Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề CƯƠNG ôn THI môn GIÁO dục KIẾN THỨC QUỐC PHÒNG AN NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.16 KB, 35 trang )

Câu 1: Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng đối
với sự nghiệp quốc phòng - an ninh được thể hiện như thế nào. Ý nghĩa
thực tiễn?
Đặt vấn đề: Sự nghiệp quốc phòng, an ninh ở việt Nam do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý. Sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về quốc phòng, an ninh là tất yếu khách quan, là
nguyên tắc, qui luật trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. việc nghiên cứu nắm vững Đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách quản lý của Nhà nước Việt Nam về quốc phòng, an ninh là vấn đề rất
quan trọng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng đối với sự
nghiệp quốc phòng - an ninh được thể hiện Đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc
phòng, an ninh trên cả nước
Nguyên tắc lãnh đạo: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và đối với sự
nghiệp quốc phòng, an ninh. Nguyên tắc trên đây chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt
Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh, không
chia quyền, không nhường quyền lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh cho
bất cứ một đảng phái, một tổ chức, cá nhân nào; không thông qua một tổ chức
trung gian nào; Đảng lãnh đạo mọi mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, mọi
hoạt động, mọi nhiệm vụ của sự nghiệp quốc phòng, an ninh trong bất kỳ điều
kiện, hoàn cảnh nào, bất kỳ ở đâu.
Điều lệ Đảng quy định “sự lãnh đạo của Đảng được tập trung thống nhất
vào Ban chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban
Bí thư”. Việc giữ vững và thực hiện đúng nguyên tắc cơ bản trên đây là điều
kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc XHCN.
Nội dung lãnh đạo: Đảng định ra đường lối, chủ trương, chính sách,
mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh cho phù hợptừng giai đoạn cách



mạng, như: Đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Đường lối xây dưng cơ sở chính trị xã hội vững mạnh. Đường lối xây dưng
lực lượng vũ trang nhân dân (quân đội nhân dân, công an nhân dân cách
mạng, chính qui…). Đường lối kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh.
Đường lối phát triển khoa học quân sự, nền công nghiệp quốc phòng, an ninh
của đất nước…
Phương thức lãnh đạo: Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp quốc phòng, an ninhlà: Đảng xây dựng, hoạch định và lãnh đạo tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương chiến lược, nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh, xác định nguyên tắc tổ chức, cơ chế lãnhđạo của Đảng đối với sự nghiệp
quốc phòng, an ninh và đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ
sở để thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối quan điểm về quốc phòng, an ninh của
Đảng thành Hiến pháp, luật pháp và hệ thống chính sách; lãnh đạo hoạt động
quản lý điều hành công tác quốc phòng, an ninhtrong phạm vi cả nước, ở các
cấp, các ngành và địa phương.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninhvà đối
với quân đội, công an bằng hệ thống tổ chức đảng và phát huy phát huy vai
trò trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Đảng lãnh đạo hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị
xã hội từ Trung ương đến cơ sở để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.Đảng tiến hành công tác kiểm
tra, giám sát việc lãnh đạo chấp hành và tổ chức thực hiện các đường lối, chủ
trương, chính sách ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở nhằm tăng
cường hiệu lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý điều hành của Nhà
nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Ý nghĩa thực tiễn
Câu 2: Nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng. Một số vấn đề đặt

ra đối với CMVN?
Quản lý Nhà nước về quốc phòng


Quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh là quá trình nắm và điều
hành bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch và các công cụ khác của Nhà
nước trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động xã hội có quan hệ đến việc giữ gìn,
bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, do hệ thống các cơ quan của bộ máy nhà nước (bao gồm cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp) từ Trung ương đến cơ sở tiến hành theo
chức năng, nhiệm vụ, phạm vi quyền hạn được pháp luật quy định.
Quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh là một nhiệm vụ, nội dung
trọng yếu của quản lý nhà nước.
Nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh
Quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh bao gồm những nội dung cơ
bản sau đây:
- Xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn
thực hiện công tác quốc phòng - an ninh: các cơ quan của bộ máy nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở tiến hành xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật về lĩnh vực quốc phòng - an ninh theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền được pháp luật quy định, đồng thời hướng dẫn tổ chức thực hiện công
tác quốc phòng - an ninh ở các bộ, ngành và địa phương.
- Lập quy hoạch, kế hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện công tác
quốc phòng - an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân
dân: các cơ quan của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở tiến hành lập
quy hoạch, xây dựng kế hoạch công tác quốc phòng - an ninh, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, đồng thời chỉ đạo triển khai thực
hiện các quy hoạch, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Thông tin, tuyên truyền, phổ biến các quy định của Hiến pháp, pháp
luật về lĩnh vực quốc phòng - an ninh: các cơ quan của bộ máy nhà nước từ

Trung ương đến cơ sở tiến hành các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ
biến các quy định của Hiến pháp, pháp luật về lĩnh vực quốc phòng - an ninh
cho cán bộ, công nhân viên chức ở các bộ, ngành và nhân dân các địa phương.
- Quy định và hướng dẫn thực hiện các chế độ, chính sách, kinh phí
bảo đảm cho công tác quốc phòng - an ninh: các cơ quan của bộ máy nhà
nước từ Trung ương đến cơ sở nghiên cứu xây dựng, ban hành các quy định
và hướng dẫn cán bộ, công nhân viên chức ở các bộ, ngành, nhân dân các địa
phương thực hiện các chế độ, chính sách, kinh phí bảo đảm cho công tác quốc
phòng - an ninh.
- Theo dõi, đốn đốc, tổ chức thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại,
tố cáo và xử lí vi phạm pháp luật về thực hiện công tác quốc phòng - an ninh:
các cơ quan của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở tiến hành theo
dõi, đốn đốc, tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác quốc phòng an ninh ở các bộ, ngành và địa phương; đồng thời giải quyết khiếu nại, tố cáo
và xử lí vi phạm pháp luật về thực hiện công tác quốc phòng - an ninh theo
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được pháp luật quy định.


- Sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác quốc phòng - an ninh:
các cơ quan của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở tiến hành sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác quốc phòng - an ninh, từ đó tham mưu
đề xuất, kiến nghị với Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng thực hiện
các biện pháp giải quyết, xử lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn công tác
quốc phòng - an ninh ở các bộ, ngành và địa phương.
Nhà nước thực hiện quản lý về quốc phòng - an ninh trên một số
mặt, lĩnh vực cụ thể là: quản lý mạng lưới tình báo quốc gia; quản lý biên
giới, hải phận, không phận; quản lý các hoạt động đối ngoại có quan hệ đến
quốc phòng - an ninh; quản lý kinh tế đối ngoại; quản lý thông tin quốc gia, bí
mật quốc gia; quản lý xây dựng lực lượng vũ trang; quản lý xây dựng công
nghiệp quốc phòng - an ninh; quản lý xây dựng tiềm lực quốc phòng - an
ninh; quản lý xây dựng thế trận quốc phòng- an ninh; quản lý các công trình

