Tải bản đầy đủ (.doc) (155 trang)

6 chuyên đề ôn thi lên chuyên viên chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.65 KB, 155 trang )

6 chuyên đề ôn thi lên chuyên viên chính năm 2012
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC, BỘ MÁY
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
(Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên chính khối Đảng, đoàn thể năm 2012)
( Nguồn: ).

I. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một chỉnh thể thống nhất, gắn bó hữu cơ bao
gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời
là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà
nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và
chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động tổ chức, kiểm tra, giám sát
và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt
động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng
và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm
cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó
mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
2. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân ta mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của


Đảng. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế
và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng rị tệ quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm, lạm


quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi
hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung, dân chủ.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo
tập trung, thống nhất của Trung ương.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba
quyền đó.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cá nhân tiêu biểu của các giai
cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
Mặt trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động
giữa các thành viên.
Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vừa vận
động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực, vừa giáo dục nâng
cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên, vừa tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội .
Tổ chức của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ( nòng cốt là Công đoàn, Đoàn
Thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân), các tổ chức chính trị- xã
hội, tổ chức xã hội khác được pháp luật thừa nhận tuỳ theo tính chất, đặc điểm mà có quy mô
tổ chức phù hợp.

Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã - hội, tổ chức xã
hội thông qua tổ chức của Đảng được lập trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
(Ban cán sự đảng, đảng đoàn); thông qua đội ngũ cấp uỷ viên và đảng viên công tác trong các
cơ quan Nhà nước, Mặt trận và đoàn thể; lãnh đạo bằng nghị quyết của Đảng, bằng công tác tổ
chức cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát... Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt và lãnh đạo trực tiếp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
II. TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Hệ thống tổ chức đảng
Điều lệ Đảng quy định: Hệ thống tổ chức của Đảng được thành lập tương ứng với hệ
thống tổ chức hành chính của Nhà nước.
Hệ thống tổ chức Đảng thành lập theo cấp hành chính lãnh thổ là hệ thống cơ bản, bảo
đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở mỗi cấp và của toàn Đảng. Việc lập tổ chức đảng ở
những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương (Quy định số 45QĐ/TW ngày 01-11-2011 về thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương).
2


Hệ thống tổ chức của Đảng, các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp uỷ các cấp từng
bước được sắp xếp, kiện toàn hợp lý và hiệu quả hơn sau khi thực hiện Nghị quyết Trung ương
ba, Trung ương bảy (khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị lần
thứ 4, lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương khoá X. Nghị quyết Đại hội XI và các Nghị quyết
Trung ương 5, Trung ương 6, Trung ương 7(khoá XI) tiếp tục xem xét quyết định kiện toàn hệ
thống tổ chức của Đảng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Tổ chức của Đảng Cộng sản Việt nam hiện nay gồm:
- Hệ thống tổ chức đảng bộ, chi bộ (từ cấp Trung ương, cấp tỉnh, huyện, cơ sở, chi bộ);
- Cơ quan lãnh đạo của Đảng các cấp (đại hội, cấp uỷ);
- Cơ quan tham mưu giúp việc cấp uỷ (các ban đảng, đơn vị sự nghiệp của Đảng);
- Tổ chức đảng được lập trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị xã hội (ban
cán sự đảng, đảng đoàn).

1.1. Hệ thống tổ chức các đảng bộ, chi bộ

a) Cấp Trung ương: toàn Đảng có cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành
Trung ương (Bộ Chính trị, Ban Bí thư).
Hiện nay có 67 đảng bộ trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương :
- 63 Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (theo cấp hành chính lãnh thổ,
có chính quyền cùng cấp).
- 04 Đảng bộ khác trực thuộc Trung ương là Đảng bộ Khối các cơ quan Trung
ương, Đảng bộ khối Doanh nghiệp Trung ương; Đảng bộ Quân đội; Đảng bộ Công an
Trung ương.
(Trước năm 2006 có 75 đầu mối, sau khi thực hiện NQTW 4 khoá X giảm được 08
đầu mối).
b) Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương có các đảng bộ trực
thuộc gồm:
- Đảng bộ huyện, quận, thị, thành phố trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ (theo hành chính
lãnh thổ).
- Đảng bộ cấp trên trực tiếp của cơ sở (tương đương cấp huyện) trực thuộc tỉnh uỷ,
thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương.
- Một số tổ chức cơ sở đảng có vị trí quan trọng, đông đảng viên, nhiều tổ chức
đảng trực thuộc, được giao một số quyền của cấp trên cơ sở.
- Các đảng bộ, chi bộ cơ sở có vị trí quan trọng trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng
uỷ khối Trung ương, Quân uỷ Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương.
c) Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có các tổ chức cơ
sở đảng trực thuộc gồm :
- Các đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn (theo cấp hành chính lãnh thổ).
3


- Các đảng bộ cơ sở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang
trực thuộc huyện ủy, quận ủy, thị ủy và tương đương.
d) Cấp cơ sở xã, phường, thị trấn và các loại hình tổ chức cơ sở đảng ở cơ quan,
doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp khác có các tổ chức đảng trực thuộc gồm:

- Các đảng bộ bộ phận (nơi có đông đảng viên);
- Các chi bộ trực thuộc;
- Các tổ đảng (ở nơi thành lập chi bộ, có đông đảng viên).
1.2. Hệ thống cấp ủy các cấp
Gắn với hệ thống tổ chức đảng là hệ thống cấp uỷ đảng các cấp. Cấp uỷ các cấp là
cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, chấp hành giữa hai kỳ đại hội của đảng bộ các cấp.
Điều lệ Đảng quy định : Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu
toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa
hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là
ban chấp hành đảng bộ, ban chấp hành chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
Theo quy định của Điều lệ Đảng khóa X, khóa XI và Quy định thi hành Điều lệ
Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI thì nhiệm kỳ đại hội của tổ chức cơ sở
đảng và của cấp ủy cơ sở trở lên là 5 năm. Nhiệm kỳ của chi bộ, chi ủy trực thuộc đảng
uỷ cơ sở là 5 năm /2 lần (quy định này được áp dụng từ nhiệm kỳ Đại hội X).
Số lượng Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương do Đại hội Đảng toàn quốc quyết
định, số lượng cấp uỷ viên mỗi cấp do đại hội cấp đó quyết định trên cơ sở hướng dẫn
của Trung ương. Hệ thống cấp uỷ đảng do đại hội các cấp bầu, trường hợp đặc biệt hoặc
thành lập mới, chia tách, hợp nhất, sáp nhập giữa 2 kỳ đại hội thì do cấp uỷ cấp trên trực
tiếp chỉ định.
1.2.1. Về Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư:
a) Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất trong toàn Đảng giữa 2
kỳ đại hội; số lượng Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội Đảng toàn quốc
thảo luận, quyết định.
Ban Chấp hành trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn:
- Tổ chức chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của
Đại hội; quyết định những chủ trương, chính sách về đối nội, đối ngoại, công tác quần
chúng và công tác xây dựng đảng; chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhiệm
kỳ tiếp theo, Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường (nếu có).
Ban Chấp hành Trung ương căn cứ tình hình thực tế có thể chỉ đạo thí điểm một số
chủ trương mới chưa được quy định trong Điều lệ Đảng.

