ đó.
3. Ngày nay, sách tham khảo cho học sinh quá nhiều, nhất là các loại
sách: “ Để học tốt…”. Bên cạnh yếu tố tích cực, loại sách này cũng góp phần
không nhỏ trong việc phát triển “ bệnh lười”, “ bệnh đối phó” của học sinh. Chỉ
cần hơn mười ngàn đồng là có một quyển, đủ để đối phó cả năm mà không sợ
1


sai, vì về căn bản nó giống nội dung sách giáo viên của các thầy cô giáo. Học
sinh có thể không cần đọc tác phẩm mà vẫn trả lời được câu hỏi trong SGK.
4. Cuộc cải cách giáo dục của ngành ta đặt ra những vấn đề mới mẻ, tích
cực, trong đó vấn đề coi học sinh là chủ thể của quá trình nhận thức, giáo viên


chỉ là người gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu. Về mặt lí thuyết điều đó đúng và
rất tốt. Nhưng xét trên thực tế, học sinh có là chủ thể được không khi các em
không đọc tác phẩm, không tự mình tìm hiểu và trả lời câu hỏi phần hướng dẫn
đọc- hiểu của SGK (sách giáo khoa).
Với những khó khăn và thực tế trên, tôi thấy việc thực hiện một giờ dạy
văn sao cho hiệu quả: vừa tạo hứng thú cho học sinh, vừa đáp ứng những đổi
mới về phương pháp là một điều rất khó. Vì vậy, cần phải đi tìm những giải
pháp cho vấn đề học văn của học sinh trong tình hình hiện nay. Đó chính là lí
do để tôi thực hiện đề tài này.

* Phạm vi- thời gian thực hiện
Phạm vi: Lớp 9A2, 8A2 ( 2008- 2009), lớp 9A2 ( 2009- 2010) chủ yếu
trong phần tìm hiểu văn bản.
Thời gian: Năm học 2008- 2009; 2009- 2010 và những năm tiếp theo.
II. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN

1. Khảo sát thực trạng khi chưa thực hiện đề tài.
a. Điều tra sở thích: Khi điều tra lí lịch đầu năm học, tôi có thêm câu
hỏi: Môn học mà em yêu thích ? Kết quả là:
- Năm học 2008- 2009: 9A2: 7/ 50 học sinh yêu thích môn văn
8A2: 14/ 55 học sinh yêu thích môn văn
- Năm học 2009- 2010: 9A2: 8/ 55 học sinh yêu thích môn văn
Như vậy ta có thể thấy tỉ lệ học sinh yêu thích môn văn quả là rất thấp.
Hơn nữa đặc thù của trường THCS Nguyễn Trực lại thiên về các môn tự nhiên
và ưu tiên cho môn học đó cũng lớn hơn môn xã hội.
b. Điều tra qua vở soạn của học sinh:

2



- Thực tế, những câu hỏi trong SGK của những bài văn bản thường rất
sâu, rộng, có sức khái quát cao; nhưng học sinh thường trả lời qua quýt, hoặc
không bám vào câu hỏi hoặc chép trong sách “ Để học tốt…” một cách vắn tắt.
Ví dụ: Bài thơ: “ Mùa xuân nho nhỏ”- SGK ngữ văn 9 có câu hỏi là:
Mùa xuân của thiên nhiên đất nước được miêu tả như thế nào qua những hình
ảnh, màu sắc, âm thanh ? Cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp và sức sống của
mùa xuân đất nước như thế nào ?
Khảo sát lớp 9A2 ( 2008- 2009) thì có 43/50 học sinh trả lời kiểu:
- Hình ảnh: Một bông hoa, chim chiền chiện, giọt sương
- Màu sắc: Xanh, tím, biếc
- Âm thanh: Tiếng chim hót vang trời
- Mùa xuân đất nước: Người cầm súng, lộc giắt trên lưng, người ra đồng,
lộc trải dài nương mạ
- Cảm xúc của tác giả: Xao xuyến, rung động
* Học sinh không đọc văn bản, không đọc kĩ câu hỏi, trả lời chệch và quá
sơ sài so với yêu cầu của câu hỏi.
Ví dụ: Trong bài thơ: “ Con cò”, SGK đưa câu hỏi: Nhận xét về cách vận
dụng ca dao của tác giả ?
- Điều tra nhóm 1: 8/50 học sinh lớp 9A2 ( 2008- 2009) có 5 em trả lời
giống nhau: “ Gợi nhịp nhàng, thong thả, bình yên trong không gian cao rộng”,
“ Gợi cuộc sống vất vả, tần tảo, tấm lòng ngay thẳng, trong sạch”
Câu trả lời trên lệch so với câu hỏi do học sinh không hứng thú với văn
học.
- Điều tra nhóm 2: 10/45 học sinh lớp 9A3 ( 2008- 2009 ) có 2 cách trả
lời:
Cách 1: Sáng tạo, đúng chỗ
Cách 2: Vận dụng ca dao, có những câu thơ đúc kết những suy ngẫm sâu
sắc.
Những câu trả lời trên chép hoặc dựa vào cuốn “ Để học tốt…” nhưng
không hiểu. Khi giáo viên hỏi “ sáng tạo ở chỗ nào” học sinh không trả lời