quốc phòng - an ninh, các khu quân sự; quản lý dự trữ quốc gia; quản lý công
tác phòng thủ dân sự; quản lý công tác bảo vệ chính trị nội bộ; quản lý trật tự,
an toàn xã hội.
Ngoài các nội dung cơ bản trên đây, quản lý nhà nước về quốc phòng an ninh còn phải thực hiện trên những lĩnh vực cụ thể khác như dân tộc, tôn
giáo, tư tưởng, văn hóa, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố v.v...
Phương pháp quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh
Phương pháp quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh là hệ thống các
biện pháp, cách thức điều hành nhằm thực hiện chức năng, thẩm quyền của cơ
quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh.
- Phương pháp tổ chức: Là phương pháp quản lý bằng cơ chế, quy chế
chặt chẽ, buộc mọi người phải hoạt động theo khuôn khổ, kỷ cương nhất định,
bao gồm nhiều biện pháp quan trọng như duy trì những quy định của luật
pháp, hướng dẫn triển khai thực hiện các quy chế, quy trình, nội dung hoạt
động của các cấp, ngành, địa phương, thực hiện chế độ kiểm tra, thanh tra, có
biện pháp xử lý, thưởng, phạt nghiêm minh.
- Phương pháp kinh tế: Là phương pháp tác động bằng lợi ích vật chất
nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm tham gia quản lý và tổ chức thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng - an ninh của mỗi tổ chức, mỗi cấp, mỗi
ngành và cá nhân; sử dụng những đòn bẩy kinh tế như lương, thưởng, phụ
cấp, chính sách kinh tế - xã hội... để tạo động lực thúc đẩy mọi người, mọi
cấp, ngành tự giác thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng - an ninh.
- Phương pháp hành chính: Là phương pháp sử dụng các biện pháp xử
lý theo thẩm quyền của cơ quan quản lý được pháp luật cho phép, trong đó cơ
quan, công chức và nhân viên nhà nước duy trì quản lý bằng các mệnh lệnh
hành chính, buộc các đối tượng thuộc quyền phải thực hiện; đối với các đối
tượng vi phạm, có thể tiến hành từ xử phạt hành chính đến truy cứu trách
nhiệm hình sự theo những quy định cụ thể của pháp luật.
- Phương pháp giáo dục, thuyết phục: Là phương pháp thông qua biện
pháp tuyên truyền, vận động, làm cho mọi người nhận thức rõ trách nhiệm,



nghĩa vụ của công dân đối với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, nâng cao lòng
yêu nước xã hội chủ nghĩa, trình độ kiến thức quốc phòng - an ninh, trên cơ
sở đó phát huy ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm của mọi người, mọi cấp,
mọi ngành trong quản lý điều hành và thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an
ninh.
Bốn phương pháp cơ bản trên đây cần được kết hợp chặt chẽ, trong đó
sử dụng thường xuyên và rộng rãi phương pháp giáo dục, thuyết phục, kết
hợp với các phương pháp tổ chức, kinh tế, hành chính trong những trường
hợp, điều kiện cụ thể cho phù hợp.

Câu 3: Thực trạng và những giải pháp nâng cao công tác quản lý nhà
nước về quốc phòng trong tình hình hiện nay ở nước ta?
Đặt vấn đề: Quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh là quá trình
nắm và điều hành bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch và các công cụ khác
của Nhà nước trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động xã hội có quan hệ đến việc
giữ gìn, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội, do hệ thống các cơ quan của bộ máy nhà nước (bao gồm
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp) từ Trung ương đến cơ sở tiến hành
theo chức năng, nhiệm vụ, phạm vi quyền hạn được pháp luật quy định.
1. Thực trạng
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác QLNN về quốc
phòng ở nước ta đã được triển khai toàn diện và đạt được những thành tựu
quan trọng. Nhà nước đã ban hành Luật Quốc phòng và từng bước xây dựng,
hoàn thiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) và chính sách về
quốc phòng; xây dựng các quy hoạch, kế hoạch củng cố, tăng cường nền quốc
phòng toàn dân (QPTD), kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc… Qua đó, tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, các quy hoạch, kế hoạch xây dựng
tiềm lực và thế trận QPTD, gắn thế trận QPTD với thế trận an ninh nhân dân;
tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh (QP-AN); chỉ

đạo đấu tranh quốc phòng và phát triển quan hệ đối ngoại quốc phòng…
Trong quá trình tổ chức thực hiện, công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra quốc
phòng được coi trọng, đã kịp thời phát hiện, giải quyết các khiếu kiện, tố cáo
liên quan đến luật pháp, chính sách về quốc phòng.
Tuy nhiên, công tác QLNN về quốc phòng ở nước ta vẫn còn những
mặt hạn chế, bất cập do tác động của tình hình mới, làm ảnh hưởng đến kết
quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Đó là, nhận thức và trách nhiệm quản lý
của các cấp, các ngành chưa thật đầy đủ. Việc ban hành, bổ sung, điều chỉnh
các VBQPPL chưa kịp thời, chưa bám sát sự phát triển của tình hình, có văn
bản đã lạc hậu, hoặc còn chồng chéo. Hệ thống tổ chức QLNN về quốc phòng
từ Trung ương đến các địa phương chưa chặt chẽ. Nội dung quản lý quốc
phòng chưa toàn diện, giải pháp thực hiện thiếu đồng bộ, nhất là ở một số bộ,


ngành. Công tác kiểm tra, thanh tra quốc phòng tiến hành có lúc, có nơi chưa
chủ động, thường xuyên; phát hiện, xử lý những sai phạm có trường hợp chưa
kịp thời, thiếu kiên quyết, triệt để. Song nhìn tổng thể, công tác QLNN về
quốc phòng đã tiến hành có hiệu quả, góp phần xây dựng, củng cố nền QPTD
ngày càng vững chắc, sức mạnh quốc phòng không ngừng được tăng cường.
Đó là cơ sở để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục xác định
mục tiêu, nhiệm vụ QP-AN của đất nước là: "bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới,
vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó
với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị
động, bất ngờ trong mọi tình huống”
Thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đó, công tác QLNN về quốc phòng ở

nước ta sẽ chịu tác động bởi các vấn đề toàn cầu, như: an ninh tài chính, năng
lượng, an ninh lương thực, gia tăng dân số, biến đổi khí hậu, môi trường,
thiên tai, dịch họa… Đồng thời, phải đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ
xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo, gây xung đột vũ
trang, khủng bố, gây rối, bạo loạn và chiến tranh xâm lược. Mặt khác, còn
phải thường xuyên đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, tội
phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông,
sinh học… Trong nước, cùng với những kết quả, kinh nghiệm quản lý, xây
dựng nền QPTD qua 26 năm đổi mới, công tác QLNN về quốc phòng còn
chịu tác động bởi nhiều khó khăn, thách thức đan xen. Đó là: “Nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn
tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí là nghiêm trọng”2. Như vậy, trong tình hình mới, QLNN về quốc phòng
có sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, tích cực và tiêu cực
ảnh hưởng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ QP-AN.
2. một số giải pháp chủ yếu sau:
Tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ thể hóa đường lối và phương thức
lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách của Nhà
nước đối với sự nghiệp quốc phòng - an ninh
Nghiên cứu bổ sung, phát triển hai chiến lược cơ bản, trọng yếu, mang
tính tổng hợp và toàn diện nhất của quốc gia (Chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc); trên cơ sở đó khẩn trương xây dựng, ban
hành và tổ chức thực hiện các chiến lược quốc gia như Chiến lược quốc
phòng, Chiến lược an ninh quốc gia, Chiến lược ngoại giao... và các chiến
lược chuyên ngành khác như Chiến lược quân sự, Chiến lược phát triển công
nghiệp quốc phòng...


Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các kế hoạch mang tính chiến lược

của quốc gia như: Kế hoạch phân vùng chiến lược về quốc phòng - an ninh
gắn với phân vùng chiến lược về kinh tế - xã hội theo nguyên tắc kết hợp chặt
chẽ xây dựng với bảo vệ, Kế hoạch phòng thủ dân sự quốc gia thời bình và
thời chiến, v.v…
Tiếp tục đổi mới, bổ sung hoàn thiện cơ chế, phương thức lãnh đạo của
Đảng, điều hành của chính quyền và cơ quan chức năng các cấp đối với lĩnh
vực quốc phòng - an ninh, nhất là khi xử trí các tình huống khẩn cấp hoặc tiến
hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh,
tiếp tục điều chỉnh, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật,
các chính sách quốc phòng - an ninh phù hợp với thời kỳ mới.
Phát huy vai trò của hệ thống chính trị đối với sự nghiệp quốc
phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Cần thường xuyên chăm lo xây dựng hệ thống chính trị, nhất là các tổ
chức Đảng và bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở thực sự trong
sạch vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, lãnh đạo và quản lý điều
hành xã hội nói chung, lĩnh vực quốc phòng - an ninh nói riêng có uy tín và
hiệu quả; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân,
trong đó sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực
quốc phòng - an ninh là nhân tố quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định trong
cơ chế vận hành của nền quốc phòng - an ninh toàn dân bảo vệ Tổ quốc.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với Quân đội và Công an, bảo đảm Quân đội và Công
an thực sự là lực lượng trung thành và tin cậy, làm nòng cốt trong sự
nghiệp quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc
Không ngừng bổ sung, hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm túc cơ
chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và Công an.
Đối với Quân đội, tổ chức rút kinh nghiệm và thực hiện nghiêm túc
Nghị quyết số 51-NQ/TƯ ngày 20/7/2005 của BCT khoá IX, phát huy vai trò
trọng trách “chủ trì về chính trị”, “trực tiếp chỉ đạo và tổ chức tiến hành công

tác đảng, công tác chính trị trong quân đội” của đội ngũ chính uỷ, chính trị
viên, cơ quan chính trị các cấp.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị
trong lực lượng vũ trang nhân dân nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với lực lượng vũ trang; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân,
nhất là quân đội và công an vững mạnh về chính trị, lấy vững mạnh về chính
trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu toàn
diện. .
Tích cực bồi dưỡng nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực
tổ chức thực hiện công tác quốc phòng - an ninh của đội ngũ cán bộ
Trước hết cần tiêu chuẩn hóa kiến thức quốc phòng - an ninh cho từng
đối tượng, từng cấp, từng lứa tuổi... trên cơ sở đó xác lập chương trình cơ bản,


phân cấp tổ chức thực hiện giáo dục quốc phòng - an ninh cho từng cấp theo
hệ thống các trường từ Trung ương tới cơ sở cho các đối tượng. Công tác giáo
dục quốc phòng - an ninh phải được triển khai bằng nhiều hình thức, phương
pháp phong phú, sinh động cho các đối tượng, nhất là cho đội ngũ cán bộ chủ
trì ở tất cả các cấp...
Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lí nhà nước về quốc phòng - an
ninh
Tổ chức bộ máy quản lí nhà nước về quốc phòng - an ninh có quan hệ
mật thiết với công tác quản lí nhà nước về quốc phòng - an ninh và công tác
quốc phòng - an ninh của các bộ, ngành, địa phương. Để thực hiện tốt công tác
quản lí nhà nước về quốc phòng - an ninh và công tác quốc phòng - an ninh
cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện bộ máy quản lí nhà nước về quốc phòng - an
ninh.
Đối với cơ quan chuyên sâu làm tham mưu về công tác quốc phòng - an
ninh ở các cấp phải thường xuyên được củng cố, kiện toàn về biên chế tổ chức
cả số lượng và chất lượng.

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp quốc
phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận
lòng dân” vững chắc; hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách về quốc phòng - an ninh
Cần giáo dục, trang bị cho toàn dân những kiến thức và hiểu biết cần
thiết về nhiệm vụ, yêu cầu củng cố quốc phòng - an ninh; nâng cao giác ngộ
cách mạng, nhận thức sâu sắc về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ
ở cơ sở. Tăng cường lãnh đạo hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, phát huy vai trò là cơ sở chính trị của Đảng và chính quyền
nhân dân, động viên và tổ chức nhân dân tạo thành phong trào quần chúng sâu
rộng và mạnh mẽ, tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Thực hiện có nền nếp chế độ thanh tra, kiểm tra, giám sát, sơ
kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác quốc phòng - an ninh
Thanh tra, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm có vai
trò rất quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Cần tiến
hành công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên để biểu dương, khen
thưởng những việc làm đúng, làm tốt, phát hiện những việc làm sai, những
nơi làm chưa tốt để uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời.
Câu 9: Những yếu tố cơ bản tác động đến bảo vệ an ninh chính trị,
kinh tế, văn hóa, tư tưởng?
Đặt vấn đề: Trong điều kiện hiện nay khi mà chúng ta tiến hành hội
nhập sâu rộng với thế giới, bên cạnh những thuận lợi cho quá trình phát triển
kinh tế xã hội thì cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác bảo vệ an ninh
quốc gia nói chung và bảo vệ an ninh nội bộ nói riêng. Các cơ quan đặc biệt
nước ngoài, các thế lực thù địch đang tìm cách lợi dụng quá trình toàn cầu


hóa, hội nhập quốc tế để tìm cách thâm nhập, tác động chuyển hóa tư tưởng

chính trị của cán bộ, đảng viên. Do đó bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn
hóa, tư tưởng càng trở nên quan trọng và mang tính cấp bách trong tình hình
mới
1. Khái niệm Bảo vệ bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư
tưởng là tổng thể các hoạt động, các biện pháp duy trì trạng thái an toàn, ổn
định và phát triển của đất nước trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa,
kinh tế - xã hội nhằm giữ gìn và tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát
triển những thành quả, những giá trị về chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế xã hội, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và định hướng xã hội chủ nghĩa trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta.
2. Vị trí, vai trò
Bảo vệ bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng là bộ phận
quan trọng của bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vai trò vô cùng quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Bảo vệ cương lĩnh, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước, bảo vệ tổ chức của Đảng và của Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã
hội trong hệ thống chính trị; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng
của Đảng trong các tổ chức, cán bộ, đảng viên và nhân dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bảo vệ, phát triển những thành quả văn hóa cách mạng và góp phần
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nhằm xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi sự
xâm nhập của các sản phẩm văn hóa có nội dung đồi trụy, phản động trong
đời sống xã hội.
Bảo vệ những thành quả về kinh tế – xã hội trong công cuộc đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự
chủ; xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã
hội, bảo đảm an ninh kinh tế, an sinh xã hội, môi trường sinh thái và môi
trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội; đấu tranh có hiệu quả với

những biểu hiện tiêu cực và tệ nạn xã hội.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch đối với nước ta trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh
tế - xã hội.
3. Tình hình thực thế giới và trong nước tác động đến lĩnh vực an
ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng
Thế giới phải đối mặt với những vấn đề mang tính toàn cầu như khủng
bố quốc tế, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền, lãnh
thổ; những vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, an ninh
mạng, thiên tai, dịch bệnh,… đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định của các
quốc gia, trong đó có Việt Nam.


