Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

nhận thức và ứng xử của hộ nông dân đối với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên địa bàn xã tân quang, huyện bắc quang, tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 125 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
------------------

PHẠM THỊ THANH TÚ

NHẬN THỨC VÀ ỨNG XỬ CỦA HỘ NÔNG DÂN
ĐỐI VỚI RỦI RO DỊCH BỆNH TRONG CHĂN NUÔI
LỢN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ TÂN QUANG, HUYỆN BẮC
QUANG, TỈNH HÀ GIANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN


2
------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NHẬN THỨC VÀ ỨNG XỬ CỦA HỘ NÔNG DÂN ĐỐI
VỚI RỦI RO DỊCH BỆNH TRONG CHĂN NUÔI LỢN
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ TÂN QUANG, HUYỆN BẮC
QUANG, TỈNH HÀ GIANG

Sinh viên

: Phạm Thị Thanh Tú


Lớp

: KTA-K57

Chuyên ngành

: Kinh tế

Niên khóa

: 2012-2016

Giáo viên hướng dẫn

: TS. Nguyễn Tất Thắng

Hà Nội - 2016

2
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Đồng thời tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa
luận này đều được cảm ơn và tất cả các thông tin trích dẫn trong khóa luận
đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày


tháng

năm 2016

Tác giả khóa luận

Phạm Thị Thanh Tú

3


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Nhận thức và
ứng xử của hộ nông dân đối rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên địa bàn
xã Tân Quang huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang” của khóa luận này, tôi đã nhận
được sự quan tâm giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo Khoa Kinh
Tế và Phát Triển Nông Thôn – Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam; của một số
cơ quan, phòng chuyên môn của xã Tân Quang, của bạn bè và những người thân
trong gia đình. Nhờ thế đến nay, khóa luận của tôi đã được hoàn thành.
Nhân dịp này, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Kinh
Tế và Phát Triển Nông Thôn – Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam; Đặc biệt
tôi xin chân thành cảm ơn Thầy – TS Nguyễn Tất Thắng – Người đã giúp đỡ
tôi rất tận tình, tỉ mỉ và chu đáo về chuyên môn trong quá trình tôi thực hiện
nghiên cứu đề tài và Thầy cũng là người định hướng cho tôi hướng đi đúng
đắn trong quá trình nghiên cứu để tôi có được kết quả khóa luận này. Đồng
thời, tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo các phòng ban chuyên môn UBND
huyện Bắc Quang, xã Tân Quang và người dân tại các khu, đặc biệt là khu
Nghĩa Tân và khu Xuân Hòa đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình thực tập tại địa phương. Đồng cảm ơn bạn bè và gia đình đã
luôn bên tôi động viên và giúp đỡ tôi.

Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn tất cả sự giúp đỡ quý báu của
các tập thể và cá nhân đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và động viên, giúp đỡ
để tôi hoàn thành bản khóa luận này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả khóa luận

Phạm Thị Thanh Tú

4


TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng là một trong những
hướng phát triển kinh tế hộ, thoát nghèo và làm giàu cho những người nông
dân nước ta hiện nay. Tuy nhiên, sản xuất chăn nuôi tiềm ẩn rất nhiều rủi ro
thua lỗ thậm chí mất trắng.Và không phải ai khác ngoài những người nông
dân là đối tượng trực tiếp phải đối mặt với những rủi ro đó.Tân Quang là một
xã nằm ở phía bắc của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Chăn nuôi lợn đang
dần trở thành ngành sản xuất chính và thu hút sự tham gia của đa số người
dân địa phương. Tuy tỷ lệ số hộ tham gia chăn nuôi lớn nhưng chăn nuôi lợn
ở xã Tân Quang vẫn còn khá nhiều hạn chế như: quy mô chăn nuôi nhỏ, chủ
yếu là chăn nuôi tận dụng,… Bên cạnh đó, trong những năm gần đây chăn
nuôi lợn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro về dịch bệnh như: tụ huyết trùng, lở mồm
long móng… Trước tình hình hiện nay thì nhận thức và ứng xử của hộ chăn

nuôi lợn với các rủi ro dịch bệnh hiện tại như thế nào?Làm thế nào để nâng
cao khả năng hiểu biết và ứng phó của hộ với các rủi ro trong chăn nuôi?
Xuất phát từ thực tế trên tôi tiến hành lựa chọn đề tài “Nhận thức
vàứng xử của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên
địa bàn xã Tân Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang”.
Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài là đánh giá thực trạng chăn nuôi
lợn, rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn, nhận thức và ứng xử của hộ nông
dân đối với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên địa bàn xã Tân Quang,
huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
khả năng nhận thức và ứng xử của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh và phát
triển chăn nuôi lợn của hộ nông dân trong thời gian tới.
Để làm rõ các mục tiêu cũng như phục vụ cho việc phân tích tôi tiến
hành nghiên cứu, điều tra 60 hộ chăn nuôi lợn ở 2 khu Nghĩa Tân và Xuân
Hòa trên địa bàn xã Tân Quang và phân theo 2 quy mô vừa, nhỏ.Số liệu điều
tra được ghi chép, tập hợp, xử lý và phân tích theo phương pháp thống kê mô tả,