được.
3


c. Điều tra qua thực tế giờ dạy:
* Kiểm tra phần đọc- tóm tắt văn bản.
- Với phần đọc thơ: Đa phần học sinh đọc đúng từ ngữ nhưng còn một
lượng không nhỏ đọc sai từ, sai nhịp điệu nhất là những bài thơ như: Con cò,
Bếp lửa, Nói với con…
- Với tác phẩm truyện: Kiểm tra việc đọc của học sinh và tóm tắt tác
phẩm thì: Có rất nhiều học sinh không trả lời được. Khi được hỏi lí do, 100 %
trả lời “đọc một lần”, “đọc qua”. Thực chất có khi không đọc.
* Kiểm tra bằng cách trả lời câu hỏi hoặc thảo luận.
Học sinh trả lời sơ sài hoặc vụn vặt, diễn đạt không tốt vì thực chất
không được chuẩn bị kĩ. Vì vậy giáo viên dạy rất hay bị thiếu thời gian bởi phải
dừng lại rất lâu để giảng giải cặn kẽ cho học sinh hiểu.
d. Điều tra qua kết quả kiểm tra:
- Kiểm tra miệng: Nếu giáo viên không kiểm tra miệng thường xuyên thì
tỉ lệ không học bài là 60%. Nếu thường xuyên kiểm tra thì tỉ lệ không học bài là
20-25%.
- Kiểm tra 15 phút: Số học sinh hiểu đúng bài không cao.
- Kiểm tra viết 1 tiết: Điểm kiểm tra không đạt kết quả cao, có ít bài viết
được theo cách hiểu sáng tạo, thực tế phụ thuộc văn mẫu hoặc thuộc văn mẫu để
làm bài hợp pháp. Do yêu cầu cho học sinh thi vào 10 và cũng là lương tâm
nghề nghiệp, tôi thấy việc dạy văn quả là vất vả.
Với tất cả thực tế trên, nếu dạy để đạt mục đích yêu cầu: “Phát huy trí
sáng tạo, khả năng độc lập, tư duy…” của học sinh là điều rất khó thực hiện.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:

1. Yêu cầu để tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ dạy

Văn đối với người dạy học:
a. Giáo viên dạy văn phải là người luôn tâm huyết với nghề: Luôn trau
dồi, học hỏi đồng nghiệp. Đặc biệt người giáo viên phải có một tâm hồn thực sự
rung động trước một tác phẩm văn học, truyền được sự rung động văn chương
đó tới học sinh, tạo hứng thú yêu thích và niềm say mê môn học cho các em.
4


b. Trong quá trình giảng dạy phải có sự chuẩn bị bài kĩ lưỡng: Kết hợp
tốt các phương pháp trong giờ dạy. Phải thực sự có kĩ năng chuyên môn, có bản
lĩnh vững vàng để là người dẫn dắt, tổ chức học sinh khám phá cái hay, cái đẹp
của mỗi tác phẩm văn học.
c. Phải coi trọng tính chủ động tích cực của học sinh trong việc nhận thức
và cảm thụ tác phẩm văn học: Giáo dục các em lòng hứng thú say mê, yêu thích
học văn, giúp các em tìm tòi cảm nhận tác phẩm một cách chủ động sáng tạo.
Từ đó bồi dưỡng cho các em vốn sống, vốn hiểu biết về con người, về xã hội,
nâng cao đời sống tâm hồn tình cảm cho các em.

2. Các hình thức tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học
Ngữ văn
a. Hệ thống câu hỏi- một yếu tố then chốt tạo nên hứng thú cho học
sinh.
- Trước hết cần đánh giá đúng vai trò của câu hỏi trong giờ dạy học nói
chung và giờ ngữ văn nói riêng: Rõ ràng tư duy con người chỉ bắt đầu từ một
vấn đề hay từ một câu hỏi, từ một sự ngạc nhiên, thắc mắc hay mâu thuẫn. Vì
thế, hệ thống câu hỏi có nhiều thuận lợi để đánh thức, rèn luyện năng lực nhận
thức tư duy của học sinh. Một hệ thống câu hỏi tốt sẽ giúp cho năng lực chủ
quan của học sinh được phát huy. Khi đó việc chiếm lĩnh tri thức, thưởng thức
tác phẩm, hứng thú học tập mới thực sự có được và hiệu quả giảng dạy, học tập
mới thực sự bền lâu.

- Từ cơ sở lí luận đó, tôi đã sử dụng hệ thống câu hỏi trong bài dạy không
chỉ để nhằm mục đích chính: Đánh thức, rèn luyện tư duy nhận thức của học
sinh mà còn dùng nó như một phương tiện để gây hứng thú cho người học. Vậy
để làm được những điều đó, hệ thống câu hỏi ấy phải đạt được những yêu cầu gì
+ Trước hết câu hỏi phải mang “chất văn” để gợi những rung cảm
văn chương góp phần tạo hứng thú cho học sinh: Văn học là bộ môn vừa
mang tính nghệ thuật, vừa mang tính khoa học. Vì vậy, tôi nghĩ rằng hệ thống
câu hỏi trong giờ văn phải mang “ chất văn”, “ chất nghệ thuật”. Với người giáo
viên dạy văn, câu hỏi không chỉ đơn thuần là câu hỏi mà phải là “ nghệ thuật
5


hỏi”- hỏi để đánh thức tư duy, hỏi để học sinh tự nguyện trả lời, mong muốn
được trả lời. Vậy câu hỏi như thế nào là câu hỏi mang “chất văn” và mang “tính
nghệ thuật”?. Nếu như ở các môn khoa học khác câu hỏi chỉ cần độ chính xác,
sáng rõ, ngắn gọn kiểu như: Vì sao, tại sao, hãy giải thích, hãy chứng minh…
Đó là những kiểu câu hỏi mang tính chất mệnh lệnh thì đối với môn ngữ văn,
bên cạnh những yêu cầu về độ chính xác, sáng rõ, ngắn gọn, câu hỏi ấy còn phải
có sự dẫn dắt, có hình ảnh, khơi gợi cảm xúc cho người học.
Ví dụ: Câu hỏi có sự dẫn dắt: Trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá”Huy Cận, khi cho học sinh tìm hiểu những bức tranh đẹp về thiên nhiên và con
người theo hành trình của đoàn thuyền đánh cá, người dạy hỏi: “ Bài thơ là
những bức tranh đẹp lộng lẫy, lung linh sắc màu, đó là những cảnh nào ?
Câu hỏi khơi gợi cảm xúc: Trong bài thơ “ Sang thu”- Hữu Thỉnh, khi
hướng dẫn học sinh tìm hiểu cảm nhận không gian làng quê sang thu, giáo viên
hỏi: Con người cảm nhận thu sang bắt đầu bằng: Hương ổi- phả vào trong gió
se. Em có cảm nhận và hình dung như thế nào về hình ảnh đó ?
+ Tạo tình huống có vấn đề và cách giải quyết tình huống có vấn đề
thông qua các câu hỏi nêu vấn đề để học sinh được trao đổi, thảo luận là
yếu tố quan trọng trong phát triển hứng thú của học sinh trong giờ ngữ
văn. Theo quan điểm của tôi, tạo tình huống có vấn đề là “điểm nhấn” để thu