Các thế lực thù địch không từ bỏ mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa, triệt để khai thác những khó khăn
của Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
để tiếp tục gia tăng các hoạt động gây bất ổn về an ninh chính trị, , KT, VH,
TT
4. Yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư
tưởng
- Bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng phải trên cơ sở tư
duy mới về an ninh quốc gia và chiến lược an ninh quốc gia; nhận thức đầy đủ
và sâu sắc tầm quan trọng của bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư
tưởng, là bộ phận rất quan trọng của bảo vệ an ninh quốc gia trong chiến lược
an ninh quốc gia của Đảng và Nhà nước ta; phải phát huy sức mạnh tổng hợp,
lực lượng tổng hợp và các biện pháp tổng hợp để bảo vệ an ninh quốc gia nói
chung, bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng nói riêng.
- Bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng thực chất là bảo
vệ Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ các tổ chức Nhà nước,
mặt trận và đoàn thể chính trị – xã hội trong hệ thống chính trị, bảo vệ nền

tảng tinh thần của xã hội, bảo vệ các thành quả về kinh tế – xã hội, tạo động
lực cho sự phát triển nhanh và bền vững, giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng.
- Bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng phải được tiến
hành đồng thời và gắn kết chặt chẽ với các mặt bảo vệ khác trong bảo vệ an
ninh quốc gia, chiến lược an ninh quốc gia thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước.
- Bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng phải luôn luôn
quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động, tích cực và sáng tạo; kết
hợp chặt chẽ bảo vệ với xây dựng, phát triển, hợp tác và đấu tranh; kết hợp
các biện pháp giáo dục, hành chính, pháp luật, kinh tế, quân sự, đối ngoại.
Câu 4: Quan điểm của Đảng ta về bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế,
văn hóa, tư tưởng. Ý nghĩa trong hoạt động thực tiễn?
Đặt vấn đề : bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng là
những nội dung hết sực quan trọng nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển
bình thường của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, sự ổn định và phát triển
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi mà chúng
ta tiến hành hội nhập sâu rộng với thế giới, bên cạnh những thuận lợi cho quá
trình phát triển kinh tế xã hội thì cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác
bảo vệ an ninh quốc gia nói chung và bảo vệ an ninh nội bộ nói riêng.
* Khái niệm: Bảo vệ bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư
tưởng là tổng thể các hoạt động, các biện pháp duy trì trạng thái an toàn, ổn
định và phát triển của đất nước trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa,
kinh tế - xã hội nhằm giữ gìn và tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát
triển những thành quả, những giá trị về chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế -


xã hội, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và định hướng xã hội chủ nghĩa trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta.

* Nội dung Quan điểm của Đảng ta…
1- Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ an ninh
chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân
2- Bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng phải đặt dưới sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà
nước
3-Phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn
hóa, tư tưởng
4-Gắn xây dựng với bảo vệ ngay từ bên trong, kết hợp chặt chẽ đấu
tranh với xây dựng, với tự bảo vệ ngay trong từng bước phát triển của đất
nước
5-Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, kết hợp chặt chẽ giữa chủ
động tiến công và chủ động phòng ngừa, lấy chủ động phòng ngừa, giữ vững
bên trong là chính, giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ đối
ngoại
* Phân tích quan điểm 1:
- Vị trí: Xuất phát từ vai trò quan trọng của quan điểm trên, Do vậy
trong từng giai đoạn mà Đảng, nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị
lãnh đạo công tác bảo đảm ANQG, BVAN chính trị, KT, VH, TT phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn.
- Cơ sở: Xuất phát từ sự nghiệp đổi mới mà Đảng và nhân dân ta tiến
hành đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Thế giới bên cạnh những thuận lợi còn tiềm ẩn nhiều bất ổn đối mặt với
những vấn đề mang tính toàn cầu như khủng bố quốc tế, xung đột sắc tộc, dân
tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ; dịch bệnh,… đe dọa trực tiếp
đến hòa bình, ổn định của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Các thế lực thù địch không từ bỏ mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa, triệt để khai thác những khó khăn
của Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

để tiếp tục gia tăng các hoạt động gây bất ổn về an ninh chính trị, , KT, VH,
TT
- Biện pháp: Trong bối cảnh đó, việc tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với QP AN, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ an ninh chính trị,
kinh tế, văn hóa, tư tưởng, cần coi trọng mấy vấn đề sau đây:
Một là, cần thống nhất nhận thức, bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện
nào cũng phải luôn kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với công tác QPAN, ANQG, . Đây là yêu
cầu khách quan, tất yếu của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.


Sự lãnh đạo của Đảng là toàn diện, bao quát trên các lĩnh vực chính trị,
tư tưởng và tổ chức; trên mọi nhiệm vụ công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát
huy vai trò nòng cốt, xung kích của các lực lượng Công an, Quân đội trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG, bảo vệ Tổ quốc trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Sức mạnh bảo vệ ANQG là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa-xã hội, quốc phòng, quân sự, đối ngoại...
Ba là , LLVT phải luôn luôn nêu cao cảnh giác, chủ động, nhạy bén,
sẵn sàng có các phương án đối phó với các tình huống. Tiếp tục đổi mới tư
duy, phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, bố trí lực lượng đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đặc biệt, cần có tư duy mới về xác định đối tượng, đối tác; chủ động,
nhạy bén trong nắm bắt, phân tích, dự báo tình hình; làm tốt chức năng tham
mưu với Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách bảo đảm an ninh quốc
gia, bảo vệ ANCT, KT, VH, TT, tăng cường chính sách đối ngoại, nâng cao
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bốn là, chú trọng công tác xây dựng Đảng. Làm tốt công tác giáo dục

chính trị, tư tưởng, kiện toàn tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên;
nâng cao chất lượng các cấp ủy đảng, bảo đảm thật sự là hạt nhân lãnh đạo,
tiêu biểu cho trí tuệ, phẩm chất, năng lực của tổ chức đảng.
Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn
biến hòa bình", "phi chính trị hóa" LLVT.
Bảo đảm an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng là nghĩa vụ và
trách nhiệm của toàn dân, của các tổ chức, các lực lượng trong cả nước. Là
cán bộ, đảng viên, học viên cao học có vai trò rất quan trọng trong bảo đảm
an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng của đất nước. Do vậy, đòi hỏi,
mỗi cán bộ vừa phải nắm vững quan điểm tư tưởng cơ bản của Đảng, Nhà
nước về bảo đảm an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng; vừa phải có tri
thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực, công việc mình phụ trách; đồng thời luôn
luôn nêu cao ý thức dân tộc, ý thức giai cấp, tinh thần cảnh giác cách mạng,
nhận rõ và vô hiệu hóa các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá
hoại an ni n trên các lĩnh vực.

Câu 5: Chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế
lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiên nay?
Đặt vấn đề
Chiến lược “diễn biễn hòa bình” là một bộ phận trong chiến lược toàn
cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch chống phá các
nước xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc, nhằm xóa bỏ hoàn toàn


chủ nghĩa xã hội, thiết lập, củng cố vai trò lãnh đạo của Mỹ trên thế giới.Từ
Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII
(1994), Đảng ta đã xác định “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ là một nguy
cơ của cách mạng Việt Nam. Phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật
đổ là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ
mới.