5


phương pháp so sánh, phương pháp sử dụng thang đo Likert. Ngoài ra đề tài còn
sử dụng một số hệ thống chỉ tiêu như: Chỉ tiêu mô tả tình hình chăn nuôi, chỉ
tiêu phản ánh nhận thức và ứng xử của hộ, chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế
trong chăn nuôi, chỉ tiêu thể hiện rủi ro trong chăn nuôi.
Trong quá trình nghiên cứu trên địa bàn xã, kết quả nghiên cứu mà tôi
đạt được như sau:
Thực trạng chăn nuôi lợn ở các hộ nông dân trên địa xã Tân Quang, huyện
Băc Quang, tỉnh Hà Giang: Chăn nuôi tại xã đang có xu hướng tăng số hộ chăn
nuôi và tăng số đầu lợn/ 1 nhà, cho thấy rằng người chăn nuôi trên địa bàn xã đang
có xu hướng chăn nuôi QMV theo hình thức trang trại, chứ không chăn nuôi theo
hình thức nhỏ, lẻ.Chủ hộ chăn nuôi QMV có độ tuổi trung bình thấp hơn chủ hộ

của QMN. Trình độ văn hóa của chủ hộ QMV cao hơn so với QMN. Trọng lượng
xuất chuồng tăng dần theo quy mô của hộ. Những hộ chăn nuôi QMN chủ yếu vẫn
sử dụng phương thức chăn nuôi truyền thống và đang dần chuyển qua chăn nuôi
theo hình thức bán công nghiệp, công nghiệp. Còn các hộ chăn nuôi theo QMV thì
đại đa số các hộ đều chăn nuôi theo phương thức bán công nghiệp và công nghiệp.
Phần lớn các hộ chăn nuôi đều chăn nuôi lợn trong khu dân cư hoặc liền kề khu
dân cư, địa bàn xã hiện chưa có khu công nghiệp tập trung.
Tình hình dịch dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên địa bàn xã: Rủi do
dịch bệnh xảy ra với cả hai nhóm hộ chăn nuôi theo QMV và QMN. Ở cả
hai nhóm hộ đều có lợn nái, lợn con, lợn thịt mắc dịch bệnh và đều có số
con bị chết do dịch bệnh gây nên. Qua khảo sát, điều tra đại đa số các nhóm
hộ đều đánh giá bệnh lở mồm long móng và tụ huyết trùng là bệnh xảy ra
nhiều và gây hậu quả nghiêm trọng nhất. Bên cạnh đó tỷ lệ số lợn bị mắc
dịch bệnh của các nhóm hộ chăn nuôi theo QMV ít hơn các nhóm hộ chăn
nuôi theo QMN. Nguyên nhân chính là do các hộ chăn nuôi theo QMV có
nhận thức, kỹ thuật chăn nuôi và các biện pháp phòng chống rủi ro dịch
bệnh tốt hơn hộ chăn nuôi theo QMN. Ngoài ra các nhóm hộ đã biết chú
trọng đến chi phí thuốc thú y trong phòng chống dịch bệnh để đạt hiệu quả

6


sản xuất kinh doanh trong chăn nuôi lợn, tuy nhiên tỉ lệ này vẫn còn thấp và
có sự chênh lệch giữa hai nhóm hộ.
Nhận thức của hộ đối với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn ở xã:
các hộ đã nhận thức được lai giống lợn mẹ Móng Cái với bố trắng để tăng
khả năng đề kháng để tránh dịch bệnh xảy ra cho lợn nuôi. Trong thức ăn
chăn nuôi các hộ đã nhận thức được là cho ăn bán công nghiệp và công
nghiệp lợn sẽ lớn nhanh hơn, khả năng mắc dịch bệnh ít hơn so với cho ăn
tận dụng. Các hộ đã biết được tầm quan trọng của dịch vụ thú y và tìm đến