hút học sinh trong giờ học. Bởi lẽ, bản chất của câu hỏi nêu vấn đề là “mảnh đất
màu mỡ” để khơi gợi năng lực tư duy, là địa điểm để các em gặp gỡ các quan
điểm, ý kiến của cá nhân thông qua hình thức trao đổi, thảo luận. Bằng cách
này, giáo viên đã tạo ra được không khí tích cực trong giờ dạy. Bên cạnh đó, xét
về mặt tâm lí lứa tuổi, ở độ tuổi này, các em rất thích được tự khẳng định mình,
mong muốn được bày tỏ ý kiến cá nhân và được ghi nhận. Sau mỗi câu trả lời,
học sinh được cô động viên, khuyến khích thì các em rất hào hứng.
Tôi xin đưa ra một ví dụ về việc tạo tình huống có vấn đề như sau:
Trong văn bản: “ Chiếc lược ngà”- Nguyễn Quang Sáng, khi cho học sinh
tìm hiểu, phân tích thái độ bé Thu với ông Sáu, tôi cho học sinh khai thác điểm
nhấn tình huống của truyện bằng cách nêu vấn đề: “ Có ý kiến cho rằng: Khi bé
6


Thu hất miếng trứng cá ra khỏi bát là lúc em ghét ông Sáu nhất và cũng là lúc
em yêu ông Sáu nhất. Ý kiến của em như thế nào ?”
Rõ ràng đây là một câu hỏi khó, bởi lẽ để trả lời được câu hỏi này học
sinh phải là người có khả năng đi sâu vào thế giới tâm lí nhân vật thì mới có thể
hiểu được tâm trạng, cảm xúc, vừa mâu thuẫn, vừa nhất quán trong lòng bé Thu.
Song cũng chính từ câu hỏi khó này, mà học sinh của tôi hào hứng chinh phục
nó. Mỗi em góp một ý kiến. Có những câu trả lời thật sâu sắc ( của học sinh
giỏi), cũng có những câu trả lời thật ngô nghê ( của học sinh trung bình, yếu).
Sau các ý kiến đó tôi ghi nhận, đánh giá và đưa ra câu trả lời đầy đủ nhất, cả lớp
học lặng im, chú ý nghe giảng. Nhìn gương mặt của các em khi đó tôi thiết
nghĩ: Các em rất hứng thú với giờ học của mình rồi.Thậm chí tạo vấn đề để thảo
luận VD: So sánh hình ảnh cái bóng ở 2 văn bản Chuyện người con gái Nam
Xương và Chiếc lược ngà, nêu ý nghĩa nghệ thuật của 2 hình ảnh này?
+ Xây dựng hệ thống câu hỏi tối ưu cho giờ dạy- một cách duy trì
hứng thú cho học sinh.
Như trên đã nói về vai trò quan trọng của hệ thống câu hỏi trong giờ dạy

là để đánh thức, rèn luyện tư duy nhận thức của học sinh. Bên cạnh đó một hệ
thống câu hỏi tốt sẽ duy trì hứng thú của học sinh như thế nào? Nhận thức của
học sinh là một quá trình, hứng thú của học sinh cũng là cả một quá trình. Do
đó, để duy trì được quá trình đó thì câu hỏi không được tùy tiện, nó phải được
xây dựng thành một hệ thống logic có tính toán. Giáo viên phải dẫn dắt câu hỏi
từ mức độ thấp đến mức độ cao. Có thế, cả lớp mới thực sự được làm việc và
mới có hứng thú trong giờ học. Hệ thống câu hỏi phải từ quan sát đến phát hiện,
phân tích, từ phân tích đến nhận xét, đánh giá một cách riêng lẻ đến nhận xét
đánh giá ở phạm vi rộng hơn, khái quát hơn, nhằm giúp học sinh từng bước đi
sâu vào tác phẩm như một chỉnh thể.
Ngoài yêu cầu về hệ thống câu hỏi tối ưu, còn phải đạt các tiêu chuẩn
khác như: Câu hỏi chính xác, rõ ràng, có khả năng gợi tình cảm, xúc động thẩm
mỹ cho học sinh. Nên sử dụng phong phú các loại câu hỏi: Câu hỏi phát hiện,
câu hỏi giải thích, câu hỏi phân tích, câu hỏi so sánh, câu hỏi giảng bình, câu
7


hỏi gợi liên tưởng, tưởng tượng, câu hỏi nêu vấn đề… Ngoài ra cần có sự kết
hợp cân đối giữa các loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi tổng hợp.
Thực tế giảng dạy đã cho thấy việc đặt hệ thống câu hỏi tối ưu đã giúp
học sinh tham gia tích cực, chủ động vào bài giảng, buộc học sinh phải suy nghĩ
tập trung vào vấn đề giáo viên hỏi để tìm tòi, khám phá, từng bước hiểu và cảm
thụ đúng tác phẩm. Và như thế có “hiểu”, có “cảm” được tác phẩm thì mới tạo
ra hứng thú cho các em.
b. Sáng tạo trong bài giảng – một cách gây hứng thú cho học sinh:
- Như chúng ta đã biết văn học là một bộ môn vừa mang tích khoa học,
vừa mang tính nghệ thuật. Ngoài tính chính xác của khoa học thì tính nghệ thuật
của bộ môn này được thể hiện qua cách tổ chức giờ dạy. Một giờ dạy văn không
hề có một công thức nhất định, các giờ dạy không phải nhất nhất dập khuôn
giống nhau. Nếu quan niệm như vậy thì giờ dạy văn sẽ trở nên cứng nhắc khô

khan, gượng ép và như thế sao có thể tạo hứng thú với học trò.
- Vậy để cho giờ văn mang tính nghệ thuật đồng nghĩa với việc người
giáo vên phải biết sáng tạo, luôn làm mới giờ dạy để mỗi giờ học là những “bí
mật” thú vị mà học sinh muốn khám phá. Qua kinh nghiệm giảng dạy, tôi thấy
có rất nhiều cách để sáng tạo bài giảng.