1. Khái niệm
+ Khái niệm “diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực phản động nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước
tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các
biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đứng
đầu là Mỹ tiến hành.
+ Khái niệm bạo loạn lật đổ: Bạo loạn lật đổ là hành động chống phá
bằng bạo lực, có tổ chức do lực lượng phản động hay lực lượng ly khai, đối
lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành nhằm gây rối loạn an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương
hoặc Trung ương. Bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động trong chiến lược “ diễn biến hoà bình” để xoá bỏ
CNXH.
Hình thức: Hình thức của bạo loạn lật đổ đa dạng, gồm có bạo loạn
chính trị, bạo loạn vũ trang hoặc bạo loạn chính trị kết hợp với bạo loạn vũ
trang.
+ MQH : Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ có quan hệ chặt chẽ với
nhau, cùng có chung mục đích là lật đổ chế độ chính trị của các nước không
theo quỹ đạo điều hành của chủ nghĩa đế quốc.“Diễn biến hòa bình” là tiền đề
cho bạo loạn lật đổ, còn bạo loạn lật đổ tiếp nối quá trình của “diễn biến hòa
bình”. Để có thể tiến hành bạo loạn lật đổ, các thế lực thù địch thực hiện chiến
lược “diễn biến hòa bình”, từng bước xây dựng lực lượng đối lập làm tay sai
cho chúng. Chúng dùng các thủ đoạn làm cho nội bộ nước đối phương suy
yếu, tự diễn biến, tự chuyển hóa nhằm tạo ra tình huống dẫn tới khả năng bạo
loạn lật đổ. Khi có thời cơ với sự chỉ đạo, giúp đỡ từ bên ngoài các thế lực thù
địch tổ chức lực lượng tiến hành bạo loạn lật đổ thực hiện mục tiêu của “diễn
biến hòa bình”.
2. Khái quát quá trình chống phá cách mạng Việt Nam của các thế
lực thù địch
* Từ đầu những năm 1945 của thế kỷ XX đến 1975, CNĐQ đã dùng

hành động quân sự là chủ yếu để can thiệp và tiến hành chiến tranh xâm lược
nước ta, “DBHB” chỉ là biện pháp hỗ trợ cho các chiến lược quân sự,nhưng
chúng đã bị thất bại hoàn toàn vào mùa Xuân 1975.
* Từ sau năm 1975 đến năm 1994:Đây là giai đoạn nước ta còn nhiều
khó khăn do hậu quả chiến tranh, thiên tai nặng nề, đặc biệt là tác động tiêu
cực của những biến động Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đối
với Việt Nam, Chúng tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam đã tiến


hành nhiều biện pháp chống phá như: “bao vây, cấm vận kinh tế”; “cô lập về
ngoại giao”; kết hợp “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để xoá bỏ chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
* Từ 1995 đến nay, trước thất bại trên chủ nghĩa đế quốc buộc phải điều
chỉnh chính sách, thủ đoạn bằng việc “bỏ cấm vận kinh tế”, thực hiện bình
thường hoá quan hệ ngoại giao… nhưng thực chất là để trực tiếp “dính líu”,
đẩy mạnh các hoạt động thâm nhập, chống phá ta quyết liệt hơn. Trong điều
kiện mở rộng quan hệ nhiều mặt với Việt Nam, chúng có điều kiện để tiến
hành “diễn biến hoà bình” với ba chính sách cơ bản: “Ngoại giao thân thiện”,
“Chi phối đầu tư” và “Khoét sâu nội bộ” nhằm phân hoá, chia rẽ nội bộ ta,
thúc đẩy “tự diễn biến”, đây là thủ đoạn quan trọng nhất để chuyển hoá Việt
Nam.
3. Âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch chống
phá Việt Nam trên các lĩnh vực
* Mục tiêu chiến lược: Xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chế độ XHCN ở Việt Nam. Đưa Việt Nam vào quỹ đạo của chủ nghĩa
tư bản, phục vụ cho quyền lợi của Mỹ ở khu vực.
* Phương châm chống phá : Phương châm: mềm, ngầm, sâu, trực tiếp,
toàn diện. CNĐQ và các thế lực thù địch thực hiện chống phá CMVN toàn
diện, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chống phá mọi tổ chức, mọi
lực lượng, mọi địa bàn, vùng, miền ở nước ta. Trong đó lấy chống phá chính

trị tư tưởng làm hàng đầu, chống phá về kinh tế là trọng tâm, dân tộc tôn giáo
làm ngòi nổ, ngoại giao để hỗ trợ kết hợp với răn đe về quân sự, với nhiều
biện pháp, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt, tập trung vào một số lĩnh vực chủ
yếu sau:
* Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hoá
Mục đích:Làm cho Đảng ta xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; làm
mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng; xoá dần bản sắc văn hoá dân tộc
Việt Nam và truyền thống cách mạng, chuẩn mực đạo đức con người Việt
Nam.
Thủ đoạn:Xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hiện nay,
chúng đang kích động đòi xoá bỏ điều 4 trong Hiến pháp của nước ta.
Các thế lực thù địch lôi kéo những phần tử cơ hội, bất mãn vào các hoạt
động chống phá ta trên mặt trận chính trị, tư tưởng. Núp dưới chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền” để thúc đẩy đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập đòi “tự
do dân chủ, tự do báo chí, tự do bầu cử”. Bôi đen, hạ uy tín những người lãnh
đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước; lợi dụng “chống tham nhũng”, “góp ý
kiến” xây dựng Đảng… để kích động, phân hoá, chia rẽ nội bộ..
* Trên lĩnh vực kinh tế


Mục đích: Làm cho kinh tế của Việt Nam suy yếu, phụ thuộc vào nước
ngoài, mất định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ quá trình chống phá làm kinh tế
để đạt mục đích chống phá về chính trị.
Thủ đoạn: Lợi dụng hoạt động đầu tư, liên doanh để xâm nhập vào các
ngành kinh tế quan trọng, địa bàn nhạy cảm, thúc đẩy tư nhân hoá chi phối,
khống chế nền kinh tế nước ta phá vỡ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm
chệch hướng, dẫn đến thay đổi bản chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, tạo
tiền đề về kinh tế xã hội để chuyển hoá về chính trị.

Hiện nay, các thế lực thù địch thường lợi dụng các điều khoản đàm phán
thương mại và quá trình Việt Nam đàm phán tham gia các tổ chức quốc tế để
ép ta về chính trị, mở cửa thị trường có lợi cho Mỹ và phương Tây. Thông
qua viện trợ, giúp đỡ của các tổ chức “phi chính phủ” (NGO) để xâm nhập,
móc nối, hỗ trợ các phần tử phản động, cơ hội bên trong nội bộ ở các địa bàn
nhạy cảm.
* Trên lĩnh vực dân tộc, tôn giáo
Mục đích: Phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của ta, làm suy giảm
sức mạnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thủ đoạn: Sử dụng bọn tay sai phản động đội lốt chức sắc tôn giáo để
hoạt động chính trị phản động. (...như ở Số 42 Nhà chung Hà Nội; Giáo sứ
Thái Hà...). Mua chuộc, ép buộc đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo
thực hiện các hoạt động phá hoại an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề (dân tộc,
tôn giáo) kích động tư tưởng ly khai, tư trị; đẩy mạnh truyền đạo trái phép và
vu cáo ta đàn áp tôn giáo.
* Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Mục đích: Phi chính trị hoá quân đội, công an để vô hiệu hoá lực lượng
vũ trang; làm mất trật tự, an toàn xã hội, an ninh chính trị, làm suy giảm sức
mạnh quốc phòng, an ninh; suy giảm khả năng phòng thủ đất nước của Việt
Nam.
Thủ đoạn: Tạo dựng và phát triển lực lượng phản động. Thông qua các
hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ… để phá vỡ thế trận,
tiềm lực quốc phòng, an ninh. … Thâm nhập nắm bắt bí mật quân sự, quốc
phòng, an ninh…
* Trên lĩnh vực ngoại giao
Mục đích: Làm giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, gây khó khăn
cho ta trong quan hệ ngoại giao, từng bước đưa Việt Nam đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa.
Thủ đoạn: Núp dưới danh nghĩa “ngoại giao thân thiện”, “bảo vệ nhân

quyền” để chống phá tự do dân chủ.Lợi dụng các diễn đàn quốc tế để tuyên
truyền, xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước ta vi phạm nhân quyền, dân chủ,
đàn áp tôn giáo, dân tộc để cô lập ta trên trường quốc tế.
KẾT LUẬN


Phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch trên đất nước ta là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc dưới hình thức mới, nhằm giải quyết triệt để vấn đề “ai thắng
ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ở nước ta và góp phần vào
thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Vì vậy, chúng ta phải thường xuyên
quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và thực hiện tốt
nhiệm vụ phòng, chống chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ đã đề
ra. Đối với cán bộ công chức thuộc các cơ quan, tổ chức ở Trung ương, phải
làm tốt công tác tham mưu và trực tiếp cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, hành động kịp thời có hiệu quả,
nhất định chúng ta sẽ đánh bại hoàn toàn chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo
loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Câu 6: Quan điểm của Đảng ta về phòng chống “Diễn biến hòa bình”,
bạo loạn lật đổ. Liên hệ thực tiễn?
Đặt vấn đề Chiến lược “diễn biễn hòa bình” là một bộ phận trong chiến
lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch chống
phá các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc, nhằm xóa bỏ
hoàn toàn chủ nghĩa xã hội, thiết lập, củng cố vai trò lãnh đạo của Mỹ trên
thế giới.Từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
khoá VII (1994), Đảng ta đã xác định “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ là
một nguy cơ của cách mạng Việt Nam. Phòng, chống “diễn biến hoà bình”,
bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc ở thời kỳ mới.

* Mối quan hệ giữa “diễn biến hoà bình” với bạo loạn lật đổ
“Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ có quan hệ chặt chẽ với nhau,
cùng có chung mục đích là lật đổ chế độ chính trị của các nước không theo
quỹ đạo điều hành của chủ nghĩa đế quốc.“Diễn biến hòa bình” là tiền đề cho
bạo loạn lật đổ, còn bạo loạn lật đổ tiếp nối quá trình của “diễn biến hòa
bình”. Để có thể tiến hành bạo loạn lật đổ, các thế lực thù địch thực hiện chiến
lược “diễn biến hòa bình”, từng bước xây dựng lực lượng đối lập làm tay sai
cho chúng. Chúng dùng các thủ đoạn làm cho nội bộ nước đối phương suy
yếu, tự diễn biến, tự chuyển hóa nhằm tạo ra tình huống dẫn tới khả năng bạo
loạn lật đổ. Khi có thời cơ với sự chỉ đạo, giúp đỡ từ bên ngoài các thế lực thù
địch tổ chức lực lượng tiến hành bạo loạn lật đổ thực hiện mục tiêu của “diễn
biến hòa bình”.
2. Quan điểm của Đảng ta về phòng chống “DBHB”, bạo loạn lật đổ
* Mục tiêu: Giữ vững ổn định chính trị trên cơ sở ĐLDT và CNXH, tạo
môi trường hoà bình để đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HDH đất nước, xây dựng
đất nước theo định hướng XHCN; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
“DBHB”, BLLĐ của địch. Bảo vệ vững chắc TQVN XHCN.


* Nhiệm vụ: Phòng chống chiến lược “DBHB”, BLLĐ đổ là nhiệm vụ
cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ QP, AN hiện nay; đồng thời là nhiệm
vụ thường xuyên, lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong phòng, chống “DBHB” là chủ động tiến công địch trên mọi lĩnh vực,
không để xảy ra mất ổn định chính trị xã hội làm thất bại các âm mưu thủ
đoạn “DBHB”, BLLĐ của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch; bảo vệ vững
chắc Đảng, chính quyền và chế độ XHCN
* Quan điểm
Một là, kiên định, giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đây là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã được
lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh trên thực tiễn. Độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt
Nam, là nguyện vọng của Đảng và nhân dân ta.
Kiên định về đường lối, quan điểm, hiến pháp, pháp luật cả trong tổ chức
thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mỗi cán bộ đảng viên
là lực lượng nòng cốt đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái, phản động của
các thế lực thù địch. Toàn dân quán triệt và tổ chức thực hiện tốt hai nhiệm vụ
chiến lược trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ trung ương tới các
cơ sở. Kiên định với mục tiêu con đường đã chọn, chống sự thoái hoá biến
chất về chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên sẽ làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của địch.
Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, tiến hành cuộc đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của ta ngày nay là sức mạnh tổng hợp của
khối đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng,
là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, được tạo ra trên cơ sở
kết hợp các hoạt động: chính trị, kinh tế, quân sự, an ninh, đối ngoại... “Diễn
biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch là sự chống phá toàn diện bằng tổng
hợp các biện pháp. Vì vậy, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ cũng
phải chống trên các mặt, bằng sức mạnh tổng hợp được tạo ra từ nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Trong đó, lực lượng tiến hành là cả hệ
thống chính trị và của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của
Đảng.
Ba là,chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ phải nhằm kết hợp
ngăn ngừa và đối phó thắng lợi các tình huống chiến lược về quốc phòng,
an ninh có thể xảy ra.
Tại Hội nghị Trung ương 8 (khoá IX), Đảng ta đã dự báo có ba tình
huống chiến lược trong bảo vệ Tổ quốc trong những năm tới. Các tình huống

có mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau, tình huống này có thể làm tiền đề
cho sự xuất hiện tình huống kia. Trong đó tình huống1, biến động chính trị


trong nước, đe dọa sự mất còn của chế độ và tình huống 2, bạo loạn ly khai ở
một số vùng hoặc một số vùng gây nguy cơ chia rẽ đất nước do hoạt động
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch tạo ra. Tình huống 3,xung đột
vũ trang và chiến tranh xâm lược.Vì vậy, làm thất bại “diễn biến hoà bình”,
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch cũng chính là trực tiếp ngăn ngừa, đẩy
lùi hai tình huống chiến lược trên.Mặt khác, ngăn chặn hai tình huống trên
góp phần triệt tiêu điều kiện, thời cơ để nước ngoài lợi dụng, can thiệp, chống
phá bằng cả chính trị - ngoại giao - kinh tế; không cho kẻ thù kiếm cớ can
thiệp quân sự, xung đột vũ trang và chiến tranh xâm lược nước ta (tình huống
chiến lược 3).
Bốn là, nắm vững pháp luật, chủ động, kiên quyết trấn áp các phần tử
phản động để bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ.
Chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ là cuộc đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ mới; chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ là một cuộc
đấu tranh hết sức gay go, quyết liệt, lâu dài, một mất, một còn giữa ta và địch
trong tình hình hiện nay. Vì vậy, chúng ta phải sử dụng các công cụ chuyên
chính của nhà nước vô sản để bảo vệ thành quả cách mạng. Trên cơ sở pháp
luật của Nhà nước, với sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn dân có
lực lượng vũ trang làm nòng cốt, chủ động “vô hiệu hoá” và kiên quyết trấn
áp các lực lượng phản động để ngăn ngừa, đập tan bạo loạn của địch, bảo vệ
chính quyền và chế độ của ta. Khi xảy ra bạo loạn lật đổ phải kiên quyết xử
lý, phân loại, tìm và trấn áp ngay những tên đầu sỏ cầm đầu và lực lượng vũ
trang phản động của địch để bảo vệ Đảng, chính quyền, hỗ trợ cho đấu tranh
chính trị.
Liên hệ thực tiễn đấu tranh làm thất bại thủ đoạn “phi chính trị
hóa” quân đội của các thế lực thù địch

Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN của quân và dân ta được
tiến hành trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là
tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng,
khó lường; Trong đó, thách thức gay gắt nổi lên là sự chống phá quyết liệt của
các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Cùng với đó là
những diễn biến phức tạp mới ở Biển Đông, trực tiếp đe dọa đến chủ quyền,
an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Do vậy, về mặt nhận thức, tư tưởng, cần xác định rõ: CNĐQ, các thế
lực thù địch là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Họ đã và đang tiến hành
thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Do đó,
chống “Diễn biến hòa bình” thực sự là “cuộc chiến” không khoan nhượng,
diễn ra hằng ngày, hằng giờ, hết sức quyết liệt, phức tạp. Trong đó, đối tượng
mà họ nhằm vô hiệu hóa, trước hết “phi chính trị hóa” là lực lượng vũ trang
nhân dân, nhất là QĐND và Công an nhân dân. Mục tiêu của họ nhằm tách
Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Quân đội đứng ngoài chính trị,
Đảng Cộng sản mất chỗ dựa vững chắc, mất vai trò lãnh đạo đối với Quân
đội, dẫn tới mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Và, một khi vai


trò lãnh đạo của Đảng bị vô hiệu hóa, bị xóa bỏ, thì tất nhiên chế độ XHCN sẽ
sụp đổ. Chúng mưu đồ sử dụng mọi lực lượng, phương tiện, tiền bạc, vật chất
và tiến hành bằng mọi biện pháp, mọi “chiêu bài” xảo quyệt, tinh vi, thâm
độc, nhưng nhìn chung các hoạt động diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, làm cho Quân đội ta từng bước rời bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Do đó, để chống mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch
đạt hiệu quả cao thì trước hết và quan trọng nhất là phải chủ động đấu tranh
với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của
Đảng trong Quân đội, cốt yếu là nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, chúng
ta phải luôn đề cao cảnh giác và phải chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, cả lực
lượng, phương tiện, vật chất đảm bảo,… với phương pháp tiến hành (cách
thức) linh hoạt, chủ động và có hệ thống giải pháp đồng bộ, tạo nên sức mạnh

tổng hợp để giành thắng lợi trong “cuộc chiến” quyết liệt này.
Cần quán triệt sâu sắc phương châm: gắn “xây dựng với bảo vệ”, “bảo
vệ với xây dựng”; xây dựng là một nội dung của bảo vệ và là biện pháp chống
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội hiệu quả nhất.
KẾT LUẬN
Phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch trên đất nước ta là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc dưới hình thức mới, nhằm giải quyết triệt để vấn đề “ai thắng
ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ở nước ta và góp phần vào
thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Vì vậy, chúng ta phải thường xuyên
quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và thực hiện tốt
nhiệm vụ phòng, chống chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ đã đề
ra. Đối với cán bộ công chức thuộc các cơ quan, tổ chức ở Trung ương, phải
làm tốt công tác tham mưu và trực tiếp cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, hành động kịp thời có hiệu quả,
nhất định chúng ta sẽ đánh bại hoàn toàn chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo
loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Câu 7: Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến, nội dung nào
quan trọng nhất. Vì sao?
Đặt vấn đề : Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến, tiến hành
công tác động viên thời chiến để chủ động đối phó với chiến tranh xâm lược
của các thế lực thù địch, tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngay khi chiến tranh bắt đầu xảy ra. Làm tốt
công tác động viên thời chiến sẽ huy động được mọi khả năng tiềm lực của
đất nước tạo thành sức mạnh thực tế đáp ứng yêu cầu của chiến tranh.
1. Khái niệm : Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến, động
viên thời chiến là chuyển trọng tâm nhiệm vụ chính trị của đất nước từ



nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế thời bình sang nhiệm vụ chiến đấu
bảo vệ đất nước thời chiến; đồng thời tiến hành tổng thể các biện pháp để
huy động mọi nguồn lực nhằm tăng cường tiềm lực cho chiến tranh của đất
nước. Thực chất là chuyển toàn bộ các hoạt động xã hội trên tất cả các lĩnh
vực của đất nước sang phục vụ cho yêu cầu của chiến tranh nhằm giành thế
chủ động, bảo đảm, phát huy tiềm lực về mọi mặt của đất nước, duy trì ổn
định sản xuất và đời sống của nhân dân, tiến hành chiến tranh thắng lợi.
2. Nội dung chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến
* Chuyển hoạt động của các cơ quan Đảng , Nhà nước sang thời
chiến là quan trọng nhất (vì sao)
- Chuyển hoạt động lãnh đạo của Đảng sang thời chiến
Tập trung lãnh đạo chuyển nhận thức tư tưởng của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân; chuẩn bị tốt về mặt tinh thần tâm lý cho toàn đảng, toàn dân đáp
ứng với yêu cầu của thời chiến.
Tăng cường sự lãnh đạo của hệ thống tổ chức Đảng các cấp trong việc
chuyển lực lượng vũ trang sang thời chiến.
Lãnh đạo nền kinh tế phục vụ nhu cầu chiến tranh.
Lãnh đạo công tác phòng thủ dân sự bảo đảm an toàn cho nhân dân, các
cơ quan đoàn thể, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Lãnh đạo phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân đáp
ứng nhu cầu chiến tranh.
- Chuyển hoạt động của chính quyền Nhà nước sang thời chiến
Các cơ quan Nhà nước, hệ thống chính quyền các cấp cần tập trung
điều hành việc truyền đạt mệnh lệnh chuyển sang thời chiến cho tất cả các đối
tượng thuộc quyền, ưu tiên cho lực lượng vũ trang, các cơ quan, đơn vị có
nguy cơ bị địch uy hiếp.
Chỉ đạo các bộ, ban, ngành, các địa phương chuyển hoạt động sang thời
chiến thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ và tổ chức phòng
thủ dân sự.

Theo dõi chặt chẽ và kiểm tra lực lượng vũ trang động viên phát triển
lực lượng; chỉ đạo các ngành các cấp động viên kinh tế, điều hành quản lý
kinh tế thời chiến, hoàn chỉnh các khu vực phòng thủ.
Chỉ đạo cơ sở, lực lượng phương tiện tại chỗ giữ vững ổn định đời sống
nhân dân, dập tắt các vụ gây rối, bạo loạn.
Động viên toàn dân tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu tăng cường
cán bộ xuống cơ sở, nắm chắc tình hình, giúp cơ sở chuyển sang thời chiến
đúng ý định.
* Chuyển mọi hoạt động đời sống xã hội sang thời chiến
Khi đất nước chuyển sang thời chiến tất yếu đòi hỏi mọi tổ chức, mọi
thành viên trong xã hội phải sống chiến đấu, lao động và sản xuất theo pháp
luật thời chiến. Phải tổ chức sơ tán nhân dân, sơ tán các cơ quan, các tổ chức,
các đơn vị… vào nơ bí mật, an toàn; tổ chức phòng tránh và có kế hoạch tổ
chức bảo vệ những khu vực cơ sở sản xuất không sơ tán được.


Nhanh chóng chuyển chế độ, nề nếp sinh hoạt công tác của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị và toàn thể nhân dân sang thời chiến. Ban hành chế độ
cung cấp lương thực, thực phẩm và những mặt hàng thiết yếu theo phương
thức thời chiến.
Chuyển công tác an ninh sang thời chiến, tổ chức bảo vệ mục tiêu trọng
yếu của trung ương và địa phương. Bảo vệ an toàn cho dân, cơ quan, cơ sở
sản xuất, vô hiệu hoá các cơ sở liên doanh với nước ngoài không trái với
pháp luật, quét sạch những tổ chức phản động.
* Chuyển lực lượng vũ trang sang thời chiến và triển khai thế trận phòng thủ
Nội dung chủ yếu của chuyển lực lượng vũ trang là chuyển lên các
trạng thái sẵn sàng chiến đấu theo quy định. Đưa các lực lượng vũ trang
thường trực vào tư thế sẵn sàng chiến đấu theo các phương án chiến đấu, triển
khai lực lượng phòng không theo phương án tác chiến sẵn sàng đánh trả đòn
tiến công hỏa lực củ địch.