- Ban Chấp hành Trung ương họp thường lệ sáu tháng một lần; họp bất thường khi
cần.
- Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị; bầu Tổng Bí thư trong số Uỷ viên
Bộ Chính trị;
4


- Thành lập Ban Bí thư gồm Tổng Bí thư, một số Ủy viên Bộ Chính trị do Bộ
Chính trị phân công và một số Ủy viên Ban Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu
trong số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương;
- Bầu Uỷ ban Kiểm tra Trung ương; bầu Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
trong số Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương. Số lượng Uỷ viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Ban Bí thư và Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương
quyết định.
b) Bộ Chính trị do Ban Chấp hành Trung ương bầu ngay sau Đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng, có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Điều lệ Đảng là:
- Lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương; quyết định những vấn đề về chủ
trương, chính sách, tổ chức, cán bộ;
- Quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung
ương; báo cáo công việc đã làm trước hội nghị Ban Chấp hành Trung ương hoặc theo yêu
cầu của Ban Chấp hành Trung ương.
c) Ban Bí thư lãnh đạo công việc hằng ngày của Đảng: chỉ đạo công tác xây dựng
đảng và công tác quần chúng; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; chỉ đạo sự phối hợp hoạt động giữa
các tổ chức trong hệ thống chính trị; quyết định một số vấn đề về tổ chức, cán bộ và một số
vấn đề khác theo sự phân công của Ban Chấp hành Trung ương; chỉ đạo hoặc kiểm tra việc
chuẩn bị các vấn đề đưa ra Bộ Chính trị thảo luận và quyết định.
1..2.2. Về cơ quan lãnh đạo ở địa phương cấp tỉnh, cấp huyện


a) Nhiệm vụ của ban chấp hành và hình thức sinh hoạt của ban chấp hành:
- Cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh ủy, thành ủy), cấp
ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện ủy, quận ủy, thị ủy,
thành ủy) là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ tỉnh, đảng bộ huyện giữa 2 kỳ đại hội, có
nhiệm vụ: lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy
cấp trên.
- Hội nghị tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy, quận ủy, thị ủy do ban thường vụ triệu tập
thường lệ ba tháng một lần; họp bất thường khi cần.
Hội nghị bầu ban thường vụ; bầu bí thư và phó bí thư trong số ủy viên thường vụ;
bầu ủy ban kiểm tra; bầu chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trong số ủy viên ủy ban kiểm tra.
Số lượng ủy viên ban thường vụ và ủy viên ủy ban kiểm tra do cấp ủy quyết định theo
hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.
b) Nhiệm vụ của ban thường vụ; thường trực cấp ủy :
- Ban thường vụ lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của đại hội đại
biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cùng cấp và cấp trên; quyết định những vấn đề về chủ
trương, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của cấp ủy.

5


- Thường trực cấp ủy gồm bí thư, các phó bí thư, chỉ đạo kiểm tra thực hiện nghị
quyết, chỉ thị của cấp ủy, của ban thường vụ và cấp ủy cấp trên; giải quyết công việc
hằng ngày của đảng bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của ban
thường vụ.
1.3. Ban cán sự đảng, đảng đoàn
Thực hiện theo Điều 42, Điều 43 Điều lệ Đảng. Ban Cán sự đảng được lập ở một số cơ
quan hành pháp, tư pháp cấp Trung ương, cấp tỉnh. Đảng đoàn được lập ở một số cơ quan lãnh
đạo Nhà nước (do bầu cử) và một số tổ chức chính trị - xã hội cấp Trung ương, cấp tỉnh.
1.4. Hệ thống cơ quan tham mưu giúp việc, đơn vị sự nghiệp của cấp uỷ
Theo quy định của Điều lệ Đảng Cấp uỷ mỗi cấp lập các cơ quan tham mưu giúp việc

theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương”.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và khi thực hiện nghị quyết Trung ương 7
(khoá VIII) và NQTW 4 khoá X vừa qua, hệ thống cơ quan tham mưu giúp việc được tổ chức
lại gọn hơn đến nay đầu mối tổ chức các ban và cơ quan Đảng đã được tinh giản đáng kể so với
thời kỳ trước đổi mới. Ở cấp Trung ương, từ 24 đầu mối (16 ban, văn phòng và 8 đơn vị sự
nghiệp) tổ chức lại thành 6 ban (Ban Tổ chức TW, Ban Tuyên giáo TW, Ban Dân vận TW, Uỷ
ban Kiểm tra TW, Ban Đối ngoại TW, Văn phòng TW) và 4 đơn vị sự nghiệp (Báo Nhân dân,
Tạp chí Cộng sản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh). Ở cấp tỉnh từ 12 - 15 đầu mối tổ chức lại thành 7 đầu mối (5 ban và 2 đơn vị sự
nghiệp). Ở cấp huyện còn từ 5 - 6 đầu mối (5 ban và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện).
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã quyết định
thành lập lại Ban Nội chính Trung ương và ban nội chính cấp tỉnh. Hội Nghị Trung ương 6 sẽ
tiếp tục nghe và quyết định về Ban Kinh tế Trung ương.
2. Tổ chức nhà nước
Tổ chức bộ máy Nhà nước bao gồm : Quốc hội (cơ quan lập pháp) và hội đồng nhân dân
các cấp; Chủ tịch nước (là nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng an ninh và thực
thi các nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp); Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp (cơ quan
hành chính nhà nước), Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân các cấp (cơ quan tư pháp).
2.1. Tổ chức của Quốc hội
Quốc hội do dân bầu, thực hiện nhiệm kỳ đại biểu 5 năm. Quốc hội lập ra các Uỷ ban,
các Ban có bộ phận chuyên trách ở Trung ương; ở địa phương có các đoàn đại biểu, chuyên
trách địa phương.
Quốc hội có sự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, tăng cường việc xây
dựng và ban hành các bộ luật, luật, pháp lệnh, thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, cụ
thể hoá các quy định của Hiến pháp, quan hệ phối hợp giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội với Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hình thành cơ chế tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội với cử tri, dân
6