+ Sáng tạo trong cách đặt vấn đề: Giới thiệu bài mới.
Đây là hoạt động đầu tiên cho việc dạy bài mới. Nhưng ở hoạt động này
người dạy thường hay xem nhẹ, thậm chí nhiều giáo viên còn bỏ qua nó. Có
những thầy cô đơn giản hóa lời giới thiệu bài mới bằng điệp khúc muôn thủa:
“ Tiết trước chúng ta học bài… hôm nay chúng ta vào bài mới…”.Chính
sự thờ ơ của một số giáo viên trong lời giới thiệu bài đã phần nào làm giảm đi
hứng thú học của học trò. Với tôi, giới thiệu bài là một việc làm rất quan trọng
và không thể thiếu bởi nó như một lời chào, là lời “dạo nhạc” cho “khúc nhạc
bài giảng”. Làm tốt được điều đó sẽ tạo tâm thế cho giờ dạy, tạo hứng thú cho
học sinh.
8


Vậy đặt vấn đề như thế nào để có hiệu quả, rõ ràng, không thể áp dụng
một cách máy móc lời giới thiệu cho tất cả các tiết dạy. Muốn có lời giới thiệu
hay, hấp dẫn, người dạy phải suy nghĩ đầu tư để lời giới thiệu vừa bám sát nội
dung bài học, vừa tạo sự bất ngờ với học sinh. Có nhiều cách để giới thiệu: Từ
cách cổ điển thông dụng như: Thuyết giảng giới thiệu đến đặt câu hỏi tạo tình
huống để dẫn dắt, ta còn có thể vận dụng các phương tiện hiện đại, đồ dùng dạy
học như: Xem tranh ảnh, phim, nghe nhạc… Chính những cách vào bài mới mẻ
như thế luôn luôn là tâm điểm gây được sự chú ý, hứng thú cho học sinh, tạo
tâm thế tốt cho tiết dạy.
+ Sáng tạo trong cách tổ chức dạy học, nội dung bài giảng
Như trên đã trình bày, một giờ dạy văn không có một công thức nhất

định. Người dạy khi soạn bài phải luôn tìm tòi ra cách tổ chức dạy học phù hợp
nhất với tiết dạy đó. Ở bài này là hình thức truyền thống: cô phát vấn, trò phát
hiện, ở bài kia lại là hình thức trao đổi, đối thoại qua các mô hình thảo luận
nhóm, lại có những bài người giáo viên mạnh dạn cho học sinh tự tìm hiểu, sưu
tầm, nghiên cứu trước ở nhà rồi đến lớp thảo luận, trao đổi…
Việc đưa ra mô hình học- chơi, chơi- học cũng là một sáng tạo trong tổ
chức giờ dạy có hiệu quả thông qua các trò chơi như: Giải đáp ô chữ, điền sơ đồ
câu, thi tiếp sức… giờ học sẽ trở nên hào hứng, sôi nổi, kiến thức được khắc
sâu một cách nhẹ nhàng.
Ngoài sáng tạo trong việc tổ chức dạy học thì sáng tạo trong nội dung bài
giảng cũng là một yếu tố quan trọng để gây hứng thú cho học sinh. Nội dung
của cô giáo phải phong phú, kiến thức phải chính xác, sâu rộng. Trong thực tế
giảng dạy, tôi đã đúc rút được kinh nghiệm này rất nhiều.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Truyện Kiều”- Nguyễn Du, tôi có cách tóm tắt cốt
truyện bằng sơ đồ sau:

Gặp gỡ và đính ước
9


*
Đoàn tụ
*
Từ Hải
Gia đình*

Thúc Sinh
Gia biến*

Giác Duyên


*

*

*

Cứu *
thoát

Mã Giám Sinh- Tú Bà*
Tự tử lần 1*

Bạc*
Hạnh

Lầu xanh 1*
Hoạn Thư*
Lầu xanh 2*
Hồ Tôn Hiến*
Tự tử lần 2*

15 năm lưu lạc
Nhìn vào sơ đồ, học sinh dễ dàng hình dung toàn bộ diễn biến cốt truyện,
nhân vật và đặc biệt là những biến cố lớn trong cuộc đời của Kiều. Với hình
thức trên, tôi đã thực sự cải tiến bài giảng của mình. Ở mỗi biến cố, tôi biểu thị
trên sơ đồ bằng (*), rồi tôi chọn lọc những câu Kiều hay, tiêu biểu để minh họa.
Chính những dấu hiệu đường đi lên và xuống trong sơ đồ cùng những câu Kiều
tương ứng đã chứng tỏ những điều bất hạnh mà Kiều gặp phải trên đường đời
15 năm lưu lạc. Với cách tóm tắt như vậy sẽ khiến học sinh dễ thuộc, dễ nhớ tác

phẩm. Các em hiểu tác phẩm và đặc biệt là tiếp nhận một cách hào hứng.

10


c. Hứng thú từ việc tạo một không khí văn chương cho giờ dạy giảng
văn.
Muốn thu hút được sự chú ý của học sinh, giáo viên phải tạo được không
khí văn chương trong giảng văn. Chính nhờ có không khí nghệ thuật ấy mà học
sinh cảm nhận được cái hồn của tác phẩm, hòa tâm hồn mình đồng điệu với tác
giả, tác phẩm thì nhất định giờ văn ấy sẽ thành công. Để làm được điều đó, tôi
chú ý vào mấy vấn đề sau:
- Giới thiệu bài mới: Việc làm này nhất thiết phải có và phải được đầu
tư thích đáng. Vai trò của việc giới thiệu bài mới đã được tôi đề cập ở phần trên.
Bằng giọng nói truyền cảm, người giáo viên qua phần giới thiệu bài sẽ dẫn các
em vào một tác phẩm có hiệu quả, tạo dựng được không khí văn chương, thu
hút được sự chú ý của học sinh vào bài giảng
- Đọc diễn cảm: Đây là một khâu quan trọng trong giờ dạy giảng văn vì
đọc trong văn là đặc trưng phương pháp giảng dạy văn đồng thời đọc diễn cảm
cũng là cách tốt để tạo ra không khí văn chương cho giờ học.
Trong khâu đọc tác phẩm giáo viên cần chú trọng đến việc hướng dẫn học sinh
cách đọc sao cho đúng cho hay. Vì đây là công việc quan trọng để giúp học sinh
cảm thụ tác phẩm về mặt cảm tính, là chiếc cầu nối cho việc đi sâu vào hình
tượng văn học.
Đối với giáo viên, đọc mẫu và hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm là bước
đầu tiên để phân tích tác phẩm ở giai đoạn trực quan sinh động có tác dụng
khêu gợi tưởng tượng, óc liên tưởng, cảm xúc rất cần thiết cho khâu bình giảng,
phân tích tác phẩm. Học sinh đọc tốt là bước đầu cảm thụ văn bản. Cô đọc tốt,
trò đọc tốt chính là một cách để gợi hứng thú cho việc tìm hiểu tác phẩm
Để việc đọc có hiệu quả tôi thường chú ý vào mấy điểm sau:

