Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Ứng xử của hộ nông dân đối với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện đô lương, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.71 MB, 140 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
***





NINH XUÂN TRUNG





ỨNG XỬ CỦA HỘ NÔNG DÂN ĐỐI VỚI RỦI RO
DỊCH BỆNH TRONG CHĂN NUÔI LỢN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN





LUẬN VĂN THẠC SĨ










HÀ NỘI, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
***





NINH XUÂN TRUNG



ỨNG XỬ CỦA HỘ NÔNG DÂN ĐỐI VỚI RỦI RO
DỊCH BỆNH TRONG CHĂN NUÔI LỢN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN




Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 62 01 15




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM VĂN HÙNG



HÀ NỘI, 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng toàn bộ số liệu và kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực và chưa hề được bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được ghi rõ
nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2014
Tác giả




Ninh Xuân Trung
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi
còn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể trong và
ngoài Học viện.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh
tế & Phát triển nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã hết lòng giúp
đỡ và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học
tập tại Học viện.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo PGS.TS.
Phạm Văn Hùng, giảng viên Bộ môn Phân tích định lượng, Khoa Kinh tế &
Phát triển nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập và hoàn thiện đề tài.
Tôi cũng xin cảm ơn dự án LPS/2010/047, “Giảm thiểu dịch bệnh và
cải thiện an toàn thực phẩm trong chuỗi giá trị lợn đối với các tác nhân
quy mô nhỏ tại Việt Nam” đã tạo điều kiện cho tôi được trích một phần số
liệu từ dự án để làm luận văn của mình.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các chủ trang trại, các hộ
chăn nuôi, cán bộ và nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã
động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2014
Tác giả


Ninh Xuân Trung

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii



MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i

LỜI CẢM ƠN ii

MỤC LỤC iii

DANH MỤC BẢNG vi

DANH MỤC BIỂU ĐỒ viii

DANH MỤC HÌNH VÀ HỘP ix

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT x

PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1

1.1

Tính cấp thiết của đề tài 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2

1.2.1 Mục tiêu chung 2

1.2.2 Mục tiêu cụ thể 3

1.3 Câu hỏi nghiên cứu 3


1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu 3

1.4.2 Phạm vi nghiên cứu 3

PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ỨNG XỬ CỦA HỘ
NÔNG DÂN VỚI RỦI RO DỊCH BỆNH TRONG CHĂN NUÔI
LỢN 5

2.1 Cơ sở lý luận 5

2.1.1 Lý luận về ứng xử 5

2.1.2 Rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi 6

2.1.3 Ứng xử của hộ nông dân với rủi ro và rủi ro dịch bệnh 16

2.1.4 Nội dung nghiên cứu ứng xử của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh 18

2.1.5 Phân tích các quyết định của nông hộ khi xảy ra rủi ro 20

2.1.6 Quản lý rủi ro của hộ nông dân 25

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

2.1.7 Các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi ứng xử của hộ nông dân 26

2.1.8 Các dịch bệnh thường gặp trong chăn nuôi lợn 29


2.2 Cơ sở thực tiễn 35

2.2.1 Rủi ro trong nông nghiệp và chăn nuôi ở Việt Nam 35

2.2.2 Một số chủ trương, chính sách có liên quan đến chăn nuôi lợn
và giảm thiểu rủi ro trong chăn nuôi lợn ở Việt Nam 37

PHẦN 3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 40

3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 40

3.1.1 Điều kiện tự nhiên 40

3.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội 42

3.2 Phương pháp nghiên cứu 50

3.2.1 Phương pháp thu thập số liệu, thông tin 50

3.2.2 Phương pháp xứ lý số liệu, thông tin 52

3.2.3 Phương pháp phân tích số liệu, thông tin 52

3.2.4 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 55

PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 56

4.1 Tình hình dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện
Đô Lương 56


4.1.1 Tổng quan chăn nuôi lợn ở Đô Lương 56

4.1.2 Thực trạng dịch bệnh trong chăn nuôi lợn ở Đô Lương 57

4.1.3 Hỗ trợ phòng và chống dịch bệnh trong chăn nuôi lợn của
chính quyền địa phương 70

4.2 Nhận biết và thái độ của hộ chăn nuôi đối với rủi ro dịch bệnh
trong chăn nuôi lợn ở Đô Lương 72

4.2.1 Nhận biết của các hộ chăn nuôi lợn về rủi ro dịch bệnh 72

4.2.1.1 Hiểu biết về giống và dịch bệnh trong chăn nuôi lợn 72

4.2.1.2 Hiểu biết của hộ về thức ăn chăn nuôi và dịch bệnh 75

4.2.1.3 Nhận thức của hộ về dịch vụ thú y và chất lượng dịch vụ thú y
ở địa phương 77

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

4.2.1.4 Thực hành chăn nuôi của hộ 79

4.2.1.5 Nhận thức của hộ về khả năng lây lan của dịch bệnh trong
chăn nuôi lợn 80

4.2.1.6 Nhận thức về mức độ thiệt hại của dịch bệnh 82


4.2.1.7 Nhận thức của hộ về phòng bệnh trong chăn nuôi lợn 86

4.2.2 Thái độ của người chăn nuôi với rủi ro trong chăn nuôi lợn 89

4.3 Ứng xử với rủi ro dịch bệnh của hộ 94

4.3.1 Ứng xử của hộ trong việc mua giống 94

4.3.2 Ứng xử của hộ trong sử dụng thức ăn chăn nuôi 97

4.3.3 Ứng xử của hộ khi có dịch bệnh xảy ra trong chăn nuôi 99

4.3.4 Ứng xử trong thực hành chăn nuôi của hộ 102

4.3.5 Ứng xử để ngăn chặn lây bệnh từ lợn sang người 103

4.4 Giải pháp nâng cao khả năng ứng xử của hộ nông dân và hạn
chế rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn ở huyện Đô Lương 105