dịch vụ khi lợn bị mắc bệnh. Ngoài ra các nhóm hộ cũng đã có các nhận thức
về khả năng lây lan của dịch bệnh trong chăn nuôi lợn để có các biện pháp
phòng tránh kịp thời để giảm thiểu rủi ro thấp nhất. Tuy nhiên các nhóm hộ
mới chỉ nhận thức được một phần nào đó chứ chưa hiểu biết hết mức độ
nghiêm trọng của dịch bệnh để có các cách phòng chống đúng, tránh cho dịch
bệnh bùng phát trở lại.
Ứng xử của hộ đối với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn ở xã:
Trước những nhận thức đối với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn các
nhóm hộ đã có những ứng xử như sau: Đối với giống để chăn nuôi đại đa số
các nhóm hộ đều đều tự sản xuất giống và không muốn thay đổi họ cho rằng
con giống hiện tại là khá tốt, nếu thiếu giống chăn nuôi mới mua thêm ở
ngoài và mua ở những chỗ rõ nguồn gốc. Trong thức ăn chăn nuôi các nhóm
hộ theo QMN đang dần chuyển qua chăn nuôi theo hình thức bán công
nghiệp khi mà chăn nuôi tận dụng đem lại hiệu quả thấp và khả năng mắc
dịch bệnh của lợn cao, các nhóm hộ chăn nuôi theo QMV thì phối trộn
TĂCN và cho ăn công nghiệp để lợn lớn nhanh và có khả năng đề kháng cao
nhưng mới chỉ phối trộn theo kinh nghiệm của hộ chứ chưa làm theo hướng
dẫn của các ông ty và khuyến nông xã. Khi có dịch bệnh xảy ra ở cả hai
nhóm hộ đã có những ứng xử để giảm thiểu rủi ro, ở các nhóm hộ chăn nuôi
theo QMV có nhận thức cao hơn các nhóm hộ QMN nên các hộ sẽ gọi thú y
xã, thú y tư nhân đến để chữa khi lợn bị bệnh, khi lợn bị chết thì hộ đem đi
chôn, khi trong xã có dịch thì hộ tìm các biện pháp để phòng chống dịch

7


bệnh; còn ở các nhóm hộ chăn nuôi theo QMN khi lợn bị bệnh thì các hộ lại
bán ngay hoặc ra hiệu thuốc mua về tự chữa, khi lợn chết thì các hộ lại vứt đi
và bán với giá rẻ, khi trong xã có dịch vẫn chưa có các biện pháp để phòng
chống.

Nhìn chung các nhóm hộ đã đạt được những mặc tích cực trong cách nhận
thức và ứnn xử với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại
những hạn chế. Từ thực trạng về rủi ro dịch bệnh, cách nhận thức và ứng xử của hộ
nông dân với rủi do dịch bệnh đề ra một số giải pháp như sau: Thứ nhất, phát
triển và nâng cao chất lượng mạng lưới dịch vụ thú y công và thú y tư nhân;
Thứ hai, Tập huấn nâng cao trình độ kỹ thuật và nhận thức của người chăn
nuôi về thú y cũng như kỹ thuật chăn nuôi; Thứ ba, Quy hoạch vùng chăn
nuôi lợn tập trung; Thứ tư, Tăng cường hỗ trợ cho người chăn nuôi về bảo
hiểm chăn nuôi, vacxin phòng bệnh, quy hoạch vùng giết mổ tập trung; Thứ
năm, Nhóm giải pháp dành riêng cho từng nhóm hộ.

8


MỤC LỤC
Trang

9


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BQ

Bình quân

CN

Chăn nuôi


CC

Cơ cấu

ĐVT

Đơn vị tính

SL

Số lượng

TĂCN

Thức ăn chăn nuôi

UBND

Ủy ban nhân dân

QMN

Quy mô nhỏ

QMV

Quy mô vừa

10



DANH MỤC BẢNG
Trang

11


DANH MỤC BIỀU ĐỒ, HÌNH, HỘP
Trang

12


PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng là một trong những
hướng phát triển kinh tế hộ, thoát nghèo và làm giàu cho những người nông
dân nước ta hiện nay. Đặc biệt trong tình hình diện tích đất canh tác nông
nghiệp hạn hẹp và ngày càng giảm đi do tốc độ của đô thị hóa. Người nông
dân bị mất đất canh tác cho việc xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp
trong khi hầu hết họ không có trình độ và tay nghề để chuyển sang những
ngành nghề phi nông nghiệp khác. Do đó, việc đầu tư vào chăn nuôi là hoàn
toàn đúng đắn và hợp lý. Tuy nhiên, sản xuất chăn nuôi tiềm ẩn rất nhiều rủi
ro thua lỗ thậm chí mất trắng.Và không phải ai khác ngoài những người nông
dân là đối tượng trực tiếp phải đối mặt với những rủi ro đó. Khi có những rủi
ro thì người nông dân sẽ phải có những hiểu biết đúng và tìm cách đối phó,
hạn chế những tác động từ rủi ro mang lại, hay gọi cách khác đó là nhận thức
và ứng xử của hộ với rủi ro.
Trên thế giới nghiên cứu rủi ro trong nông nghiệp đã được các nước

phát triển quan tâm nhiều vào đầu thế kỷ XX, phát triển mạnh vào những
thập kỷ 70 và 80, đặc biệt là ở Mỹ, Australia, EU, Canada và một số nước
khác. Nghiên cứu rủi ro trong nông nghiệp đang chuyển dần sang các nước
đang phát triển như Ấn Độ, Trung Quốc,… vào những năm cuối của thế kỷ
XX (Anderson, J.R. and Dillon, J.L, 1992). Các nghiên cứu rủi ro của các
nước tập trung vào các loại rủi ro như sự biến động của thị trường, tác động
qua lại và ảnh hưởng tổng hợp của các loại rủi ro, các chiến lược giảm thiểu
rủi ro và vai trò của chính phủ…
Tính cho đến thời điểm hiện tại, các nghiên cứu về rủi ro trong nông
nghiệp Việt Nam nói chung và các nghiên cứu đặc thù về rủi ro trong ngành
chăn nuôi lợn nói riêng còn rất thiếu và yếu. Đáng kể mới chỉ có các nghiên
cứu của S. Boqvist và cộng sự (2002); Kristen Van Reeth (2007); Joerg
13