* Đọc đúng: Đọc chính xác ngôn từ, câu văn, đúng với nội dung cảm
xúc của từng đoạn, từng văn bản, đúng với từng thể loại…
* Đọc hay: Đọc to, rõ, mạch lạc, đọc truyền cảm, đọc sáng tạo…
Ngoài ra tôi luôn cố gắng sáng tạo ra cách đọc sao cho không bị dập
khuôn, tránh đơn điệu.
11


Ví dụ: Ở văn bản tự sự có nhiều lời thoại, tôi cho học sinh đọc phân vai.
Ở văn bản trữ tình trung đại hoặc hiện đại được viết bằng chữ Hán, tôi cho học
sinh đọc cả ba phần: Phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ cùng một lúc bằng cách:
Học sinh thứ nhất đọc câu 1 phần phiên âm, học sinh thứ hai đọc câu 1 phần
dịch nghĩa, học sinh thứ ba đọc câu 1 phần dịch thơ. Cứ như thế cho đến khi hết
bài. Nhờ có cách đọc sáng tạo ấy mà học sinh có thể nhớ và so sánh ngay được
phần phiên âm và phần dịch thơ, đối chiếu xem phần dịch thơ đã sát chưa, đồng
thời tạo ra sự hứng thú cho cả lớp.
- Thuyết giảng, bình giảng: Tôi thường nghĩ: Dạy văn khác với dạy các
bộ môn khác bởi vì người dạy văn phải là người biết tìm tòi, biết khám phá,
rung động với cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương. Ngôn ngữ của thầy có
tác dụng sâu sắc đối với việc truyền thụ kiến thức và giáo dục tư tưởng, tình
cảm, giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Ngôn ngữ trong sáng, chính xác, biểu cảm
của thầy sẽ có tác dụng đến nhận thức, đến đạo lí, đến kĩ năng nói và suy nghĩ
của học sinh. Vì thế ở khâu thuyết giảng, bình giảng ( đặc biệt là những điểm
“sáng” của bài ), tôi luôn có một sự đầu tư thích đáng. Điều đó góp phần không
nhỏ tạo sự hứng thú của học sinh trong giờ văn.
Ví dụ: Khi dạy bài thơ “ Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh, sau khi giúp
học sinh tìm hiểu xong ý nghĩa của những hình ảnh thơ trong hai câu thơ đầu,
tôi đã khắc sâu bằng những lời bình giảng ngắn gọn và cô đọng: “ Một chút
ngập ngừng hương ổi trong cơn gió đầu mùa. Cái ấm và cái lạnh giao nhau. Còn
gì ấm áp nồng nàn bằng hương hoa vườn tược, với trái ngọt mùa màng ? Nó

đánh thức tuổi thơ, nó xôn xao hoài niệm. Đột ngột và trẻ trung, câu thơ mang
lại hai tầng nghĩa: Tầng thứ nhất là từ những gì nhận thấy ( hướng ngoại ), tầng
thứ hai là những gì cảm thấy tự thân ( hướng nội ). Nhưng một thứ hương ổi
hào phóng vô tư bỗng vì sao chững lại ở ngay câu sau đó: “ Phả vào trong gió
se” ? Vì mùa hạ đã lặn hết quả ngọt, đã dâng hiến hết mình.. Cơn gió bây giờ
chỉ còn xào xạc hắt hiu. Nó se lạnh, hao gầy. Trạng thái phân đôi là tất yếu. Hai
câu thơ như một thoáng chốc bâng khuâng. Sự bối rối tràn cả sang câu dưới…”

12


Quả thật, những lời bình giảng của giáo viên đã nâng cánh tâm hồn các em,
giúp các em không chỉ hiểu mà còn cảm nhận sâu sắc tác phẩm và thu hút hứng
thú học tập.
d. Dạy học bằng sự đa dạng các phương pháp- một cách “ làm mới”
gây hứng thú cho học sinh.
Để một giờ học thành công trong việc đạt được những mục tiêu đề ra và
thực sự tạo được hứng thú tích cực, chủ động cho học trò có rất nhiều con
đường, nhiều cách thức. Tôi cũng sử dụng thêm công cụ tư duy Mind map vào
dạy học
* Ứng dụng công cụ MindMap vào dạy học
Để xác định chính xác hình ảnh chủ đề và vị trí các đường kẻ, người giáo
viên phải có kĩ năng phân tích chương trình học phần. Dựa vào mục tiêu đào tạo
của nhà trường, mục tiêu của nghành học, mục tiêu của học phần, mục tiêu của
từng chương bài người dạy xác định kiến thức trọng tâm, kiến thức bậc một, bậc
hai…của từng vấn đề, từng chương và toàn học phần. Như vậy khi dạy học
người dạy không chỉ sử dụng bản đồ tư duy để truyền đạt kiến thức mà còn
hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức được
thu nhận.
Sau đây là những bản đồ tư duy mà tôi đã sử dụng trong quá trình dạy

học:
- Sử dụng phần mềm Mindjet MindManeger
- Các dạng bản đồ của David Hyerle

+ Bản đồ cây (dùng trong phân loại và phân nhóm)