4.4.1 Quan điểm đề xuất giải pháp 105

4.4.2 Các giải pháp 108

4.4.2.1 Tập huấn nâng cao trình độ kỹ thuật và nhận thức của người
chăn nuôi về thú y và kỹ thuật chăn nuôi 108

4.4.2.2 Quy hoạch vùng chăn nuôi 111

4.4.2.3 Phát triển và nâng cao chất lượng mạng lưới dịch vụ thú y
công và thú y tư nhân 114


4.4.2.4 Tăng cường công tác hỗ trợ cho người chăn nuôi 115

4.4.2.5 Nhóm giải pháp riêng cho từng nhóm hộ 117

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 119

5.1 Kết luận 119

5.2 Kiến nghị 122

TÀI LIỆU THAM KHẢO 123

PHỤ LỤC 126

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi


DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Loại rủi ro trong nông nghiệp và cơ chế tác động 14

Bảng 2.2 Các ứng xử của nông hộ 17

Bảng 2.3 Cơ chế và công cụ ứng phó rủi ro 25

Bảng 3.1 Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đô Lương qua 3 năm,
2011 – 2013 43


Bảng 3.2 Tình hình dân số và lao động của huyện Đô Lương qua 3 năm,
2011 – 2013 45

Bảng 3.3 Tình hình phát triển kinh tế của huyện Đô Lương qua 3 năm,
2011 – 2013 47

Bảng 3.4 Hệ thống cơ sở hạ tầng của huyện năm 2013 49

Bảng 4.1 Tình hình chăn nuôi lợn huyện Đô Lương 56

Bảng 4.2 Các bệnh thường gặp và mức độ phổ biến thiệt hại trong chăn
nuôi lợn 58

Bảng 4.3 Thông tin chung về các hộ điều tra 59

Bảng 4.4 Tình hình dịch bệnh trong chăn nuôi lợn ở Đô Lương 61

Bảng 4.5 Các loại bệnh xảy ra trong chăn nuôi lợn nái 62

Bảng 4.6 Các loại bệnh xảy ra trong chăn nuôi lợn con 63

Bảng 4.7 Các loại bệnh xảy ra trong chăn nuôi lợn choai 64

Bảng 4.8 Chi phí thú y trong chăn nuôi lợn của hộ 67

Bảng 4.9 Doanh thu và chi phí trong chăn nuôi lợn của hộ 69

Bảng 4.10 Tổng hợp hỗ trợ lợn bị dịch tai xanh ở huyện Đô Lương 70

Bảng 4.11 Tình hình sử dụng giống lợn trong chăn nuôi của hộ 72


Bảng 4.12 Tình hình mua giống trong chăn nuôi lợn của hộ 74

Bảng 4.13 Nhận thức của hộ về thú y trong chăn nuôi lợn 77

Bảng 4.14 Đánh giá của hộ về dịch vụ thú y ở địa phương 78

Bảng 4.15 Hiểu biết của hộ về đường lây lan của dịch bệnh 81

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

Bảng 4.16 Hiểu biết của hộ về phạm vi lây lan của dịch bệnh 82

Bảng 4.17 Nhận thức của hộ về mức độ thiệt hại của các loại bệnh 83

Bảng 4.18 Các bệnh ở lợn có thể lây sang người 84

Bảng 4.19 Ý kiến của hộ về ăn thịt lợn bị bệnh có thể lây sang người 86

Bảng 4.20 Quy trình vacxin trong chăn nuôi lợn 86

Bảng 4.21 Tình hình sử dụng vacxin phòng bệnh cho lợn 87

Bảng 4.22 Phương pháp phòng bệnh trong chăn nuôi lợn của hộ 88

Bảng 4.23 Tình hình thu nhập của hộ chăn nuôi lợn 89

Bảng 4.24 Thái độ của các nhóm hộ với dịch bệnh trong chăn nuôi lợn 91


Bảng 4.25 Tình hình thu nhập của hộ chăn nuôi lợn phân theo thái độ đối
với rủi ro 92

Bảng 4.26 Ứng xử của hộ trong việc mua giống lợn 94

Bảng 4.27 Ứng xử của hộ trong việc sử dụng giống lợn trong chăn nuôi 95

Bảng 4.28 Ứng xử của hộ trong việc chọn giống 96

Bảng 4.29 Ứng xử của hộ trong việc sử dụng thức ăn chăn nuôi 97

Bảng 4.30 Ứng xử của hộ khi lợn bị bệnh 99

Bảng 4.31 Ứng xử của hộ khi lợn bị chết 100

Bảng 4.32 Ứng xử của hộ khi trong xã có dịch 100

Bảng 4.33 Ứng xử phòng dịch trong chăn nuôi lợn ở Đô Lương 101

Bảng 4.34 Tình hình thực hiện gối lứa trong chăn nuôi lợn ở Đô Lương 102



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1 Phân tổ quy mô chăn nuôi lợn của các hộ điều tra 51


Biểu đồ 4.1 Mức tăng trọng bình quân tháng trong chăn nuôi lợn 68

Biểu đồ 4.2 Các loại thức ăn dùng trong chăn nuôi lợn 75

Biểu đồ 4.3 Mật độ chăn nuôi lợn thịt của hộ 79

Biểu đồ 4.4 Diện tích chuồng trại chăn nuôi của hộ 80

Biểu đồ 4.5 Nhận thức của hộ về bệnh ở lợn có thể lây sang người 84

Biểu đồ 4.6 Nhận thức của hộ ăn thịt lợn bệnh có thể lây sang người 85

Biều đồ 4.7 Phân tổ ứng xử của hộ với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi
lợn ở Đô Lương 91