chủ trong sinh hoạt Quốc hội, tăng cường chất vấn công khai tại Quốc hội, bảo đảm vai trò lãnh
đạo của Đảng thông qua Đảng đoàn Quốc hội.
2.2. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước là đại biểu Quốc hội, do Quốc hội bầu; chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (theo Chương VII, Hiến pháp 1992) và tổ chức bộ
máy chuyên trách giúp việc theo quy định của pháp luật.
2.3. Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước
Tổ chức bộ máy của Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước đã tinh giản hơn so với
năm 1986. Ở cấp Trung ương, trước 1/8/2007 tổng số đầu mối các cơ quan thuộc Chính phủ đã
giảm từ 76 xuống còn 38 (26 bộ, cơ quan ngang bộ và 12 cơ quan thuộc chính phủ), hiện nay
còn 22 đầu mối (gồm 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ). Ở cấp tỉnh từ 35 - 40 đầu mối nay còn 19 25. Ở cấp huyện từ 20 - 25 đầu mối, nay còn 8 - 12 đầu mối.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá X, cơ cấu tổ
chức bộ máy của Chính phủ được sắp xếp cho phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ mới, tinh gọn hơn,
tổng hợp hơn. Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước đã có sự đổi mới về chức năng, nhiệm
vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy gắn với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, làm rõ hơn
chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ và các Bộ; phân biệt rõ hơn quản lý hành chính nhà
nước với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã tiến hành
cải cách thể chế, tập trung cải cách thủ tục hành chính, nhất là trong lĩnh vực liên quan đến sản
xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân.
2.4. Các cơ quan tư pháp
Hệ thống tổ chức của toà án bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân tỉnh
thành phố trực thuộc Trung ương, các toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh; các toà án quân sự; các toà án khác do luật định. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể
quyết định hình thành toà án đặc biệt.
Hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
các viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các viện kiểm sát nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các viện kiểm sát quân sự.
Hệ thống các toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án đã được kiện

toàn và đổi mới một bước về tổ chức và hoạt động, về phối hợp đấu tranh phòng chống tội
phạm, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động và các vụ án khác, góp
phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
Các tổ chức bao gồm Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu
chiến binh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở cùng với các tổ
chức quần chúng khác đã từng bước đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục
7


một bước tình trạng hành chính hoá, coi trọng nhiệm vụ tập hợp và giáo dục vận động đoàn
viên, hội viên và nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần xây dựng
Đảng, chính quyền, đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất xoá đói giảm nghèo, giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Những ưu điểm nổi bật trong việc đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính
trị ở nước ta sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, 5 khoá X (Thông báo kết luận số
39- TB/TW ngày 14/6/2011 của Bộ Chính trị) là:
- Từng bước sắp xếp, kiện toàn hợp lý hơn tổ chức, bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn. Số lượng đầu mối các
bộ, ban, ngành giảm.
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức lãnh đạo, mối quan hệ, lề lối làm việc
của cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội được quy định cụ thể
hơn, điều chỉnh, bổ sung hợp lý, phân định rõ ràng hơn theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”. Về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ của các ban đảng ở Trung ương,
nhất là các ban có sự sắp xếp, kiện toàn đã phù hợp với cơ cấu tổ chức mới, không trùng lắp,
chồng chéo. Chức năng, nhiệm vụ các bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục được hoàn thiện, khắc
phục cơ bản sự trùng dẫm, các bộ được tổ chức theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã
hoạt động ổn định, cơ chế phối hợp tốt hơn, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên, phân biệt rõ hơn
chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, tách dần hoạt động
hành chính với hoạt động của các đơn vị kinh tế, sự nghiệp và dịch vụ công.

- Tổ chức đảng đoàn, ban cán sự đảng đã được xác định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ,
tổ chức và hoạt động.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhìn chung được nâng lên một bước về trình độ
lý luận chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ. Đa số cán bộ, công chức giữ gìn phẩm chất
chính trị và đạo đức, lối sống, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, thích ứng dần
với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Những tiến bộ đó đã góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng,
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị- xã hội.
Những khuyết điểm, tồn tại chủ yếu:
- Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và đoàn thể chính trị- xã hội chưa thực sự
tinh gọn, hiệu quả. Việc thành lập các tổng cục, cục thuộc tổng cục nhằm đáp ứng yêu cầu quản
lý sâu chuyên ngành, nhưng chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp, quy chế làm việc chưa đủ
rõ nên hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao; nhiều cơ quan tăng số lượng lãnh đạo cấp phó, kể
cả nơi không hợp nhất tổ chức; chức năng đại diện chủ sở hữu còn trùng lặp, chưa rõ trách
nhiệm; cải cách hành chính có tiến bộ nhất định, nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu;
cải cách tư pháp chậm, chưa đồng bộ.
- Việc thực hiện chức năng tham mưu và thẩm định về kinh tế -xã hội, nội chính ở Trung
ương và địa phương có phần còn bất cập; việc quản lý, kiểm tra, giám sát trên một số lĩnh vực
8


kinh tế, xã hội còn lỏng lẻo, thậm chí còn không nắm chắc tình hình; những khó khăn, vướng
mắc chậm được tháo gỡ.
- Nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp uỷ và tổ chức đảng đổi mới chậm. Nhiều
cấp uỷ địa phương và cơ sở vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay, hoặc có mặt lại buông lỏng
vai trò lãnh đạo. Tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra, giám sát vẫn là khâu yếu; tình trạng
ra nhiều nghị quyết, nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo nhưng việc cụ thể hoá thường chậm, còn
tình trạng chấp hành không nghiêm. Hệ thống thể chế, quy định, quy chế tuy được rà soát, bổ
sung nhưng vẫ còn những chồng chéo. Mô hình tổ chức bộ máy, hệ thống luật pháp chưa phân