Henning (2008).Các nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào cơ chế phát sinh
rủi ro một số bệnh dịch cụ thể đối với người chăn nuôi.Fahrion và cộng sự
(2010) tuy bước đầu xem xét mức độ rủi ro của chuỗi cung ứng thịt lợn
nhưng chỉ dừng tại quy mô rất nhỏ, chỉ là một trường hợp nghiên cứu điển
hình. Bên cạnh đó, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ xem xét tác động và các
biện pháp xử lý rủi ro do bệnh dịch chứ chưa đề cập đến nhận thức và ứng xử
của người chăn nuôi khi gặp phải rủi ro.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về nhận thức và ứng xử của hộ nông dân với
rủi ro trong sản xuất nông nghiệp nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng còn
hạn chế. Hiện nay, mới chỉ có một số nghiên cứu tập trung về phân tích rủi
ro, nghiên cứu rủi ro để thực hiện bảo hiểm nông nghiệp,… và có một số
công ty, doanh nghiệp tham gia vào bảo hiểm cho một số ngành nông nghiệp
Việt Nam nhưng không thành công.
Hiện tại nhà nước có rất nhiều chính sách hỗ trợ người nông dân nuôi
lợn như về thú y, khuyến nông, vốn, kỹ thuật, giống, thị trường, tiêm vacxin

phòng và chữa bệnh,… Tuy nhiên những biện pháp này chỉ giảm được một
phần rất nhỏ để chống lại rủi ro mà người dân gặp phải, và nó thường mang
tính khắc phục bị động hơn là chủ động hạn chế ngay từ ban đầu, chứ chưa
tập trung vào nâng cao năng lực và khả năng ứng phó của hộ nhằm hạn chế
tác động của rủi ro.
Tân Quang là một xã nằm ở phía bắc của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang.Đời sống người dân ở đây chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là
chính. Chăn nuôi lợn đang dần trở thành ngành sản xuất chính và thu hút sự
tham gia của đa số người dân địa phương. Tuy tỷ lệ số hộ tham gia chăn nuôi
lớn nhưng chăn nuôi lợn ở xã Tân Quang vẫn còn khá nhiều hạn chế như:
quy mô chăn nuôi nhỏ, chủ yếu là chăn nuôi tận dụng,… Bên cạnh đó, trong
những năm gần đây chăn nuôi lợn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro về dịch bệnh như:
tụ huyết trùng, lở mồm long móng… Trước tình hình hiện nay thì nhận thức
và ứng xử của hộ chăn nuôi lợn với các rủi ro dịch bệnh hiện tại như thế nào?
14


Làm thế nào để nâng cao khả năng hiểu biết và ứng phó của hộ với các rủi ro
trong chăn nuôi?
Xuất phát từ thực tế trên tôi tiến hành lựa chọn đề tài “Nhận thức
vàứng xử của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên
địa bàn xã Tân Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang”.
1.2Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng chăn nuôi lợn, rủi ro dịch bệnh trong
chăn nuôi lợn, nhận thức và ứng xử của hộ nông dân đối với rủi ro dịch bệnh
trong chăn nuôi lợn trên địa bàn xã Tân Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng nhận thức và ứng
xử của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh và phát triển chăn nuôi lợn của hộ
nông dân xã Tân Quang trong thời gian tới.

1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về rủi ro dịch bệnh,
nhận thức và ứng xử của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi
lợn;
- Đánh giá nhận thức và ứng xử của hộ về rủi ro dịch bệnh trong chăn
nuôi lợn và thái độ của hộ với rủi ro trong chăn nuôi lợn của các hộ nông dân
ở xã Tân Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng nhận thức và ứng xử
của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn nhằm phát triển
chăn nuôi lợn ở xã Tân Quang trong thời gian tới.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn là gì?
Thế nào là nhận thức của người chăn nuôi với rủi ro dịch bệnh trong
chăn nuôi lợn?
Thế nào là ứng xử của người chăn nuôi với rủi ro dịch bệnh trong
chăn nuôi lợn?
15