Biều đồ 4.8 Cơ cấu hộ chăn nuôi phân loại theo thái độ với rủi ro 91

Biều đồ 4.9 Căn cứ phối trộn thức ăn trong chăn nuôi lợn của hộ 98

Biểu đồ 4.10 Ứng xử của hộ trong việc phòng bệnh từ lợn lây sang người . 104

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ix


DANH MỤC HÌNH VÀ HỘP
Trang
Hình 2.1 Mô phỏng ứng xử của hộ nông dân với rủi ro 17


Hình 2.2 Sự lựa chọn liên quan đến rủi ro 18

Hình 4.1 Chăn nuôi lợn ở cấp nông hộ nhỏ và vừa ở Đô Lương 73

Hộp 4.1 Ý kiến của thú y xã về con giống và dịch bệnh trong chăn nuôi lợn 73



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page x

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BQ Bình quân
CN Công nghiệp
DV Dịch vụ
ĐVT Đơn vị tính
KD Kinh doanh
LĐ Lao động
NN Nông nghiệp
SX Sản xuất
TM Thương mại
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
UBND Ủy ban nhân dân




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng là một trong những hướng phát
triển kinh tế hộ, thoát nghèo và làm giàu cho những người nông dân nước ta hiện nay.
Đặc biệt trong tình hình diện tích đất canh tác nông nghiệp hạn hẹp và ngày càng giảm
đi do tốc độ của đô thị hóa. Người nông dân bị mất đất canh tác cho việc xây dựng các
khu đô thị, khu công nghiệp trong khi hầu hết họ không có trình độ và tay nghề để
chuyển sang những ngành nghề phi nông nghiệp khác. Do đó, việc đầu tư vào chăn
nuôi là hoàn toàn đúng đắn và hợp lý. Tuy nhiên, sản xuất chăn nuôi tiềm ẩn rất nhiều
rủi ro và nguy cơ thua lỗ thậm chí mất trắng. Và không phải ai khác ngoài những
người nông dân là đối tượng trực tiếp phải đối mặt với những nguy cơ và rủi ro đó.
Khi có những nguy cơ và rủi ro thì người nông dân sẽ phải tìm cách đối phó, hạn chế
những tác động từ rủi ro mang lại, hay gọi cách khác đó là ứng xử của hộ với nguy cơ
và rủi ro.
Trên thế giới nghiên cứu rủi ro trong nông nghiệp đã được các nước phát
triển quan tâm nhiều vào đầu thế kỷ XX, phát triển mạnh vào những thập kỷ 70 và
80, đặc biệt là ở Mỹ, Australia, EU, Canada và một số nước khác. Nghiên cứu rủi
ro trong nông nghiệp đang chuyển dần sang các nước đang phát triển như Ấn Độ,
Trung Quốc,… vào những năm cuối của thế kỷ XX (Anderson, J.R. and Dillon,
J.L, 1992). Các nghiên cứu rủi ro của các nước tập trung vào các loại rủi ro như sự
biến động của thị trường, tác động qua lại và ảnh hưởng tổng hợp của các loại rủi
ro, các chiến lược giảm thiểu rủi ro và vai trò của chính phủ…
Tính cho đến thời điểm hiện tại, các nghiên cứu về rủi ro trong nông nghiệp
Việt Nam nói chung và các nghiên cứu đặc thù về rủi ro trong ngành chăn nuôi lợn
nói riêng còn rất thiếu và yếu. Đáng kể mới chỉ có các nghiên cứu của S. Boqvist
và cộng sự (2002); Kristen Van Reeth (2007); Joerg Henning (2008). Các nghiên
cứu này mới chỉ tập trung vào cơ chế phát sinh rủi ro một số bệnh dịch cụ thể đối
với người chăn nuôi. Fahrion và cộng sự (2010) tuy bước đầu xem xét mức độ rủi
ro của chuỗi cung ứng thịt lợn nhưng chỉ dừng tại quy mô rất nhỏ, chỉ là một

trường hợp nghiên cứu điển hình. Bên cạnh đó, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ
xem xét tác động và các biện pháp xử lý rủi ro do bệnh dịch chứ chưa đề cập đến
ứng xử của người chăn nuôi khi gặp phải rủi ro.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

Ở Việt Nam, nghiên cứu về ứng xử của hộ nông dân với rủi ro trong sản
xuất nông nghiệp nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng còn hạn chế. Hiện nay, mới
chỉ có một số nghiên cứu tập trung về phân tích rủi ro, nghiên cứu rủi ro để thực
hiện bảo hiểm nông nghiệp,… và có một số công ty, doanh nghiệp tham gia vào
bảo hiểm cho một số ngành nông nghiệp Việt Nam nhưng không thành công.
Hiện tại nhà nước có rất nhiều chính sách hỗ trợ người nông dân nuôi lợn như về
thú y, khuyến nông, vốn, kỹ thuật, giống, thị trường, tiêm vacxin phòng và chữa bệnh,…
Tuy nhiên những biện pháp này chỉ giảm được một phần rất nhỏ để chống lại rủi ro mà
người dân gặp phải, và nó thường mang tính khắc phục bị động hơn là chủ động hạn chế
ngay từ ban đầu, chứ chưa tập trung vào nâng cao năng lực và khả năng ứng phó của hộ
nhằm hạn chế tác động của rủi ro.
Đô Lương là một huyện nằm ở phía Tây của tỉnh Nghệ An. Đời sống người
dân ở đây chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính. Chăn nuôi lợn đang dần
trở thành ngành sản xuất chính và thu hút sự tham gia của đa số người dân địa
phương. Tuy tỷ lệ số hộ tham gia chăn nuôi lớn nhưng chăn nuôi lợn ở Đô Lương
vẫn còn khá nhiều hạn chế như: quy mô chăn nuôi nhỏ, chủ yếu là chăn nuôi tận
dụng,… Bên cạnh đó, trong những năm gần đây chăn nuôi lợn tiềm ẩn rất nhiều
nguy cơ và rủi ro về dịch bệnh như: tai xanh, lở mồm long móng,… Trước tình
hình hiện nay thì ứng xử của hộ chăn nuôi lợn với các nguy cơ và rủi ro dịch bệnh
hiện tại như thế nào? Làm thế nào để nâng cao khả năng ứng phó của hộ với các rủi
ro dịch bệnh trong chăn nuôi?
Để trả lời các câu hỏi này chúng tôi tiến hành nghiên cứu chọn đề tài “Ứng
xử của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện
Đô Lương, tỉnh Nghệ An”.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung

Trên cơ sở đánh giá thực trạng chăn nuôi lợn, rủi ro dịch bệnh trong chăn
nuôi lợn và ứng xử của hộ nông dân đối với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn
trên địa bàn huyện Đô Lương, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao khả
năng ứng xử của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh và hạn chế rủi ro dịch bệnh trong
chăn nuôi lợn ở Đô Lương trong thời gian tới.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về rủi ro dịch bệnh, ứng xử và ứng
xử của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn;
- Đánh giá nhận thức của hộ về rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn và thái
độ của hộ với rủi ro trong chăn nuôi lợn của các hộ nông dân ở huyện Đô Lương,
tỉnh Nghệ An;
- Phân tích ứng xử của hộ với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên địa
bàn huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An;
- Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao khả năng ứng xử của hộ nông
dân với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn và hạn chế rủi ro dịch bệnh trong chăn
nuôi lợn ở Đô Lương trong thời gian tới.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn là gì?
Thế nào là ứng xử của người chăn nuôi với rủi ro dịch bệnh trong chăn
nuôi lợn?
Chăn nuôi lợn ở Đô Lương trong những năm qua diễn ra như thế nào?
Nhận thức của hộ về rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn?
Thái độ của hộ chăn nuôi về rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn?
Ứng xử của hộ với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn?

Làm thế nào để nâng cao khả năng ứng phó của người chăn nuôi rủi ro dịch
bệnh?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Các hoạt động chăn nuôi lợn; rủi ro dịch bệnh xảy ra trong chăn nuôi lợn
và ứng xử của nông dân chăn nuôi lợn đối với rủi ro dịch bệnh, công tác quản lý rủi
ro của các hộ chăn nuôi;
- Các hộ nông dân chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện Đô Lương, tỉnh
Nghệ An.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung liên quan đến
chăn nuôi lợn, rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn của các hộ nông dân và ứng xử
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

của hộ nông dân với rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện Đô
Lương, tỉnh Nghệ An.
Bên cạnh đó, đề tài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các hộ chăn nuôi quy
mô nhỏ và quy mô vừa, không tập trung vào các hộ chăn nuôi quy mô trang trại.
Các hộ chăn nuôi quy mô trang trại thường là các hộ chăn nuôi theo quy trình, chăn
nuôi chuồng kín và áp dụng các quy trình chăn nuôi khép kín nên việc ứng xử với
rủi ro dịch bệnh của các hộ là rất cao.
- Phạm vi về không gian: đề tài tiến hành trên địa bàn huyện Đô Lương, tỉnh
Nghệ An
- Phạm vi về thời gian:
Số liệu thứ cấp về chăn nuôi, rủi ro, rủi ro dịch bệnh và hành vi ứng xử của
hộ nông dân chăn nuôi lợn được thu thập từ năm 2005 – 2012.
Số liệu sơ cấp được tiến hành điều tra trong năm 2013.
Thời gian nghiên cứu được thực hiện từ tháng 5/2013 – 10/2014.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ỨNG XỬ CỦA HỘ
NÔNG DÂN VỚI RỦI RO DỊCH BỆNH TRONG CHĂN NUÔI LỢN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Lý luận về ứng xử
* Khái niệm về ứng xử
Theo từ điển tiếng Việt, ứng xử của các cá nhân là thái độ, hành động của
các cá nhân trước một sự việc cụ thể. Thông thường thái độ và hành động đúng đắn
của các cá nhân sẽ giúp cho việc giải quyết công việc một cách hợp lý, mang lại lợi
ích cho cá nhân đó.
Theo Lê Thị Bừng và Hải Vang (1997), ứng xử chính là sự phản ứng của
con người đối với sự tác động của người khác, sự vật, hoặc điều kiện ngoại
cảnh,… đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở chỗ con
người không chủ động giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có
tính toán, thể hiện qua thái độ, hành vi cử chỉ, cách nói năng, tùy thuộc vào tri
thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người, nhằm đạt kết quả giao tiếp nhất
định. Ứng xử còn có thể được hiểu là hành động ra quyết định của con người
trước một tình huống.
Trong từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê, 1995), ứng xử được định nghĩa là có
thái độ, hành động, lời nói thích hợp trong việc ứng xử.
Hành vi ứng xử của người sản xuất có thể hiểu thái độ ứng xử, khả năng ra
quyết định và hành động của hộ nông dân phù hợp hay không phù hợp mang lại
hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Các yếu tố này bao gồm cả
yếu tố nội tại bên trong hộ và các yếu tố bên ngoài đem lại. Trong điều kiện chăn
nuôi lợn thì ứng xử của hộ nông dân với rủi ro trong quá trình chăn nuôi chính là
quyết định trong chăn nuôi lợn của hộ. Các quyết định bao gồm:
- Quyết định tăng hay giảm quy mô chăn nuôi;
- Quyết định tăng cường đầu tư hay giảm đầu tư: (chăn nuôi công nghiệp,

bán công nghiệp, hay tận dụng);
- Lựa chọn thay đổi nguồn cung cấp đầu vào;
- Quyết định thay đổi trong tiêu thụ sản phẩm.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