định thất ró chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, chưa phản ánh hết đặc điểm của
chính quyền đô thị, nhất là các đô thị lớn, kinh tế- văn hoá- xã hội phát triển nhanh. Việc xác
định chức năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
chức năng quản lý nhà nước,quản lý của chủ sở hữu của các bộ, các địa phương còn nhận thức
khác nhau, có nhiều sơ hở, hiệu quả thấp.
- Tổ chức, bộ máy của Mặt trận và các đoàn thể còn tình trạng nhà nước hoá về tổ chức
và kinh phí, hành chính hoá về phương thức hoạt động, cán bộ đoàn thể làm việc gần như công
chức nhà nước, khiến cho công tác của các đoàn thể thiếu sự gắn bó mật thiết với quần chúng.
Chưa có tiêu chí rõ ràng để phân định các loại hình tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội… bên cạnh một số hình thức tổ chức tự quản của quần chúng, nhiều hội
có tính chất nghề nghiệp và từ thiện cũng yêu cầu Nhà nước chi trả sinh hoạt phí, cấp kinh phí
và phương tiện hoạt động.
- Mục tiêu tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
đến nay, biên chế khối đảng và đoàn thể, hành chính, sự nghiệp Nhà nước và khối đảng, đoàn
thể vẫn có xu hướng tăng lên nhưng chất lượng cán bộ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đội
ngũ cán bộ vừa thừa vừa thiếu. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tăng về số lượng, nhưng
chất lượng còn nhiều hạn chế, nhất là đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh của cán bộ, công chức.
Cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn bất cập. Một bộ phận cán bộ, công chức
yếu kém về tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân.
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI, KIỆN TOÀN TỔ CHỨC, BỘ MÁY CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ
Ngày nay, khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, yêu
cầu khách quan là phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống
chính trị ở nước ta cho phù hợp và đồng bộ với cơ chế quản lý kinh tế - xã hội mới, nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Trước hết, yêu cầu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải
có một hệ thống chính trị phù hợp : Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta
phải nhằm phục vụ có hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành thông suốt nền kinh
tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển văn hoá – xã hội, an ninh – quốc

phòng. Mục tiêu là trong thập kỷ tới đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ
9


rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thứ hai, đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nhằm khắc phục cho được
những yếu kém tồn tại mà Đảng ta đã chỉ ra là tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều đầu mối
với nhiều tầng nấc trung gian, chất lượng, hiệu quả thấp, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và
trách nhiệm của nhiều cơ quan và người đứng đầu chưa thật rõ, cơ chế vận hành và nhiều mối
quan hệ còn bất hợp lý, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn và
tinh thần trách nhiệm... Tệ quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng không giảm, có mặt còn rất
nghiêm trọng; trật tự kỷ cương bị vi phạm.
Thứ ba, các thế lực phản động và thù địch tiếp tục thực hiện những âm mưu và thủ đoạn
thâm độc chống phá nước ta, đặc biệt là âm mưu “ diễn biến hoà bình” “ bạo loạn lật đổ”
nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì vậy đổi mới tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị nhằm khắc phục tình trạng trì trệ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của tổ chức đảng, bộ máy Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội; ngăn chặn những tư
tưởng và hành động sai trái, tiêu cực; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá
của các thế lực thù địch.
IV. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC CƠ BẢN KIỆN TOÀN TỔ CHỨC BỘ
MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA
1. Quan điểm
- Việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính
trị nước ta vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” do một
Đảng duy nhất lãnh đạo; phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giữ
vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy phải bảo đảm các cơ quan trong hệ thống chính trị hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng quan liêu, trùng lặp, chống chéo về chức

năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống
chính trị.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy phải bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng trong hệ thống chính trị nước ta; vừa xây dựng các cơ quan của Đảng vững mạnh, đủ
sức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, vừa phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng
và đảng viên trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận tổ quốc, đoàn thể chính trị xã hội.
- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải vừa kế thừa những thành quả và kinh nghiệm
đã đạt được, vừa đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Mục tiêu
Kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị phải thực hiện được mục tiêu tổng quát
là:

10


“Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, bản chất cách mạng của Nhà nước
ta, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, mở rộng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, tăng cường tiềm lực quốc gia, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, củng cố mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân”.
Mục tiêu, yêu cầu cụ thể là phải từng bước nâng cao chất lượng chính trị và hiệu quả
hoạt động của mỗi tổ chức cũng như toàn hệ thống chính trị; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, lề lối làm việc; nâng cao chất lượng cán bộ, tăng cường kỷ
luật, kỷ cương; cụ thể hoá nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, nội dung và phương thức
quản lý của Nhà nước , nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
3. Nguyên tắc cơ bản kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta
Một là, việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị phải xuất
phát từ đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong thời kỳ mới, phục vụ có hiệu quả cho sự

nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.
Hai là, đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị là một nhiệm vụ lớn,
nặng nề và phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Vì vậy, phải tiến hành vừa kiên
quyết, vừa thận trọng, có bước đi thích hợp, phải bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống
nhất của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước. Phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân
chủ trong đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đồng thời bảo đảm cho tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Ba là, kiện toàn hệ thống tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới tổ chức bộ máy của các
cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội.
Tổ chức bộ máy của Đảng phải phù hợp với điều kiện của một đảng cầm quyền, giữ vai trò
lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; tổ chức bộ máy chuyên trách phải tinh gọn, có chất lượng.
Phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, các cấp uỷ viên và cán bộ chủ chốt
hoạt động trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể vừa là hạt nhân lãnh đạo chính trị của các
tổ chức đó, vừa làm tham mưu cho Đảng về chủ trương, chính sách đối với những lĩnh vực có
liên quan. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng theo chức danh, tiêu chuẩn quy định.
- Đổi mới, kiện toàn bộ máy của Nhà nước phải bảo đảm tiến tới xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, là công cụ chủ yếu để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm được nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội
để thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định
11


và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước.
- Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chínhphủ theo hướng
thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc

phòng, an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh,
đồng bộ.
- Cải cách tổ chức và nâng cao chất lương hoạt động của các cơ quan tư pháp để thực
hiện tốt chức năng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra oan sai.
- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội phải bảo đảm từng bước khắc phục tình trạng hành chính hoá,
phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân; phát huy tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh, tập hợp khối đại đoàn
kết toàn dân phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bốn là, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống
chính trị phải kết hợp chặt chẽ cả ba mặt: Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán
bộ, đảng viên;
- Có chế độ, chính sách đúng đắn, hợp lý và đồng bộ để bảo đảm thực hiện tốt chủ trương
của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh giản biên chế,
không gây xáo trộn và ảnh hưởng lớn tới tư tưởng và đời sống của cán bộ, công chức.
- Đề cao kỷ cương, kỷ luật, chấp hành nghiêm túc chủ trương, nghị quyết của Đảng về
đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Có chính sách động viên khen thưởng
những nơi tổ chức thực hiện tốt, phê bình xử lý nghiêm túc những nơi không chấp hành hoặc
hiệu quả tổ chức thực hiện kém.
V. GIẢI PHÁP CƠ BẢN KIỆN TOÀN TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở
NƯỚC TA
Văn kiện Đại hội XI nêu yêu cầu tổng quát :
“ Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các tổ chức trong hệ
thống chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để có
chủ trương phù hợp. Kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ
làm công tác tham mưu, nhất là ở cấp chiến lược”.
1. Đối với các tổ chức đảng
Tổng kết đánh giá đúng thực trạng, đề ra các giải pháp củng cố và đổi mới mô hình tổ
chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất là đảng đoàn, ban cán sự đảng. Tập
trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường

cán bộ ở nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mắt đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng
sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, các
12


cấp uỷ đến Ban Chấp hành Trung ương. Chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tổ chức, sinh hoạt đảng.
2. Đối với Quốc hội
Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội nhằm
thực hiện tốt chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn và bầu những người
thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng cường hợp lý số
đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách. Tổ chức lại một số uỷ ban của Quốc hội theo hướng
chuyên sâu hơn. Cải tiến, nâng cao chất lượng đại biểu hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ
ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội. Đổi mới quy trình xây dựng
luật, tiếp tục giảm việc ban hành pháp lệnh.
Trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp,
đổi mới quy trình xây dựng luật, nâng cao chất lượng luật, pháp lệnh mới ban hành. Bảo đảm
để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, làm tốt
chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách
Nhà nước…hoàn thiện quy chế về vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội chuyên trách.
Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ba cấp. Tiếp tục
hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
7. Đối với Chủ tịch nước
Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện tốt
nhiệm vụ, quyền hạn nguyên thủ quốc gia theo quy định của Hiến pháp, thay mặt Nhà nước về
đối nội, đối ngoại và thống lĩnh lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
8. Đối với Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành

chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn,
hợp lý, tăng cường tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của Chính phủ, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước trong giai đoạn mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ. Trọng tâm là điều chỉnh để làm rõ và thực hiện đúng
chức năng của các cơ quan quản lý Nhà nước, khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lắp về
chức năng, nhiệm vụ; cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất
quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ. Định
rõ quyền và trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan trực thuộc Chính phủ và chính quyền
địa phương( quyền quyết định hành chính của Thủ tướng, bộ trưởng, chủ tịch UBND). Định rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ theo hướng bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên
phạm vi toàn quốc. Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương,
kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ. Tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân, kiện
toàn các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp xã, phường, thị
13


trấn. Nghiên cứu tổ chức, thẩm quyền của chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tiếp tục
thực hiện chủ trương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân ở một số quận, huyện, phường.
Sớm tổng kết, đáng giá việc thực hiện chủ trương sắp xếp các bộ, sở, ban ngành quản lý
đa ngành, đa lĩnh vực để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính và thực hiện tốt cơ chế “một cửa”, giảm
mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân, coi đây là nhiệm
vụ thường xuyên của tất cả các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
Thực hiện triệt để việc tách quản lý hành chính Nhà nước với quản lý sản xuất, kinh
doanh và quản lý hoạt động của tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công.
9. Đối với các cơ quan tư pháp
Văn kiện Đại hội XI nêu nhiệm vụ trọng tâm :
“Đẩy mạnh chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong

sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách,
pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp,
bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng
cơ quan và chức danh tư pháp”.
Đổi mới hệ thống tổ chức toà án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động
xét xử là trọng tâm của cải cách hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án đối
với các khiếu kiện hành chính.
Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức toà án, bảo đảm các điều kiện
để viện kiểm sát các cấp nâng cao hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp, tăng cường trách nhiệm công tó trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà.
Sắp xếp kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu
mối; xác định rõ hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt động trinh sát trong đấu tranh phòng
chống tội phạm. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn các tổ chức bổ trợ tư pháp.
10. Đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
Kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong mỗi tổ chức, chú trọng
ở hai cấp Trung ương và cơ sở; khắc phục tình trạng “hành chính hoá”; đổi mới phương thức
hoạt động, đảm bảo đúng tôn chỉ, mục đích, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở; chăm lo một
cách thiết thực quyền lợi chính đáng và hợp pháp của hội viên, đoàn viên, tham gia phong trào
thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng,chính quyền và quản lý xã hội; cụ thể hoá cơ chế
dân chủ đại diện, tư vấn, giám sát của Mặt trận và các đoàn thể đối với hoạt động của Nhà
nước.
11. Đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong
các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
Văn kiện Đại hội XI nêu :
14


“Rà soát, bố sung hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức

năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công
khai, minh bạch trách nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo. chỉ đạo điều hành,
quản lý nhà nước”.
Trên cơ sở định kỳ đánh giá và phân loại đúng đội ngũ cán bộ, công chức, tăng cường
đào tạo, đào tạo lại và kịp thời thay thế những người không hoàn thành nhiệm vụ. Lập quỹ
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong quy hoạch, nhất là về chuyên môn, ngoại ngữ,
tin học, quản lý hành chính và pháp luật quốc tế.
Thực hiện việc điều động, luân chuyển cán bộ; coi trọng việc sử dụng chuyên gia, cán bộ
có phẩm chất chính trị tốt, giỏi chuyên môn, có kiến thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, có
năng lực nghiên cứu, tổng kết để tăng cường cho các cơ quan đảng.
Tiếp tục rà soát, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức và xác định chức danh, tiêu
chuẩn của từng cán bộ, công chức; trên cơ sở đó, xác định lại định mức biên chế, tinh giản biên
chế ở các bộ phận trùng lắp, thực hiện giao biên chế theo định kỳ 5 năm. Tiếp tục chuyển đổi
cơ chế quản lý biên chế theo hướng thực hiện hợp đồng đối với các công việc phục vụ thay cho
việc tuyển vào biên chế.
Mức biên chế của từng cơ quan, đơn vị, ở các ngành và địa phương phải dựa trên cơ sở
xác định nội dung và khối lượng công việc cụ thể và tiêu chuẩn các chức danh, cơ cấu cán bộ,
công chức hợp lý.
Thí điểm việc khoán biên chế và khoán chi phí hành chính ổn định để khuyến khích việc
giảm biên chế và tiết kiệm chi phí hành chính ở các cơ quan, đơn vị. Khắc phục tình trạng tăng
biên chế để tăng thêm ngân sách.
Thực hiện chế độ thuê, khoán, hợp đồng một số loại dịch vụ trong cơ quan hành chính
thay cho việc tuyển người vào biên chế.
Phân định rõ biên chế trong bộ máy hành chính với biên chế trong các đơn vị sự nghiệp,
kinh tế, dịch vụ công; thí điểm việc xã hội hoá một số lĩnh vực dịch vụ, y tế, giáo dục, khoa học
và hoạt động văn hoá, thể thao… đổi mới chế độ tiền lương, nâng cao thu nhập của những
người làm việc trong các lĩnh vực này gắn với nâng cao kết quả và chất lượng hoạt động.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc thi tuyển công chức vào cơ quan đảng, nhà nước,
đoàn thể chính trị - xã hội; thi nâng ngạch cán bộ, công chức; chú trọng đào tạo và đào tạo lại

cán bộ, công chức, cập nhật kiến thức mới nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tăng cường công tác tư tưởng; thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ, công chức trong
quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy, bảo đảm không ảnh hưởng đến đời sống và thu nhập của cán
bộ. Chính phủ chỉ đạo sửa đổi, bổ sung chính sách về tinh giản biên chế, tiếp tục đổi mới chính
sách tiền lương, bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu đổi mới, kiện
toàn và nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội.
15


Ban hành và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức nhất là chính
sách đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đồng thời chú trọng giải
quyết thoả đáng chính sách đối với cán bộ, công chức dôi ra trong quá trình sắp xếp lại, bảo
đảm thực hiện việc tinh giản bộ máy và biên chế, không ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và đời
sống của cán bộ, công chức.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG
VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY
(Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên chính khối Đảng, đoàn thể năm 2012)
( Nguồn: ).

Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN
VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN
1. Một số vấn đề về lý luận
“Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị
đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước
nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Đối với Đảng ta, khái niệm “Đảng cầm quyền” là để

chỉ vai trò của Đảng khi Đảng đã giành được chính quyền; Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng
chính quyền, thông qua chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra. Sau này Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã sử dụng các thuật ngữ để nói về vai trò cầm quyền của Đảng như: Đảng giành
được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong
Di chúc dặn lại, Bác viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Trong Điều lệ Đảng được Đại hội X
của Đảng thông qua cũng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”.
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền khác rất nhiều
so với khi chưa có chính quyền.
Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các tổ chức đảng
và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương đến các hội, đoàn thể, quần
chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng. Quan hệ của Đảng với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân
đều có thể dẫn đến tổn thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và
đảng viên. Trong điều kiện chưa có chính quyền, trong Đảng không có điều kiện để phát sinh,
phát triển các tệ nạn như quan liêu, mệnh lệnh, ức hiếp quần chúng.
Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất để đưa đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với
16


toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết
phục nhân dân, Đảng lãnh đạo chính quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch… và tổ chức nhân dân thực hiện.
Thực chất của Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và thông qua chính quyền để
nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội. Trong điều kiện Đảng đã có chính quyền,
V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu
ngạo cộng sản. Ngay sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo
nguy cơ sai lầm về đường lối và suy thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần phải chiến
thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp

của một Đảng cầm quyền.
Trong quá trình cầm quyền của Đảng Cộng sản, việc tồn tại một đảng hay nhiều đảng ở
mỗi nước là do những điều kiện lịch sử - cụ thể quy định, không có khuôn mẫu chung cho tất cả
các nước, cũng như chung cho mọi giai đoạn, mọi thời kỳ trong phạm vi một nước. Ở Việt Nam
từ giữa 1947 đến năm 1988, ngoài Đảng Cộng sản lãnh đạo chính quyền, còn có Đảng Dân chủ
Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam tham gia chính quyền, nhưng hai Đảng trên đều thừa nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ tháng 11/1988 đến nay, Việt Nam chỉ còn lại
duy nhất một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở Cu Ba, Lào cũng chỉ có một đảng cầm
quyền. Ở Trung Quốc, ngoài Đảng Cộng sản cầm quyền, còn 8 đảng phái dân chủ tham chính,
nhưng vẫn chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
2. Thuận lợi và nguy cơ đối với Đảng cầm quyền
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi giành được chính quyền đến nay, nhất là
từ những bài học kinh nghiệm xương máu về sự đổ vỡ của các Đảng Cộng sản và Công nhân ở
các nước trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời rút ra bài học kinh nghiệm cho
mình. Là một Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng có nhiều thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có những
nguy cơ tiềm ẩn cực kỳ nguy hại, có thể làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng bất cứ lúc nào.
a) Những thuận lợi đối với Đảng cầm quyền
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, không có các đảng chính trị đối
lập nên không có sự cạnh tranh về vai trò lãnh đạo của Đảng;
- Đảng hoạt động một cách công khai, hợp pháp, hợp hiến; vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với đất nước đã được nhân dân thừa nhận trong thực tế và được quy định tại Điều 4 của Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam;
- Đảng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, một công cụ
đắc lực, mạnh mẽ và sắc bén để Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội và có
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Qua 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhân dân và cả dân
tộc Việt Nam thừa nhận là người tổ chức, lãnh đạo và quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Đảng được nhân dân tin yêu, che chở, bảo vệ và coi Đảng là Đảng của mình.
17



- Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ với các Đảng Cộng sản và Công
nhân quốc tế; ngoài ra, Đảng còn có quan hệ với nhiều đảng cầm quyền khác trên thế giới; có
sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè và nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên
thế giới.
b) Nguy cơ đối với Đảng cầm quyền
Sau khi trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vạch rõ những suy
thoái của một số cán bộ, đảng viên và cảnh báo hai nguy cơ đối với một Đảng cầm quyền: một
là, sai lầm về đường lối; hai là, sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII
của Đảng thông qua (năm 1991), Đảng lại nhấn mạnh đến hai nguy cơ này và đến Hội nghị đại
biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng (1/1994), Đảng đã bổ sung và xác định có 4 nguy cơ
đối với Đảng và cách mạng Việt Nam lúc này là:
- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do
điểm xuất phát thấp.
- Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nguy cơ về tệ nạn tham nhũng và tệ quan liêu, lãng phí.
- Nguy cơ “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Trong 4 nguy cơ đó, có hai nguy cơ bên trong rất nguy hại và nó chính là chỗ dựa để cho
những nguy cơ từ bên ngoài tấn công vào Đảng. Cụ thể là:
- Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa là nguy cơ có thể
xảy ra bất cứ lúc nào, đặc biệt là khi có những biến động lớn ở trong nước cũng như trên thế
giới và trong những bước ngoặt của cách mạng. Tuy nhiên, nguy cơ này chỉ diễn ra ở cấp lãnh
đạo cao nhất của Đảng, bởi đây là cấp hoạch định ra đường lối. Vì vậy, việc xây dựng một tập
thể lãnh đạo cao nhất của Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ của cách mạng là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của Đảng, bởi vì nếu cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng vững vàng, kiên
định về đường lối thì dù có một số cấp lãnh đạo ở địa phương có chệch hướng điểm này, điểm
khác thì cũng không làm lay chuyển được sự lãnh đạo của Đảng.
- Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tệ nạn quan liêu,