Chăn nuôi lợn ở xã Tân Quang trong những năm qua diễn ra như thế
nào?
Nhận thức của hộ về rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn?
Ứng xử của hộ với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn?
Làm thế nào để nâng cao khả năng hiểu biết và ứng phó của người
chăn nuôi lợn với rủi ro dịch bệnh?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Các hoạt động chăn nuôi lợn; rủi ro dịch bệnh xảy ra trong chăn nuôi
lợn,nhận thức vàứng xử của nông dân chăn nuôi lợn đối với rủi ro dịch bệnh,
công tác quản lý rủi ro dịch bệnh của các hộ chăn nuôi;

- Các hộ nông dân chăn nuôi lợn trên địa bàn xã Tân Quang huyện Bắc
Quang tỉnh Hà Giang.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung liên quan
đến chăn nuôi lợn, rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn của các hộ nông dân ,
nhận thức và ứng xử của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi
lợn trên địa bàn xã Tân Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang
- Phạm vi về không gian: đề tài tiến hành trên địa bàn xã Tân Quang,
huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang
- Phạm vi về thời gian:
Số liệu thứ cấp về chăn nuôi, rủi ro, rủi ro dịch bệnh, nhận thức và
hành vi ứng xử của hộ nông dân chăn nuôi lợn được thu thập từ năm 2013–
2015.
Số liệu sơ cấp được tiến hành điều tra trong năm 2016
Thời gian nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/2016 – 05/2016

16


PHẦN II
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHẬN THỨC VÀ ỨNG XỬ
CỦA HỘ NÔNG DÂN VỚI RỦI RO DỊCH BỆNH TRONG CHĂN
NUÔI LỢN
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1 Lý luận về nhận thức và ứng xử
2.1.1.1 Lý luận về nhận thức
 Khái niệm về nhận thức
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá
trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con
người, có tính tích cực, năng động, sang tạo, trên cơ sở thực tiễn.

Theo “ Từ điển bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện
chứng của sự phản ánh của thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ
đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Tóm lại: Nhận thức là một quá trình phức tạp, nó được bắt đầu từ việc
xem xét hiện tượng một cách trực tiếp, tích cực, sáng tạo và dựa trên cơ sở
thực tiễn. Theo đó, nhận thức không phải là một quá trình thuần túy trừu
tượng hay thuần túy cụ thể. Nó là sự phản ánh vào ý thức những hoạt động
thực tiễn của con người, dưới dạng ý niệm và biểu tượng. Vượt qua ngoài
giới hạn của hoạt động thực tiễn sẽ không có quá trình nhận thức.
 Đặc điểm của nhận thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức của con
người có các đặc điểm sau: Nhận thức là quá trình tư duy của con người đi từ
cái riêng đến cái chung, từ hiện tượng đến bản chất.
Nhận thức cần phải đi từ cái cá biệt đến cái phổ biến, từ cái riêng đến
cái chung, từ hiện tưởng đến bản chất. Bởi vì, có như vậy con người mới đạt
tới sự hiểu biết đúng đắn, đầy đủ, chính xác về bản chất và quy luật của các

17


sự vật, hiện tượng cũng như của thế giới khách quan noi chung. Nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật cũng cho thấy, trong thế
giới, các sự vật, hiện tượng không phải tồn tại biệt lập với nhau, mà trong
mối liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau, cái cá biệt chính là một bộ phận của
cái phổ biến và ngược lại, cái phổ biến tự thể hiện mình thông qua cái cá biệt.
Chẳng hạn, không thể hiểu được bản chất của một cá nhân nếu không tìm
hiểu bản chất của những cá nhân khác, cũng như mối quan hệ của nó đối với
cộng đồng.
Quá trình tư duy đi từ cái riêng đến cái chung, từ hiện tượng đến bản
chất giúp con người có thể rút ra những đặc tính chung của một lớp sự vật,

qua đó đúc kết thành các khái niệm, phạm trù. Mác đã vận dụng đặc điểm
này của nhận thức để nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người. Qua
sự khảo sát tiến trình vận động, phát triển lịch sử của từng dân tộc ( quốc gia
) riêng biệt, từng thời đại riêng biệt. Mác đã đi tới thiết lập hệ thống các phạm
trù kinh tế- xã hội, như phương thức sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, hình thái kinh tế- xã hội.
Đi từ trừu tượng đến cụ thể là cách cải biến về mặt lí luận khoa học
những tu liệu của trực quan thành những khái niệm, phạm trù và là phương
pháp vận dụng của tư duy đi từ một hiện tượng thực tế đã được ghi lại trong
biểu tượng hết sức trừu tượng xác định của nó tới một hiện tượng khác thực
tế đã có.
Đi từ trừu tượng đến cụ thể chính là yêu cầu của logic biện
chứng.Phương pháp đó cho phép chủ thể nhận thức thâm nhập vào bản chất
của đối tượng nghiên cứu, hình dung được tất cả các mặt và quan hệ tất yếu
của nó với thế giới xung quanh. Theo nguyên tắc này thì nhận thức phải bắt
đầu từ cái cụ thể cảm tính, từ cái đặc tính hay khái niệm trừu tượng phản ánh
những mặt, những quan hệ chung đơn giản nhất của khách thể nhận thức, rồi

18


từ đó đi đến cái cụ thể trong tư duy, tức là những khái niệm, pham trù chung
nhất.