2.1.2 Rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi
2.1.2.1 Rủi ro, nguy cơ và không chắc chắn
* Không chắc chắn
Trong môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội của người nông dân có rất
nhiều điều không chắc chắn xảy ra gây bất lợi đối với mỗi nông dân như thiên tai,
giảm giá nông sản, tăng giá đầu vào, bệnh tật,…. Các sự kiện đó xảy ra với những
xác suất mà không biết trước được. Người ta gọi tình trạng đó là không chắc chắn
(Đoàn Thị Hồng Vân, 2002).
Theo TS. Bùi Thị Ga, không chắc chắn là các tình trạng không thể gắn xác
suất với việc xảy ra các sự kiện. Sự không chắc chắn đề cập theo ý nghĩa mô tả đặc
điểm môi trường kinh tế mà các nông hộ phải đương đầu. Sự không chắc chắn chỉ
được xem như là một vấn đề đối với sản xuất nông nghiệp hơn là các ngành khác
và được thể hiện trên các dạng chủ yếu sau:
- Sự không chắc chắn về sản lượng: nguyên nhân gây ra sự không chắc chắn
là do gặp phải thiên tai. Thiên tai là những tác động có hại đối với sản xuất nông
nghiệp mà khó có thể dự đoán được như bệnh dịch, lũ lụt, nắng hạn,… Thiên tai
cũng có thể được mô tả như là sự không chắc chắn về năng suất và sản lượng của
đối tượng nuôi. Khả năng chống lại thiên tai phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kinh
nghiệm, kiến thức, nguồn lực, sự hợp tác trong cộng đồng,… Điều này dẫn đến ảnh
hưởng của cùng một loại thiên tai đến các vùng khác nhau, hay ảnh hưởng đến các
hộ khác nhau cũng khác nhau. Mức độ ảnh hưởng này là một trong những nguyên
nhân gây nên sự khác biệt về sản lượng trong sản xuất.
- Sự không chắc chắn về giá cả: do chu kỳ của sản xuất nông nghiệp kéo dài
nên khi lựa chọn một loại cây trồng hoặc loại gia súc nào đó tại thời điểm ra quyết

định người ta khó xác định được giá thị trường vào lúc đó của sản phẩm để bán trên
thị trường là bao nhiêu. Điều này đặc biệt khó khăn đối với các cây trồng và vật
nuôi lâu năm như cà phê, chè, cao su, trâu, bò,… những đối tượng nuôi này phải
mất thời gian kiến thiết cơ bản nhất định sau đó mới cho thu hoạch sản phẩm. Vấn
đề càng trầm trọng hơn đối với các nước chậm phát triển, nơi có thị trường không
hoàn thiện và thiếu thông tin. Với thời gian như vậy đủ để tác động đến các yếu tố
quyết định cung và cầu của sản phẩm này trên thị trường. Ảnh hưởng này đến nông
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7

hộ thể hiện qua việc giá cả sản phẩm khi bán trên thị trường với giá cả được kỳ
vọng trước khi sản xuất là rất khác biệt.
Hậu quả của nó có thể được mùa nhưng doanh thu từ sản phẩm thấp do
sản lượng tăng nhưng giá giảm lớn hơn mức tăng của sản lượng, hoặc sản lượng
thấp nhưng giá cả lại cao đủ để làm cho doanh thu tăng lên. Điều đặc biệt quan
trọng thể hiện đa số thị trường nông sản là thị trường canh tranh hoàn hảo, giá
cả là một biến ngoại sinh trong việc ra quyết định của nông hộ. Chính vì điều
này, sự can thiệp của Nhà nước thông qua lượng cầu, can thiệp giá đối với thị
trường nông sản khi có sự biến động quá lớn là cần thiết nhằm ổn định đời sống
và sản xuất đối với ngành này.
- Không chắc chắn về xã hội: liên quan đến việc kiểm soát các nguồn lực sản
xuất và sự lệ thuộc của một số nông dân vào những người khác. Điều này xảy ra
khi không có sự công bằng trong quyền sở hữu đất đai và các nguồn lực khác. Sự
không chắc chắn về xã hội do tính chất của xã hội quyết định nên nó có mức độ
khác nhau giữa các vùng hoặc các nước khác nhau.
- Không chắc chắn về con người: không ai có thể biết trước được sức khỏe
của mình cũng như các thành viên gia đình trong tương lai. Vì vậy, điều này cũng
được coi là sự không chắc chắn về con người.
Những sự không chắc chắn như trên dẫn đến người nông dân không tình
nguyện chấp nhận sự đổi mới kỹ thuật, ngại đầu tư cho sản xuất hoặc tiếp nhận một

cách chậm chạp để tăng sự thích nghi với những điều không chắn chắn. Điều đó
cũng làm tăng thêm sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội nông thôn.
* Rủi ro
Theo PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân cho đến nay chưa có một định nghĩa
thống nhất về rủi ro, những trường phái khác nhau, tác giả khác nhau thì đưa ra
những định nghĩa về rủi ro khác nhau. Những định nghĩa về rủi ro rất đa dạng và
phong phú.Tuy nhiên có thể chia thành hai trường phái: Trường phái Truyền thống
(hay còn gọi là trường phái tiêu cực) và trường phái Trung hòa.
 Trường phái truyền thống: Theo cách nghĩ truyền thống thì “rủi ro là
những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, sự
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