13


VĂN BẢN
KHÁI NIỆM

CẤU TRÚC

NGÔN TỪ

HÌNH TƯỢNG

Ý NGHĨA

NGỮ ÂM

KHÁCH THỂ ĐỜI
SÔNG

Ý THỨC NGƯỜI
ĐỌC

NGỮ NGHĨA


TÍNH KHÁI
QUÁT HÓA

TẦM TIẾP NHẬN
CỦA NGƯỜI ĐỌC

NGỮ CẢNH

TÍNH CÁ THỂ
HÓA

- Bóng đồ

Tên
Số phận

Ngoại hình

Nhân vật
văn học
Tính cách

Hành động

Nội tâm

Ngôn ngữ

Đối với dạng bóng đồ này khi tôi yêu cầu học sinh viết bài tự luận dài
hoặc đoạn văn về bất kể nhân vật gì học sinh có trình độ cảm thụ văn không cao

cũng có thể nhận xét và viết được những nét cơ bản nhất về nhân vật. VD:
14


Nhân vật Nhĩ (Bến Quê của Nguyễn Minh Châu), Ông Hai ( Làng của Kim
Lân )…

- Double Bản đồ (Dùng trong so sánh )

Nhâ
n vật

Miêu
tả

Truyện

Sân
khấu

Kịch

Sự
kiện

Xung
đột

Trần
thuật


Kịch
tính

Dạng bản đồ này có thể giúp học sinh tư duy một cách khá toàn diện về
các tác phẩm đã học, biết đối chiếu so sánh các thể loại văn học, hoặc các tác
phẩm với nhau mà vẫn đảm bảo kiến thức toàn diện của từng thể loại.
- Bản đồ xác định trình tự và thứ tự

Văn học Việt
Nam X-XIV

Văn học Việt Nam
XV-XII

15

Văn học Việt
Nam XVIIInửa đầu XIX

Văn học Việt
Nam nửa cuối
XIX- đầu XX


Văn học Việt
Nam 1900 1930

Văn học Việt
Nam 1930 1945


Văn học Việt
Nam 1945
X-XIV
-1975

Văn học Việt
Nam 1975 -nay

- Bản đồ phân tích nguyên nhân hệ quả:

Trái tim giàu
lòng yêu thương

Thời đại

Gia đình

Nguyễn Du

Ngợi ca những
giá trị tốt đẹp
của con người

Lên tiếng tố cáo
các thế lực bạo
tàn

Éo le cuộc đời


Vần
- Bản đồ quan hệ
Âm
16


Nhịp điệu

Thanh
Nhịp

So sánh

THƠ

Ẩn dụ
Hình ảnh
Tượng
trưng

Như vậy ứng dụng công cụ bản đồ tư duy MindMaps vào dạy học sẽ giúp
học sinh hệ thống, tổ chức và phân loại suy nghĩ; kích thích hứng thú tưởng
tượng, liên tưởng; ghi nhớ tốt hơn và nhìn thấy bức tranh tổng thể của bài,
chương và toàn học phần.
Công cụ tư duy MindMap đang làm một sự chuyển mình trong đổi mới
dạy học. Dạy học bằng MindMaps không còn những đề mục, tiểu mục. Bài
giảng mở ra bằng một map kiến thức toàn diện và các câu hỏi, bài tập là những
vấn đề học sinh phải giải quyết trên lớp.
Những giờ học ứng dụng công cụ MindMaps và hướng dẫn học sinh làm
bài tập bằng bản đồ tư duy thật sôi nổi hào hứng, các nhóm làm việc hiệu quả,

phát huy tối đa sự tưởng tượng của các thành viên. Bản đồ tư duy đồng thời
cũng bộc lộ cả điểm yếu của người học cần khắc phục như tư duy thiếu lôgic,
những tưởng tượng sai quy luật nhận thức và thẩm mĩ.
17


Ngoài việc ứng dụng đó tôi kết hợp nhiều phương pháp khác nhau:
- Trước hết tôi sử dụng các phương pháp dạy học khác nhau:
Thuyết trình, đàm thoại, sử dụng SGK, quan sát, luyện tập, rồi sau đó là
sử dụng đa dạng các phương tiện dạy học: Kết hợp luân phiên lời nói, chữ viết,
bảng, sơ đồ, tranh ảnh, băng hình…
Thực tế dạy học cho thấy: Đồ dùng dạy học đóng góp một phần không
nhỏ trong việc truyền tải nội dung kiến thức bài học đến học sinh một cách khá
hiệu quả, giúp giờ học thêm sinh động, hấp dẫn, bản thân học sinh hứng thú và
có nhiều cơ hội hoạt đọng tích cực hơn.
Tôi xin đưa ra một ví dụ về việc sử dụng sơ đồ khung, các hiệu ứng trong
một bài dạy mà tôi đã áp dụng công nghệ thông tin. Bài dạy “ Lão Hạc” – Nam
Cao.
Để nhấn mạnh và đề cao hơn nữa về phẩm chất của Lão Hạc, tôi so sánh
nhân vật Lão Hạc với các nhân vật khác trong tác phẩm nhằm khắc sâu kiến
thức cho các em.
Lão Hạc là người lương
thiện, đáng kính

Binh Tư

Lão
Hạc là
người
gàn dở


Lão Hạc là một
lão nông đáng
trọng.

Vợ ông
giáo

Lão
Hạc

Người
con

Ông giáo

Cậu Vàng

18

Lão Hạc là người
cha yêu thương con
hết mực .