 Các cấp độ của nhận thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhận thức là một quá trình
biện chứng diễn ra qua hai giai đoạn: nhận thức cảm tính (trực quan sinh
động) và nhận thức lý tính ( tư duy trừu tượng).
Nhận thức cảm tính có được nhờ sự hoạt động của các giác quan nhận
biết của con người, như thính giác, thị giác, xúc giác. Nó được tiến hành

thông qua ba hình thức nhận biết quan trọng là cảm giác, tri giác, biểu
tượng.Cảm giác là hình thức phản ánh đầu tiên của sự phản ánh hiện thực
khách quan và là nguồn gốc của tri thức. Theo Lênin, cảm giác tư tưởng, ý
thức là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức theo một cách thức đặc
biệt.
Nhận thức cảm tính cung cấp những hiểu biết ban đầu về đối tượng
nhận thức, nhưng những hiểu biết đó mới chỉ dừng lại ở những nét bề ngoài
của đối tượng. Từ những tri thức trực quan, cảm tính bề ngoài đó, người ta
chưa thể phân biệt và xác định được cái bản chất và không bản chất, cái tất
nhiên và ngẫu nhiên, tính phổ biến và cá biệt. Hơn nữa nhận thức cảm tính
luôn có giới hạn nhất định, vì sự hoạt động của các giác quan nhận biết không
thể lan rộng ra ngoài ngưỡng cảm giác. Trên thực tế, con người không thể
nhìn thấy mọi không gian, màu sắc, nghe được mọi âm thanh, ngửi và nếm
được hết tất cả mùi vị hay tiếp xúc được với những khối lượng cực lớn, cực
nhỏ. Trong khi đó, nhiệm vụ của nhận thức là phải nắm bắt bản chất của đối
tượng trong tính tất yếu và tính quy luật của nó.Để làm được như vậy, nhận
thức phải chuyển qua một giai đoạn, trình độ cao hơn – nhận thức lý tính.

19


Nhận thức lý tính có được nhờ sự hoạt động của tư duy trừu tượng, nó được
tiến hành qua ba hình thức: khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những
mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một lớp các sự vật hiện
thượng nào đó. Nó là dữ liệu cơ bản tạo thành nội dung của ý thức, tư duy
con người, đồng thờil à những viên gạch xây nên lâu đài của tri thức khoa
học nhân loại. Phán đoán là sự liên kết các khái niệm thành một mệnh đề có
cấu trúc ngôn ngữ chặt chẽ nhằm khẳng định hay phủ định một thuộc tính,
mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan. Suy luận phản ánh quá trình

vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến việc nhận thức những cái
chưa biết một cách gián tiếp, dựa trên cơ sở sử dụng những tri thức đã có.
Như vậy, nhận thức hiểu theo nghĩa chung nhất là sự hiểu biết của con
người với hiện thực khách quan, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc
con người về hiện thực khách quan. Bản chất nhận thức là quá trình phản ánh
biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con
người trên cơ sở thực tiễn.
 Vai trò của nhận thức
Con người hơn các loại vật là trước khi làm việc đã có nhận thức, đã
xác định được mục đích hoạt động.
Như vậy, nhận thức có vai trò hết sức quan trọng đối với cuộc sống và
hoạt động của con người. Nhận thức là thành phần không thể thiếu trong sự
phát triển của con người.
Nhận thức là cơ sở để con người nhận biết thế giới và hiểu biết thế giới
đó, từ đó con người có thể tác động vào thế giới đó một cách phù hợp nhất,
để đem lại hiệu quả cao nhất cho con người.

20


Xem xét quá trình phát triển một cá thể của con người, thì một đứa trẻ
khi được sinh ra, nếu nó không nhận biết được thế giới khách quan, thì đứa
trẻ đó sẽ không có hiểu biết và không có nhận thức.
Nhận biết đi từ đơn giản, nhận biết đi từ từng thuộc tính đơn lẻ bề
ngoài của sự vật hiện tượng qua mỗi lần tiếp xúc. Càng tiếp xúc với nhiều sự
vật hiện tượng càng nhận biết được nhiều các thuộc tính khác nhau.
Sau đó, con người biết hợp nhất các thuộc tính đơn lẻ lại với nhau,
thành một tổng thuộc tính chung của sự vật hiện tượng, xếp chúng vào thành
một nhóm, tìm ra cái chung bản chất của một nhóm sự vật hiện tượng.
Khi đó, nhận thức của con người được mở rộng hơn, tiến lên một bước