khó khăn hay những vấn đề không chắc chắn có thể xảy ra cho con người”. Theo
trường phái này có nhiều định nghĩa như:
− “Rủi ro là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến” (Từ điển Tiếng
Việt, 1995)
− “Rủi ro (đồng nghĩa với rủi) là sự không may” (GS. Nguyễn Lân, Từ điển
Từ và ngữ Việt Nam, 1998)
− “Rủi ro là gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn, thiệt hại…”(Từ điển Oxford)
− Một số từ điển khác đưa ra khái niệm tương tự như : “Rủi ro là sự bất trắc
gây ra mất mát , hư hại” hay “ rủi ro là yếu tố liên quan đến nguy hiểm, sự khó
khăn hoặc điều không chắc chắn”
− Trong lĩnh vực kinh doanh tác giả Hồ Diệu định nghĩa: “Rủi ro là sự tổn
thất về tài sản hoặc là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến”
− Hoặc “Rủi ro là sự bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp”
 Trường phái trung hòa: Trường phái này có một số định nghĩa như sau:
− “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được” (Frank Knight)
− “Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến sự xuất hiện những biến đổi

không mong đợi” (Allan Willett).
− “Rủi ro là một tổng hợp ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác suất”
(Irving Preffer).
− “Rủi ro là giá trị và kết quả mà hiện thời chưa biết đến”
− Rủi ro là sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả. Rủi ro có thể xuất hiện
trong hầu hết mọi hoạt động của con người. Khi có rủi ro người ta không thể dự
đoán được chính xác kết quả. Sự hiện diện của rủi ro gây nên sự bất ổn định. Nguy
cơ rủi ro phát sinh bất cứ khi nào một hành động dẫn đến khả năng được hoặc mất
không thể đoán trước (C. Arthur William, Jr. Smith).
Vậy theo trường phái trung hòa thì “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường
được”. Rủi ro vừa mang tính tiêu cực vừa mang tính tích cực. Rủi ro có thể mang
đến những tổn thất, mất mát, nguy hiểm…cho con người nhưng cũng có thể mang
đến những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, nhận dạng, đo lường rủi ro người
ta có thể tìm ra biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận
những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai (Đoàn Thị Hồng Vân, 2002).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

Theo TS. Bùi Thị Gia (2005), trong lĩnh vực nông nghiệp chúng ta có thể
hiểu rủi ro là những tổn thất, những bất trắc, khả năng không đạt được kết quả
mong muốn và rủi ro có thể đo lường được.
Theo Đào Thế Tuấn (1997) đã nhận định về rủi ro theo cách trung hòa hơn.
Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, nó liên quan đến việc xuất hiện những
biến cố không mong đợi. Đó là sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả. Rủi ro có thể
xuất hiện trong hầu hết mọi hoạt động của con người. Khi có rủi ro, người ta không
thể dự đoán được chính xác kết quả. Sự hiện diện của rủi ro gây nên sự bất định.
Nguy cơ rủi ro phát sinh bất cứ khi nào một hành động dẫn đến khả năng được
hoặc mất không thể dự đoán trước
Như vậy, theo các quan điểm trên thì rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường
được. Từ các quan điểm trên cho thấy có sự khác nhau khi nhận thức về rủi ro,

điều này có thể hiểu là do cách đánh giá ở từng khía cạnh, từng lĩnh vực của sản
xuất và đời sống ở mỗi thời điểm xảy ra rủi ro. Bên cạnh đó, do rủi ro xảy ra
nhiều lần trong đời sống của con người cho nên những bất trắc xảy ra thì có thể
đo lường được chúng.
* Phân biệt rủi ro và không chắc chắn
P.H.Callkin và cộng sự (1983) nói rằng F.H.Knight (1921) đã phân biệt
giữa rủi ro (risk) và không chắc chắn (Uncertainty). Theo Knight, rủi ro tồn tại khi
người sản xuất biết vùng kết quả (Outcome) có khả năng xảy ra và xác suất của
vùng kết quả đối với quyết định của người sản xuất. Ngược lại sự không chắc chắn
xảy ra khi các kết quả hoặc sự kiện (event) xảy ra và xác suất của chúng không
biết. Thông thường không chắc chắn bao gồm các sự cố thỉnh thoảng xảy ra như lũ
lụt cả một con sông hay cái chết của một con bò đực đánh giá,…
Còn R.D.Kay (1988) nói rằng, có nhiều tác giả phân biệt giữa rủi ro và
không chắc chắn, họ định nghĩa rủi ro là tình trạng mà ở đó tất cả các kết quả có
khả năng xảy ra và xác suất của nó là biết trước đối với người ra quyết định. Còn
không chắc chắn là tình trạng mà các kết quả có khả năng xảy ra và xác suất của nó
không biết trước khi quyết định quản lý. Với sự phân biệt này, phần lớn quyết định
trong nông nghiệp được phân biệt ra rủi ro và không chắc chắn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

J.B.Hardaker (1997) cho rằng rủi ro và không chắc chắn có thể định nghĩa
theo nhiều cách khác nhau, song cách phân biệt thông thường đó là: rủi ro là sự
không hoàn hảo về kết quả có khả năng xảy ra và xác suất của nó, còn không chắc
chắn là kết quả có khả năng xảy ra và xác suất của nó là không biết trước.
Sự phân biệt rủi ro và không chắc chắn không có ích nhiều đối với nhà quản
lý sản xuất nông nghiệp. Một tình trạng rủi ro thuần túy là rất hiếm thấy vì không
biết được xác suất thực. Do đó, mà một số tác giả cho rằng, người quản lý sản xuất
nông nghiệp luôn luôn phải quyết định trong môi trường không chắc chắn, hay nói
cách khác là mọi quyết định đều chứa đựng rủi ro. Cơ sở của những tranh luận này