xa dân, tham nhũng, lãng phí. Đây là nguy cơ nguy hiểm nhất và có thể xảy ra bất cứ lúc nào,
bởi vì, khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, một bộ phận đáng kể cán bộ, đảng viên trở
thành những cán bộ có chức, có quyền trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Đây là
điều kiện dễ làm cho cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, chạy theo chức, quyền, danh, lợi,
dẫn đến phai nhạt lý tưởng, tham nhũng, xa rời nhân dân và dễ xa vào những tệ nạn mà khi
Đảng chưa giành được chính quyền không có được. Những tệ nạn này không chừa một ai và bất
kỳ cán bộ đó làm gì, ở lĩnh vực nào, ở cấp cao hay thấp, nếu cán bộ đó không kiên trì học tập,
tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng thì đều có thể mắc phải.
Trong điều kiện mới hiện nay, nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống,
đặc biệt là tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân diễn ra rất tinh vi, phức tạp và ngày càng
trở nên nghiêm trọng. Sự suy thoái, biến chất không chỉ diễn ra riêng lẻ và đối với những đảng
18


viên thường, mà có nơi, có lúc đã trở thành số đông có tính chất tập thể, thậm chí có cả một tổ
chức, một cấp uỷ và xảy ra đối với cả một số cán bộ có trình độ cao, có những người giữ chức
vụ chủ chốt trong bộ máy của Đảng hoặc cơ quan quản lý của Nhà nước. Đây thực sự là nguy
cơ “diễn biến từ bên trong” đặc biệt nguy hại không thể coi thường.
Những nguy cơ mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng chỉ ra, đến nay
vẫn còn nguyên tính thời sự, nó không còn là nguy cơ nữa mà đã trở thành những thách thức
hiển hiện trong thực tế và càng ngày càng trở nên bức thiết đối với công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢNG
1. Quá trình cách mạng của Đảng
Từ ngày thành lập (3/2/1930) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi
vĩ đại: Thắng lợi của Cánh mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân,
phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam), Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc Việt Nam tiến vào kỷ nguyên

độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ, năm 1954, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ
quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, đưa đất nước tiếp tục quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã giành được trong 80 năm qua đều gắn liền
với quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong hơn 80 năm qua, với hơn 65 năm cầm quyền, trong đó có 25 năm thực hiện
sự nghiệp đổi mới, Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia
độc lập, tư do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; đất nước đã thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; có quan hệ quốc tế
rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
2. Bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng
Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng đã xác định như sau:
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc.
- Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam hoà bình, độc lập, dân giầu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối
cùng là chủ nghĩa cộng sản.
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân
19


loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương
lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
3. Nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy
tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,

đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình; đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh
chính trị và Điều lệ Đảng; gắn bó mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn;
bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận động; bằng công tác tổ chức, cán bộ và kiểm tra; bằng sự
gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên.
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những
đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính
trị. Đảng tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào
dân để xây dựng Đảng..
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh
đạo, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp
công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
của nhân dân thế giới.
4. Về hệ thống tổ chức của Đảng và đảng viên hiện nay
Để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, các tổ chức
đảng được thành lập ở mọi nơi, ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực hoạt động của đời sống
xã hội từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Hệ thống tổ chức cơ bản của Đảng được thành
lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước gồm 4 cấp: cấp trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở. Ngoài ra, tổ chức đảng còn được lập ra ở những nơi có đặc điểm
riêng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Hiện nay, toàn Đảng có 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm 58 đảng bộ tỉnh, 05
đảng bộ thành phố, 04 đảng bộ trực thuộc Trung ương. Có gần 1.300 đảng bộ cấp huyện và
tương đương (gần 700 đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và gần 600 đảng bộ
tương đương là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng).
Toàn Đảng có hơn 57.000 tổ chức cơ sở đảng, với hơn 23.000 đảng bộ cơ sở và hơn
34.000 chi bộ cơ sở; hơn 1.600 đảng bộ bộ phận, hơn 241.000 chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở
với tổng số hơn 3,9 triệu đảng viên. Có 5 loại hình tổ chức cơ sở đảng cơ bản là: Tổ chức cơ sở

đảng xã, phường, thị trấn; tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp (trong đó có nhiều loại hình
doanh nghiệp); tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính; tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị
sự nghiệp và tổ chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang.
20


Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là trong 10 năm gần đây, số lượng
tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong các loại hình cơ sở tăng nhanh và chất lượng không
ngừng được nâng lên. Nhiều tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình đã phát huy vai trò lãnh đạo
và là hạt nhân chính trị ở cơ sở; có nhiều mô hình mới và điển hình tiên tiến, lãnh đạo thực hiện
tốt nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước.
Số lượng đảng viên trong những năm gần đây tăng nhanh, bình quân mỗi năm toàn Đảng
kết nạp hơn 170.000 đảng viên mới, trong đó số đảng viên trẻ, là Đoàn viên thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh chiếm hơn 60%; số đảng viên nữ, đảng viên là người dân tộc thiểu số ngày
càng tăng, làm cho tuổi bình quân của toàn Đảng giảm và cơ cấu đội ngũ đảng viên từng bước
chuyển dịch theo hướng tích cực.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số loại hình tổ chức cơ sở đảng có những thay
đổi: tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn tăng lên do chia, tách hoặc thành lập mới; tổ chức
cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước giảm dần và tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần
tăng lên do thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; một số loại hình tổ chức
cơ sở đảng có sự thay đổi về quy mô, hình thức tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp
với cơ chế quản lý kinh tế mới; một số loại hình tổ chức cơ sở đảng mới ra đời và đi vào hoạt
động.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua 25 năm thực hiện đổi mới, Đảng ta rút ra 5 bài học kinh nghiệm sau:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình hưống nào cũng phải kiên trì thực hiện đường lối
và mục tiêu đổi mới. Trong quá trình đổi mới, phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với bước đi thích hợp. Tích cực, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, giữ vững
truyền thống và bản sắc văn hoá. Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật,
kỷ cương.
Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững.
Tăng cường huy động phải gắn với sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước.
Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời với xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất, củng cố
và tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, Phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh,
tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao. Nâng cao
năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân.
21


Năm là, Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải rất nhậy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám
sát thực tiễn đất nước, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công
tác tuyên truyền tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn
xã hội.
IV. ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Trải qua hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, từ lãnh đạo cách mạng trong điều kiện chưa có
chính quyền đến khi trở thành Đảng cầm quyền; từ cầm quyền khi có nhiều đảng phái tham
chính đến khi trở thành một đảng duy nhất cầm quyền; từ cầm quyền một nửa nước đến cầm
quyền trong cả nước; từ lãnh đạo chiến tranh là chủ yếu đến lãnh đạo xây dựng đất nước trong
hoà bình. Mỗi thời kỳ của cách mạng đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải thay đổi cho phù hợp
với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, của tình hình trong nước và ngoài nước. Điều này đã
được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử, qua các giai đoạn, thời kỳ Đảng lãnh đạo cách mạng

Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới đất nước, việc xây dựng Đảng diễn ra trong những điều kiện
khác hẳn trước. Nền kinh tế nước ta chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động trong môi trường kinh tế thị
trường đòi hỏi ở Đảng sự kiên định, năng động, nhạy bén, đồng thời có sức đề kháng cao trước
những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bước vào thời kỳ mới, Đảng lãnh đạo
Nhà nước, nhưng Đảng không làm thay công việc của Nhà nước, mà xây dựng Nhà nước vững
mạnh, để Nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành luật pháp,
thành các các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức thực hiện. Nhà nước
phải quản lý đất nước theo pháp luật và bảo đảm hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là quan điểm cơ bản đã được Đảng
ta nêu ra từ lâu, nhưng thực hiện vẫn còn hạn chế. Hơn nữa, trình độ dân trí ngày càng được
nâng cao, ý thức về trách nhiệm và quyền công dân càng đòi hỏi phải đẩy mạnh việc xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nó cũng đòi hỏi Đảng ta phải thay đổi nhận thức, thay đổi
phương thức lãnh đạo cho phù hợp.
Tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường, các quan hệ quốc tế đang
diễn ra rất phức tạp. Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, với hai mặt tích cực và tiêu
cực. Nước ta đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đòi hỏi Đảng phải thường xuyên đổi
mới phương thức lãnh đạo cho phù hợp.
1. Kết quả đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
a) Thành tựu
Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) đã khẳng định: “Những đổi mới trong phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị đã góp phần nâng cao hơn hiệu
quả lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tốt hơn vai trò quản lý của Nhà nước theo quy định
của pháp luật, nâng cao hơn chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, đóng
góp tích cực vào những thành tựu chung của đất nước”. Cụ thể là:
22



- Nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo và ý nghĩa, tầm quan trọng của đổi mới
phương thức lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng rõ hơn.
Cương lĩnh năm 1991 xác định: Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận
động; bằng công tác tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới
thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh
đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị.
Qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và qua các kỳ Đại hội, nhận thức về phương thức
lãnh đạo của Đảng ngày càng rõ và đầy đủ hơn: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền,
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về
chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm
tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt
động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng
và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm
cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng phải thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời
phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác và
người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị.
- Những đổi mới về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội là định hướng chính trị cho đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị nước ta
trong những năm qua.
+ Đảng đặc biệt coi trọng việc thể chế hoá, cụ thể hoá quan điểm, chủ trương đường lối
thành luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước.
+ Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội trong các hoạt động lập pháp, giám sát tối cao
và việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
+ Định hướng cho việc ban hành cơ chế, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… của Chính phủ.
- Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, thực hành công

khai, dân chủ trong Đảng và trong xã hội; phát huy và thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của
nhân dân; phát huy tính năng động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội.
- Việc lập đảng đoàn, ban cán sự đảng, giới thiệu những đảng viên của Đảng vào các vị
trí lãnh đạo chủ chốt của các hệ thống chính trị, củng cố tổ chức cơ sở đảng và phát huy vai trò
quản lý, giám sát của tổ chức đảng đối với đảng viên, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của
đảng viên đã có tác động tích cực đến việc giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.

23


- Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã được tăng cường. Đảng lãnh đạo, phối hợp
sự kiểm tra, giám sát của Đảng với của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đối
với các tổ chức trong hệ thống chính trị và cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về trách nhiệm đối với công việc và
thái độ phục vụ nhân dân.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ và phong cách, lề lối làm việc
của các cấp uỷ và đảng viên có đổi mới theo hướng khoa học, công khai, dân chủ, sát cơ sở
hơn.
b) Hạn chế, khuyết điểm
Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) cũng nhấn mạnh: Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị mà trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm và lúng túng. Cụ
thể như sau:
Một là, vẫn còn tình trạng cấp uỷ bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với
hoạt động của hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực. Chậm ban hành những quy định cụ thể về
phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; về mối quan hệ công
tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Hai là, còn thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập
trung dân chủ, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, công tác cán bộ đổi mới

chậm; chất lượng công tác tư tưởng, tuyên truyền còn nhiều hạn chế.
Chậm cụ thể hoá tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho từng
chức danh cụ thể ở các cấp, các ngành.
Chất lượng công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm cán
bộ còn nhiều hạn chế; chính sách đãi ngộ với cán bộ còn bất cập.
Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng dụng
người có đức, có tài, thay thế kịp thời những người yếu kém về phẩm chất và năng lực.
Ba là, chưa thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc; tình trạng họp hành
nhiều, nói chưa đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu gương
mẫu còn diễn ra ở nhiều nơi.
c) Nguyên nhân
Nguyên nhân của thành tựu:
- Đường lối đổi mới đúng đắn và những thành tựu đạt được của đất nước trong hơn 25
năm qua đã đặt ra những yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và là cơ sở khoa học
để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Đảng ta ngày càng quan tâm, nhận thức rõ hơn ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, coi đổi mới phương thức lãnh đạo là một trong những
nhiệm vụ và giải pháp hàng đầu để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng.

24


- Trong quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo, Đảng ta vừa giữ vững những nguyên tắc
cơ bản của công tác xây dựng Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa bám sát thực tiễn
đất nước, tổng kết thực tiễn, phát huy dân chủ để tìm tòi, đổi mới một cách sáng tạo.
Nguyên nhân của hạn chế:
- Phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ chiến tranh và quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp còn ảnh hưởng đến ngày nay.
- Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng duy nhất cầm
quyền lãnh đạo công cuộc đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế… là vấn đề mới mẻ,
chưa có thực tiễn trong nước và trên thế giới, đòi hỏi phải tìm tòi, vừa làm, vừa rút kinh
nghiệm.
- Lý luận về Đảng cầm quyền, về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một
Đảng cầm quyền còn nhiều vấn đề chưa làm rõ, nhận thức còn khác nhau.
- Những hạn chế trong tổ chức bộ máy và yếu kém trong đội ngũ cán bộ đã tác động tiêu cực,
cản trở việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Chậm ban hành đầy đủ, đồng bộ các quy chế, quy định về sự lãnh đạo và phối hợp công
tác giữa các tổ chức đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị.
2. Một số vấn đề tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
a) Mục tiêu
Nghị quyết Trung ương 5 khoá X xác định mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị nhằm:
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao tính khoa học, năng lực và
hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với
nhân dân;
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội;
- Phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân;
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội;
- Đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng XHCN.
b) Quan điểm chỉ đạo
Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) nêu 4 quan điểm chỉ đạo về tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị như sau:
Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi
mới các mặt của công tác xây dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống
chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh
tế, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị
25



×