cao hơn và đã tạo ra những cấu tạo tâm lý mới.Cũng khi đó, nhận thức của
con người đã đi đến tư duy trừu tượng, tư duy khái quát.
Tóm lại, nhận thức là cơ sở, là nền tảng cho mọi sự hiểu biết của con
người, nếu không có nhận thức thì con người sẽ mãi mãi ở trạng thái của một
đứa trẻ sơ sinh. Nhờ có nhận thức mà con người mới có thể cải tạo được thế
giới xung quanh và cao hơn nữa là con người có thể cải tạo được chính bản
thân mình, phục vụ được nhu cầu của chính mình.
2.1.1.2 Lý luận về ứng xử
Theo từ điển tiếng Việt, ứng xử của các cá nhân là thái độ, hành động của các
cá nhân trước một sự việc cụ thể. Thông thường thái độ và hành động đúng
đắn của các cá nhân sẽ giúp cho việc giải quyết công việc một cách hợp lý,
mang lại lợi ích cho cá nhân đó.
Theo Lê Thị Bừng và Hải Vang (1997), ứng xử chính là sự phản
ứng của con người đối với sự tác động của người khác, sự vật, hoặc điều
kiện ngoại cảnh,… đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể
hiện ở chỗ con người không chủ động giao tiếp mà chủ động trong phản
ứng có sự lựa chọn, có tính toán, thể hiện qua thái độ, hành vi cử chỉ, cách

21


nói năng, tùy thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người,
nhằm đạt kết quả giao tiếp nhất định. Ứng xử còn có thể được hiểu là hành
động ra quyết định của con người trước một tình huống.
Trong từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê, 1995), ứng xử được định nghĩa là
có thái độ, hành động, lời nói thích hợp trong việc ứng xử.
Hành vi ứng xử của người sản xuất có thể hiểu thái độ ứng xử, khả
năng ra quyết định và hành động của hộ nông dân phù hợp hay không phù
hợp mang lại hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Các yếu
tố này bao gồm cả yếu tố nội tại bên trong hộ và các yếu tố bên ngoài đem

lại. Trong điều kiện chăn nuôi lợn thì ứng xử của hộ nông dân với rủi ro trong
quá trình chăn nuôi chính là quyết định trong chăn nuôi lợn của hộ. Các quyết
định bao gồm:
- Quyết định tăng hay giảm quy mô chăn nuôi;
- Quyết định tăng cường đầu tư hay giảm đầu tư: (chăn nuôi công
nghiệp, bán công nghiệp, hay tận dụng);
- Lựa chọn thay đổi nguồn cung cấp đầu vào;
- Quyết định thay đổi trong tiêu thụ sản phẩm.
2.1.2 Rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi
2.1.2.1 Không chắc chắn và rủi ro
 Không chắn chắn
Trong môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội của người nông dân có rất
nhiều điều không chắc chắn xảy ra gây bất lợi đối với mỗi nông dân như
thiên tai, giảm giá nông sản, tăng giá đầu vào, bệnh tật,…. Các sự kiện đó
xảy ra với những xác suất mà không biết trước được. Người ta gọi tình trạng
đó là không chắc chắn (Đoàn Thị Hồng Vân, 2002).
Theo TS. Bùi Thị Ga, không chắc chắn là các tình trạng không thể gắn
xác suất với việc xảy ra các sự kiện. Sự không chắc chắn đề cập theo ý nghĩa
mô tả đặc điểm môi trường kinh tế mà các nông hộ phải đương đầu. Sự

22


không chắc chắn chỉ được xem như là một vấn đề đối với sản xuất nông
nghiệp hơn là các ngành khác và được thể hiện trên các dạng chủ yếu sau:
- Sự không chắc chắn về sản lượng: nguyên nhân gây ra sự không chắc
chắn là do gặp phải thiên tai. Thiên tai là những tác động có hại đối với sản
xuất nông nghiệp mà khó có thể dự đoán được như bệnh dịch, lũ lụt, nắng
hạn,… Thiên tai cũng có thể được mô tả như là sự không chắc chắn về năng
suất và sản lượng của đối tượng nuôi. Khả năng chống lại thiên tai phụ thuộc

vào nhiều yếu tố như kinh nghiệm, kiến thức, nguồn lực, sự hợp tác trong
cộng đồng,… Điều này dẫn đến ảnh hưởng của cùng một loại thiên tai đến
các vùng khác nhau, hay ảnh hưởng đến các hộ khác nhau cũng khác nhau.
Mức độ ảnh hưởng này là một trong những nguyên nhân gây nên sự khác biệt
về sản lượng trong sản xuất.
- Sự không chắc chắn về giá cả: do chu kỳ của sản xuất nông nghiệp
kéo dài nên khi lựa chọn một loại cây trồng hoặc loại gia súc nào đó tại thời
điểm ra quyết định người ta khó xác định được giá thị trường vào lúc đó của
sản phẩm để bán trên thị trường là bao nhiêu. Điều này đặc biệt khó khăn đối
với các cây trồng và vật nuôi lâu năm như cà phê, chè, cao su, trâu, bò,…
những đối tượng nuôi này phải mất thời gian kiến thiết cơ bản nhất định sau
đó mới cho thu hoạch sản phẩm. Vấn đề càng trầm trọng hơn đối với các
nước chậm phát triển, nơi có thị trường không hoàn thiện và thiếu thông tin.
Với thời gian như vậy đủ để tác động đến các yếu tố quyết định cung và cầu
của sản phẩm này trên thị trường. Ảnh hưởng này đến nông hộ thể hiện qua
việc giá cả sản phẩm khi bán trên thị trường với giá cả được kỳ vọng trước
khi sản xuất là rất khác biệt.
Hậu quả của nó có thể được mùa nhưng doanh thu từ sản phẩm thấp do
sản lượng tăng nhưng giá giảm lớn hơn mức tăng của sản lượng, hoặc sản
lượng thấp nhưng giá cả lại cao đủ để làm cho doanh thu tăng lên. Điều đặc
biệt quan trọng thể hiện đa số thị trường nông sản là thị trường canh tranh
hoàn hảo, giá cả là một biến ngoại sinh trong việc ra quyết định của nông hộ.
23