là mặc dù không biết xác suất thực nhưng các nhà quyết định vẫn đưa ra hàng loạt
xác suất chủ quan phục vụ cho việc ra quyết định. Lý lẽ cuối cùng nêu trên có thể
giải thích tại sao mà hai nhà quản lý gặp cùng một vấn đề như nhau trong điều kiện
như nhau lại có hai quyết định khác nhau. Vì kinh nghiệm, kiến thức và những
thông tin sẵn có của họ đã khiến họ đưa ra những xác suất chủ quan khác nhau, do
đó họ có thể có những quyết định khác nhau.
* Nguy cơ
Theo như Luật Vệ sinh An toàn thực phẩm thì “risk” (rủi ro) trong này được
gọi là nguy cơ. Tuy nhiên, theo như một số tài liệu về bảo hiểm thì nguy cơ khác
với rủi ro.
Nguy cơ là một thuật ngữ thường được sử dụng trên các đơn bảo hiểm thuộc
thị trường bảo hiểm Anh - Mỹ. Trên thực tế, người ta rất khó phân biệt và thường
lẫn lộn giữa nguy cơ và hiểm họa ("hiểm họa" thường được sử dụng trong các đơn
bảo hiểm "Mọi rủi ro" (All Risk Policy). Nó biểu hiện hàng loạt các sự cố có thể
xẩy ra gây thiệt hại cho một đối tượng hoặc một sự cố không chắc chắn nào đó có
thể ảnh hưởng đến nhiều người khác nhau với tư cách khác nhau). Một khi có nguy
cơ thì có nghĩa là sự phát động của hiểm họa gần với hiện thực hơn, khả năng xẩy
ra tổn thất cao hơn (Nguyễn Tiến Hùng, 2012).
Nguy cơ xuất hiện như một điều kiện phối hợp, tác động làm rủi ro xẩy ra
dẫn đến tổn thất. Bản thân nguy cơ là hoàn toàn độc lập với rủi ro. Một cách ngắn
gọn, nguy cơ có thể định nghĩa như sau: Nguy cơ là những điều kiện phối hợp, tác
động làm tăng khả năng tổn thất.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

Nguy cơ là tình tiết của rủi ro, là những điều kiện, nhân tố tác động làm gia
tăng khả năng xảy ra các tổn thất mang lại từ các hiểm họa phát sinh trong điều
kiện đó. Nguy cơ là những điều kiện tác động làm gia tăng khả năng xảy ra các tổn
thất. Nguy cơ có thể làm tăng xác suất xảy ra tổn thất, cả về tần số xuất hiện và
mức độ nghiêm trọng. Tần số xuất hiện ở đây có thể hiểu như là con số các trường

hợp tổn thất xảy ra trong thời gian cụ thể. Mức độ nghiêm trọng được hiểu như là
giá trị tổn thất quy đổi thành tiền tính cho mỗi trường hợp xảy ra tổn thất (Nguyễn
Tiến Hùng, 2012).
Như vậy, có thể hiểu nguy cơ là những nguyên nhân có thể dẫn đến các
tổn thất; rủi ro là xác suất xảy ra các tổn thất. Nguy cơ và rủi ro không được
xem là hai thuật ngữ tương tự nhau mặc dù nguy cơ là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến rủi ro, mặc dù rủi ro liên quan đến khả năng xảy ra sự kiện và được
thể hiện thông qua xác suất, nhưng con số đó chưa thể hiện đầy đủ nguy cơ hàm
chứa trong các sự việc.
Sự phân biệt nguy cơ và rủi ro không có ý nghĩa nhiều trong sản xuất nông
nghiệp vì nguy cơ là một điều kiện làm gia tăng khả năng tổn thất. Không có nguy
cơ rủi ro vẫn tồn tại, có nguy cơ, khả năng rủi ro phát động cao hơn. Do đó, giảm
thiểu nguy cơ chỉ có thể làm giảm khả năng xảy ra biến cố chứ không làm giảm
mức độ rủi ro hay triệt tiêu rủi ro. Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển giúp ích
cho con người rất nhiều trong việc giảm thiểu nguy cơ bằng các biện pháp như: dự
báo tình hình sâu bệnh, dịch bệnh trong quá trình sản xuất, khi điều kiện ngoại cảnh
thay đổi,…
2.1.2.2 Rủi ro trong sản xuất nông nghiệp
Rủi ro được coi như là đặc điểm nội tại của nông nghiệp và nông thôn Việt
Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu mang tính điển hình về rủi ro trong nông
nghiệp ở Việt Nam lại không có nhiều hoặc ít được công bố. Các thông tin về rủi ro
nông nghiệp phần lớn thường được tìm thấy trong các báo cáo điều tra hoặc báo
cáo phát triển của các tổ chức.
Cuộc điều tra nông thôn gần đây do IPSARD tiến hành (2007) cho thấy
trong 5 năm qua, có tới 47% hộ nông dân chịu thiệt hại do các loại rủi ro gây ra.
Trong đó chủ yếu phải kể đến rủi ro về người do ốm đau, bệnh tật (19%), dịch bệnh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

vật nuôi, mất mùa (22,9%), thiên tai (10,1%)). Tuy nhiên các biện pháp chính thức