Lão Hạc là
người yêu
quí loài
vật…



Kết hợp với lời giảng của giáo viên về mối quan hệ giữa các cặp nhân
vật là các hiệu ứng trên màn hình với những đáp án tương ứng. Cách áp dụng
các phương pháp này đã mang lại hiệu quả tốt cho giờ dạy: Các em hiểu rằng,
trong mối quan hệ với các nhân vật khác ta thấy mỗi tương quan là một ánh
sáng, chúng hội tụ từ khắp phía làm rạng ngời chân dung Lão Hạc.
Chúng ta không phủ nhận hiệu quả của các phương tiện đồ dùng dạy học
trong việc truyền đạt kiến thức đối với học sinh. Song, với tôi việc sử dụng đồ
dùng dạy học phải có sự cân nhắc, tính toán kĩ lưỡng. Rõ ràng, người thầy vẫn
phải đóng vai trò chủ đạo trong tiết học, máy móc, phương tiện dù hiện đại cũng
không thể làm thay giáo viên. Kết quả cuối cùng của một giờ dạy học là học
sinh thu lượm được những gì, chứ không phải là sự phô trương, biểu diễn giờ
dạy qua việc trình diễn đồ dùng dạy học. Do đó, điều cần chú ý là sử dụng các
phương tiện dạy học một cách tối ưu, đòi hỏi mỗi giáo viên phải có những
phương tiện thích hợp, với một số lượng vừa phải để đạt kết quả cao nhất. Bản
thân tôi, bên cạnh việc sử dụng phương tiện dạy học hiện đại như dùng máy
chiếu hắt, tôi cố gắng chủ động tìm cách làm các đồ dùng đơn giản như: biểu
bảng, sơ đồ, những bộ tranh sưu tầm, phiếu học tập…Những đồ dùng dạy học
như thế mang tính thực tiễn cao và mang lại hiệu quả cho giờ dạy.

- Kết hợp với các hình thức hoạt động khác phù hợp với đặc trưng
thể loại của văn bản nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ văn.
Đó là các hình thức tổ chức dạy học: Học bài mới, ôn tập, luyện tập,
kiểm tra, thảo luận nhóm do giáo viên hoặc học sinh tự điều khiển. Ngoài ra còn
có thể kết hợp các hình thức khác như: ngoại khóa. Đối với truyện dân gian, cho
học sinh thi kể chuyện diễn cảm, đọc phân vai, tổ chức diễn kịch với những văn
bản kịch như: Bắc Sơn, Tôi và chúng ta ( Ngữ văn 9 ) hoặc có thể chuyển thể
truyện ngắn sang tiểu phẩm kịch. Ví dụ: Sống chết mặc bay ( Ngữ văn 8 ).
Hình thức học tập này thường được sử dụng trong các tiết học về chương trình
địa phương, chương trình ngoại khóa. Với phần thơ, có thể tổ chức đọc diễn
19



cảm thơ, thi ngâm thơ, tập sáng tác thơ, sưu tầm những bài thơ hay có chung đề
tài…Nhờ các hoạt động như thế mà các em sẽ có hứng thú học, yêu và say mê
văn học.

Sau đây tôi xin trình bày một bài soạn cụ thể cho một bài giảng văn lớp 9
Ngữ văn 9 – tiết 37

Kiều ở lầu ngưng bích (Trích “ Truyện Kiều”
- Nguyễn DuA. Mục tiêu cần đạt
B. Chuẩn bị
C. Hoạt động dạy học
1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ
3. Bài mới : Giáo viên giới thiệu bài mới
* Hoạt động 1 : Hướng dẫn tìm hiểu vị trí, từ I. Đọc – Hiểu chú thích
khó và bố cục đoạn trích

1. Vị trí
2. Đọc giải nghĩa từ
3. Bố cục của đoạn trích

* Hoạt động 2 : Hướng dẫn tìm hiểu văn bản II. Đọc - hiểu văn bản
theo kết cấu của đoạn trích

-Cảnh thiên nhiên ở Lầu

- Sáu câu mở đầu nêu nội dung chính nào?


Ngưng Bích qua tâm trạng của

- Nhận xét của em về hoàn cảnh của Kiều?

Kiều.

- Trong hoàn cảnh bị giam lỏng như thế, cảnh

- Hoàn cảnh của nàng:

thiên nhiên được nhìn qua tâm trạng của Kiều

Bị giam lỏng nơi đất

như thế nào?

khách xa xôi

-> Không gian có chiều xa, chiều rộng, có thể
là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang
20


tính ước lệ…
- Giữa khồn gian ấy, hình ảnh lầu Ngưng Bích
hiện ra như thế nào?
-> Lầu Ngưng Bích hiện chơi vơi, trơ chọi
giữa giữa mênh mang trời nước, giữa không
gian trống vắng rợn ngợp..
- Trơ trọi giữa không gian ấy nàng cảm nhận

như thế nào về thời gian?
-> Mây sớm đèn khuya là hình ảnh diễn tả sự
trôi chảy của thời gian lặp đi lặp lại như một
vòng tuần hoàn khép kín , trói buộc con
người…
- Như vậy dưới con mắt của Kiều thiên nhiên
hiện lên thật buồn bã, điều này cho thấy Kiều
đang ở trong tâm trạng như thế nào? tìm từ

- 6 câu thơ đầu sử

ngữ diễn tả rõ nét tâm trạng ấy?

dụng

nhiều

-> Bẽ bàng tủi hổ, xót xa…

đối , liệt kê mở ra

- Vậy ở 6 câu thơ đầu nhà thơ đã sử dụng

một không gian cao

nhiều hình ảnh gì để miêu tả cảnh và tâm trạng

rộng

con người


tương phản với sự

mênh

phép

mông

đơn độc nhỏ bé của
con người.
- Kiều rơi vào tủi hổ,
Chuyển ý : Trong hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối

xót xa trong mặc cảm

như thế Kiều vẫn không nguôi nhớ về người

cô đơn tuyệt đối.

thân
- Em thấy Kiều nhớ ai trước, ai sau? Như thế
có hợp lí không ? Tại sao?