Chính vì điều này, sự can thiệp của Nhà nước thông qua lượng cầu, can thiệp
giá đối với thị trường nông sản khi có sự biến động quá lớn là cần thiết nhằm
ổn định đời sống và sản xuất đối với ngành này.
- Không chắc chắn về xã hội: liên quan đến việc kiểm soát các nguồn
lực sản xuất và sự lệ thuộc của một số nông dân vào những người khác. Điều

này xảy ra khi không có sự công bằng trong quyền sở hữu đất đai và các
nguồn lực khác. Sự không chắc chắn về xã hội do tính chất của xã hội quyết
định nên nó có mức độ khác nhau giữa các vùng hoặc các nước khác nhau.
- Không chắc chắn về con người: không ai có thể biết trước được sức
khỏe của mình cũng như các thành viên gia đình trong tương lai. Vì vậy, điều
này cũng được coi là sự không chắc chắn về con người.
Những sự không chắc chắn như trên dẫn đến người nông dân không
tình nguyện chấp nhận sự đổi mới kỹ thuật, ngại đầu tư cho sản xuất hoặc
tiếp nhận một cách chậm chạp để tăng sự thích nghi với những điều không
chắn chắn. Điều đó cũng làm tăng thêm sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội
nông thôn.
 Rủi ro
Theo PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân cho đến nay chưa có một định
nghĩa thống nhất về rủi ro, những trường phái khác nhau, tác giả khác nhau
thì đưa ra những định nghĩa về rủi ro khác nhau. Những định nghĩa về rủi ro
rất đa dạng và phong phú.Tuy nhiên có thể chia thành hai trường phái:
Trường phái Truyền thống (hay còn gọi là trường phái tiêu cực) và trường
phái Trung hòa.
Trường phái truyền thống: Theo cách nghĩ truyền thống thì “rủi ro là
những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy
hiểm, sự khó khăn hay những vấn đề không chắc chắn có thể xảy ra cho con
người”. Theo trường phái này có nhiều định nghĩa như:

24


− “Rủi ro là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến” (Từ điển Tiếng Việt,
1995)
− “Rủi ro (đồng nghĩa với rủi) là sự không may” (GS. Nguyễn Lân, Từ điển Từ
và ngữ Việt Nam, 1998)

− “Rủi ro là gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn, thiệt hại…”(Từ điển Oxford)
− Một số từ điển khác đưa ra khái niệm tương tự như : “Rủi ro là sự bất trắc
gây ra mất mát , hư hại” hay “ rủi ro là yếu tố liên quan đến nguy hiểm, sự
khó khăn hoặc điều không chắc chắn”
− Trong lĩnh vực kinh doanh tác giả Hồ Diệu định nghĩa: “Rủi ro là sự tổn thất
về tài sản hoặc là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến”
− Hoặc “Rủi ro là sự bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp”
Trường phái trung hòa: Trường phái này có một số định nghĩa như sau:
− “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được” (Frank Knight)
− “Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến sự xuất hiện những biến đổi không
mong đợi” (Allan Willett).
− “Rủi ro là một tổng hợp ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác suất”
(Irving Preffer).
− “Rủi ro là giá trị và kết quả mà hiện thời chưa biết đến”
− Rủi ro là sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả. Rủi ro có thể xuất hiện trong
hầu hết mọi hoạt động của con người. Khi có rủi ro người ta không thể dự
đoán được chính xác kết quả. Sự hiện diện của rủi ro gây nên sự bất ổn định.
Nguy cơ rủi ro phát sinh bất cứ khi nào một hành động dẫn đến khả năng
được hoặc mất không thể đoán trước (C. Arthur William, Jr. Smith).
Vậy theo trường phái trung hòa thì “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo
lường được”. Rủi ro vừa mang tính tiêu cực vừa mang tính tích cực.Rủi ro có
thể mang đến những tổn thất, mất mát, nguy hiểm…cho con người nhưng
cũng có thể mang đến những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, nhận

25


×