như bảo hiểm và hỗ trợ Chính phủ trong giảm thiểu thiệt hại của các cú sốc lớn lại
chỉ có vai trò rất khiêm tốn và phần lớn người dân buộc phải dựa vào chính mình
chứ không dựa vào bên ngoài, thậm chí áp dụng những biện pháp hết sức tiêu cực
như cho trẻ nghỉ học hoặc đi ăn xin.
Ngân hàng thế giới và DFID (1999) cũng chỉ ra rằng, bệnh dịch và vật nuôi
bị chết là một trong những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Roland-Holst cùng các
cộng sự (2007) qua phân tích tác động của trường hợp cúm gà đã đưa ra kết luận
rằng người dân, đặc biệt là dân nghèo chịu ảnh hưởng khá nặng nề của các cú sốc
lớn trong khi các công cụ nhằm giảm thiểu rủi ro như đa dạng hóa thu nhập lại
không có tác dụng nhiều do hạn chế về nguồn lực. Ở cấp độ cao hơn, nghiên cứu
của Tường Vũ (2007) cho thấy năng lực kiểm soát và ứng phó đối với các cú sốc
bệnh dịch trong chăn nuôi của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước lân cận
như Thái Lan và Malaysia.
2.1.2.3 Phân loại rủi ro trong sản xuất nông nghiệp
• Rủi ro sản xuất hay còn gọi là rủi ro sản lượng: đến từ các sự kiện
không đoán trước được và thường liên quan đến thời tiết như mưa lớn, hạn hán,
nhiệt độ tăng quá cao, sương muối, côn trùng và bệnh dịch. Kỹ thuật và công nghệ
cũng đóng một vai trò quan trọng trong rủi ro sản xuất. Việc đưa vào áp dụng một
cách nhanh chóng các giống mới hay kỹ thuật canh tác mới tuy đem lại sự gia tăng
về năng suất và sản lượng nhưng không phải lúc nào cũng thành công, nhất là khi
chưa qua khảo sát và thử nghiệm cần thiết. Thêm vào đó, việc áp dụng kỹ thuật mới
cũng góp phần làm nảy sinh các loại rủi ro mới, ví dụ việc đẩy nhanh tốc độ ứng
dụng hóa học hóa trong nông nghiệp có thể tạo ra các hiểm họa về môi trường.
Rủi do dịch bệnh trong chăn nuôi lợn là một loại rủi ro sản xuất: Trong quá
trình sinh trưởng và phát triển của vật nuôi luôn tồn tại những tiềm ẩn về dịch bệnh
xảy ra đối với vật nuôi. Dịch bệnh chưa bao giờ được khống chế triệt để hoặc thanh
toán trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng ở Việt Nam, thậm chí nó
có có hướng xuất hiện thêm nhiều loại bệnh mới, nhiều bệnh đã xuất hiện trở nên
kháng thuốc và khó chữa hơn. Do vậy, rủi ro dịch bệnh trong chăn nuôi lợn có thể
được coi là một trong những rủi ro lớn nhất trong rủi ro sản xuất hiện nay.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

• Rủi ro giá cả hay rủi ro thị trường: xuất hiện do những thay đổi không
biết trước của thị trường đầu vào cũng như đầu ra trong nông nghiệp. Sản xuất
nông nghiệp thường có chu kỳ dài và không phải lúc nào cũng tạo ra lợi nhuận
ngay lập tức. Lấy ví dụ như ngành chăn nuôi, việc đầu tư cho thức ăn và các trang
thiết bị có thể diễn ra vài tháng cho tới vài năm trong khi giá cả đầu vào và đầu ra
là rất khó dự tính nên lợi nhuận của người chăn nuôi thường bị ảnh hưởng mạnh.
Bên cạnh đó, yếu tố thị trường bao gồm cả thị trường nội địa và quốc tế có liên
quan chặt với nhau nên lợi nhuận của người sản xuất nông nghiệp có thể bị ảnh
hưởng một cách đột ngột khi có các biến động lớn ở khu vực địa lý cách rất xa địa
điểm sản xuất.
• Rủi ro thể chế: là hệ quả của những thay đổi về chính sách và quy định
của nhà nước hoặc chính quyền địa phương gây ảnh hưởng đến nông nghiệp. Loại
rủi ro này thường diễn ra khi các quy định và chính sách mới ban hành gây ra các
rào cản và hạn chế cho sản xuất hoặc khiến giá cả đầu ra hoặc đầu vào thay đổi.
Chẳng hạn như các quy định của Chính phủ về sử dụng phân bón trong trồng trọt
hoặc các chất kích thích trong chăn nuôi có thể gây ảnh hưởng đến giá cả nông sản
đầu ra, hoặc chính sách hạn chế nhập khẩu của nước nào đó có thể gây phương hại
đến sản xuất nông nghiệp của nước xuất khẩu. Các hình thái khác của rủi ro thể chế
có thể được kể đến như các quy định về chất thải chăn nuôi, các ràng buộc trong
bảo tồn đất hoặc sự thay đổi về chính sách tín dụng và thuế thu nhập.
• Rủi ro về con người: đến từ các hành vi mang tính cá nhân hoặc do sức
khỏe bị ảnh hưởng bởi ốm đau, bệnh tật. Thêm vào đó, việc thay đổi mục tiêu sản
xuất của các cá nhân trong ngành nông nghiệp cũng được coi là một loại rủi ro gắn
với con người khi nó có các ảnh hưởng về lâu dài đối với toàn bộ ngành nông
nghiệp hoặc một lĩnh vực đặc thù nào đó trong ngành nông nghiệp. Các rủi ro về
mất mát tài sản do trộm cắp, cháy nổ, hoặc các thiệt hại về nhà cửa, vật nuôi gắn
với yếu tố quản lý và sử dụng của con người cũng được liệt kê vào nhóm rủi ro này.

Trong lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp, việc phá bỏ các hợp đồng kinh doanh đã
được ký kết và thỏa thuận từ trước cũng được tính là rủi ro do yếu tố con người.
• Rủi ro tài chính và rủi ro tín dụng: xuất phát từ các hình thức đầu tư,
huy động vốn trong sản xuất và kinh doanh. Trong nông nghiệp, đa phần người sản

×