2. 8 câu thơ tiếp theo : Nỗi

-> Nhớ Kim Trọng trước -> Phù hợp vì Kiều nhớ thương của Thúy Kiều
vừa bán mình chuộc cha, nay là nỗi buồn tình đối với người thân
cảm không thành vơí Kim Trọng..
21



- Nhớ tới Kim Trọng nàng nhớ tới điều gì?
-> Kiều một mình lẻ bóng nơi đất khách chỉ có
trăng gần bầu bạn -> gợi hình ảnh đêm trăng
thề nguyền cùng Kim Trọng.
Cách viết của nhà thơ vừa thể hiện sự tinh tế
vừa khắc họa tâm lí nhân vật đồng thời thể
hiện sự cảm thông của ông đối với nhân vật.
Cùng là nỗi nhớ nhưng cách biểu hiện lại khác
nhau. hãy phân tích từ ngữ, hình ảnh để làm rõ
điều đó?
 Nhớ Kim Trọng :

-Kiều thương nhớ Kim Trọng,

- Nhớ kỉ niệm tình đầu

cho thấy Kiều là người tình

- Thương người yêu uổng công trông thủy chung gắn bó..
ngóng
- Nỗi đau khi không giữ được sự trong
trắng thủy chung với người yêu…
 Nhớ thương cha mẹ

- Nhớ thương cha mẹ cho thấy

- Thương xót cha mẹ ngóng tin con


Kiều là người con hiếu thảo,

- Tưởng tượng cảnh quê nhà đã đổi người có tấm lòng vị tha đáng
thay mà cha mẹ ngày một thêm già trọng..
yếu….
-Các thành ngữ, câu hỏi tu từ, đều khẳng định
tình cảm bền chặt của Kiều với người yêu, nỗi
niềm Kiều khi nhớ về cha mẹ.
- Nêu cảm nhận của em về từ ngữ hình ảnh
được sử dụng trong đoạn thơ?
GV: Sử dụng từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian,

 Kiều



người

tình

thời gian cách biệt như “ dưới nguyệt”, “ bên

chung thủy, người con

trời”…đã diễn tả một cách sâu sắc cảm động

hiếu thảo…

nỗi nhớ người yêu nay vì cảnh ngộ mà phải
chia lìa đau đớn …

22


- Khi nhớ cha mẹ tác giả cũng sử dụng các từ
ngữ chỉ thời gian xa cách: hôm mai, cách mấy
nắng mưa, điển cố văn học …diễn tả nỗi nhớ
thương cha mẹ tấm lòng hiếu thảo của Thúy
Kiều. Giọng thơ rưng lệ, nỗi đau của Kiều như
thấm vào cảnh…

3.Tám câu thơ cuối:Tâm

* Hoạt động 3

trạng buồn lo của Kiều qua

Chia lớp làm 4 tổ: Các tổ sẽ trình bày phần nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
chuẩn bị ở nhà, các bạn nhận xét, đánh giá,
góp ý..

Bốn bức tranh tâm cảnh

- Tổ 1: 2 câu thơ đầu

- Cảnh 1: Cửa bể: Gợi không

- Tổ 2: 2 câu tiếp theo

gian rộng, buồn


- Tổ 3: 2 câu tiếp

Thời gian : chiều hôm ->

- Tổ 4: 2 câu cuối

ngày tàn, cánh buồm lẻ loi…

Đây là phần giáo viên cho học sinh thảo luận, - Cảnh 2
giáo viên không bình giảng nhiều mà cơ bản là - Cảnh 3
hoạt động của chính học sinh

- Cảnh 4…

Lần lượt các tổ trình bày phần chuẩn bị của tổ -> Con người ở lầu cao mà
mình, các tổ khác góp ý , sửa, giáo viên khái như bị thiên nhiên bủa vây, bị
quát kiến thức lại

nhấn chìm giữa duềnh biển

* Hoạt động 4

mênh mông ấy. Kiều cảm thấy

-Nêu nội dung chính và ý nghĩa nghệ thuật của hãi hùng lo sợ…
văn bản?

Tổng kết

4. Củng cố


- Nghệ thuật

5. Dặn dò

- Nội dung

Học thuộc lòng văn bản, phân tích 8 câu thơ III. Luyện tập
cuối, soạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga BT1, BT2, phiếu học tập

23


24


IV.KẾT QUẢ THỰC HIỆN:

Những giải pháp trên đây tôi đã tiến hành thường xuyên. Tuy nhiên kết quả đạt
được chưa cao. Bởi thay đổi nhận thức, thói quen đâu phải việc làm một sớm
một chiều. Nhất là hiện nay, học sinh thường thích ngồi quán điện tử hơn là đọc
sách, thích đọc truyện tranh hơn là đọc một tác phẩm văn chương. Dù vậy, nhờ
các biện pháp ấy mà tình hình học văn ở lớp tôi đã được cải thiện nhiều.Qua
kiểm tra tôi thấy:
1. Việc soạn bài, học bài ở nhà của học sinh có hiệu quả hơn. Đa số
học sinh trong lớp đã ý thức được việc soạn bài trước khi đến lớp. Kiểm tra vở
soạn của các em, tôi rất mừng khi hiện tượng chép bài soạn, hiện tượng chép bài
đối phó đã giảm rất nhiều
2. Kiểm tra miệng: Tỉ lệ học sinh thuộc bài khoảng 80 %
3. Giờ học trên lớp: Học sinh chủ động và tích cực hơn. Những câu hỏi

khó của giáo viên đưa ra học sinh tích cực tìm hiểu hơn. Khả năng diễn đạt của
học sinh trước lớp cũng có biến chuyển rõ rệt. Đã có những ý kiến khá sắc sảo
và bất ngờ.
Ví dụ: Khi dạy truyện ngắn “ Bến quê”- Nguyễn Minh Châu, tôi hỏi: Em
hiểu gì về tâm trạng của Nhĩ khi anh hỏi vợ: “ Hôm nay là ngày mấy rồi em
nhỉ ?”. Một học sinh đã phân tích như sau: Câu nói của Nhĩ chứa đầy hàm ý.
Anh hỏi nhưng không phải để biết ngày. Anh như đang ngầm nói với vợ: Anh
bệnh nặng đã lâu, khổ cho vợ con nhiều quá. Anh sốt ruột, chán nản, bi quan về
bệnh của mình, anh đang đếm ngược số ngày ngắn ngủi của cuộc đời mình…
Vì thế, nghe anh hỏi như vậy mà chị trả lời: “ Anh cứ yên tâm. Vất vả tốn kém
bao nhiêu, em và các con cũng lo cho anh được”. Câu trả lời có vẻ lạc phương
châm hội thoại, nhưng thực chất, chị hiểu điều chồng nói có ý gì.
25


×