Tổ chức phòng chống các hoạt động tình báo, trinh sát, tác chiến điện
tử của địch. Triển khai hệ thống chỉ huy các cấp. Hoàn thiện hệ thống thông
tin, hậu cần kỹ thuật…Hoàn chỉnh các thành phần của các khu vực phòng thủ.
Hoàn chỉnh hệ thống tổ chức phòng thủ dân sự bao gồm: hệ thống chỉ
đạo, điều hành từ trung ương tới cơ sở, tổ chức lực lượng phòng thủ dân sự.
Hoàn chỉnh các hệ thống công trình phòng thủ dân sự trong khu vực phòng
thủ. Thực hành phòng thủ dân sự bảo vệ nhân dân, bảo vệ nhân dân, bảo vệ
kho tàng dự trữ của địa phương, bảo vệ giao thông, bảo vệ, ổn định và
nâng cao hiệu quả sản xuất trong chiến tranh. Tổ chức sơ tán các nhà máy,
xí nghiệp kho tàng dân sự.
Thực hành phòng tránh đánh trả đòn tiến công hoả lực của địch. Phải
vừa chuyển sang thời chiến, vừa sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động phòng
tránh đánh trả các hoạt động tiến công của địch. Chủ động phòng tránh, tích
cực đánh trả là tư tưởng chỉ đạo chung cho mọi hoạt động khi chuyển sang
thời chiến. Tất cả lực lượng, phương tiện đều phải tổ chức phòng tránh tốt,
ngay cả lực lượng vũ trang ở những nơi, những lúc chưa có nhiệm vụ trực
tiếp đánh địch. Tích cực đánh trả để tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, giảm
thiệt hại cho ta, tạo tâm lý tin tưởng vào thắng lợi cho nhân dân.
* Chuyển nền kinh tế sang thời chiến
Chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế cho phù hợp với việc sản xuất trong điều
kiện chiến tranh. Ban hành chính sách kinh tế thời chiến. Chuyển hoạt động
sản xuất kinh doanh sang thời chiến
KẾT LUẬN
Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến và công tác động viên
thời chiến là để chủ động chuẩn bị và tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay chúng ta còn nhiều hạn chế về cả lý luận và hoạt động thực tiễn để
chuyển đất nước nói chung và chuyển địa phương nói riếng sang thời chiến
nhất là trong điều kiện kẻ thù có ưu thế về vũ khí trang bị và nhất là vũ khí



công nghệ cao. Do đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ đảng và nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở phải luôn học tập rút kinh nghiệm để không ngừng hoàn thiện cả lý
luận và thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.

Câu 8: Ngay từ thời bình chúng ta phải làm gì để chuyển đất nước
sang thời chiến và động viên thời chiến có hiệu quả. Ý nghĩa của vấn đề
trên?
Đặt vấn đề: Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến, tiến hành
công tác động viên thời chiến để chủ động đối phó với chiến tranh xâm lược
của các thế lực thù địch, tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngay khi chiến tranh bắt đầu xảy ra. Làm tốt
công tác động viên thời chiến sẽ huy động được mọi khả năng tiềm lực của
đất nước tạo thành sức mạnh thực tế đáp ứng yêu cầu của chiến tranh.
Khái niệm : Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến, động viên
thời chiến là chuyển trọng tâm nhiệm vụ chính trị của đất nước từ nhiệm
vụ xây dựng và phát triển kinh tế thời bình sang nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ
đất nước thời chiến; đồng thời tiến hành tổng thể các biện pháp để huy động
mọi nguồn lực nhằm tăng cường tiềm lực cho chiến tranh của đất nước.
Thực chất là chuyển toàn bộ các hoạt động xã hội trên tất cả các lĩnh vực
của đất nước sang phục vụ cho yêu cầu của chiến tranh nhằm giành thế chủ
động, bảo đảm, phát huy tiềm lực về mọi mặt của đất nước, duy trì ổn định
sản xuất và đời sống của nhân dân, tiến hành chiến tranh thắng lợi.
*. Để nâng cao hiệu quả chuyển đất nước sang thời chiến và động
viên thời chiến, ngay từ thời bình phải
1- Tăng cường giáo dục, thống nhất nhận thức trong toàn Đảng,
toàn dân và cả hệ thống chính trị
Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến là một nhiệm vụ chính trị
rất hệ trọng, liên quan đến mọi lĩnh vực của hoạt động xã hội, các cấp, các
ngành và mọi công dân. Cho nên phải coi trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng

nhằm thống nhất nhận thức về nhiệm vụ quốc phòng an ninh cho toàn dân
trước hết là cho cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
Giáo dục cho nhân dân nhận thức đúng đắn về âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, giác ngộ về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân với
Tổ quốc. Phải vận dụng nhiều hình thức và phương pháp trong giáo dục nhất


là cải tiến nội dung chương trình, hình thức, phương pháp giáo dục quốc
phòng và an ninh trong nhà trường và tuyên truyền phổ biến kiến thức quốc
phòng và an ninh cho toàn dân.
Đối với cán bộ các cấp phải thực hiên tốt theo Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng và quán triệt sâu sắc quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng- an
ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế. Đưa công tác bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng và an ninh cho cán bộ các cấp vào nề nếp.
2- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực
quản lý điều hành của Nhà nước
-Đối với hệ thống tổ chức Đảng
Để thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, trong cả hệ thống
chính trị, ngay từ thời bình phải có đường lối, chủ trương lãnh đạo, các cấp ủy
đảng phải sớm có nghị quyết lãnh đạo toàn diện công tác chuẩn bị đất nước,
địa phương, các ngành, các cấp sẵn sàng chuyển sang thời chiến. Khi thực
hành chuyển đất nước, địa phương sang thời chiến, các cấp ủy Đảng phải có
nghị quyết lãnh đạo, chỉ thị cho các cơ quan ban ngành điều chỉnh, triển khai
thực hiện theo kế hoạch và kiên quyết thực hiện tập trung dân chủ và phát huy
vai trò của ban thường vụ đảng uỷ các cấp lãnh đạo, tổ chức thực hiện nghị
quyết khi tình huống phức tạp.
Từng bước hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, xác định rõ chức năng, các mối
quan hệ trong cơ chế để phát huy vai trò của các thành phần, các tổ chức và
toàn dân, giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo với quản lý điều hành.

-Đối với hệ thống chính quyền Nhà nước
Thực hiện chức năng quản lý điều hành, Chính phủ, các bộ, ngành
Trung ương, uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan, ban ngành địa phương
phải căn cứ vào tình hình cụ thể để xây dựng và hoàn thiện quyết tâm, kế
hoạch, tổ chức, điều hành các ngành, các cấp, các địa phương, đơn vị thuộc
quyền. Thực hiện và thường xuyên bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch giải quyết
những vấn đề nảy sinh. Khi thực hành điều chỉnh quyết tâm, kế hoạch, tổ
chức lực lượng dự bị sẵn sàng bổ sung và thực hiện kế hoạch mới bổ sung.
3- Kiện toàn tổ chức và hoàn thiện cơ chế hoạt động phòng thủ dân
sự
Nghiên cứu tổ chức hệ thống phòng thủ dân sự từ Trung ương đến cơ
sở, duy trì hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước và chính quyền các
cấp, xây dựng hệ thống kế hoạch gồm: kế hoạch huấn luyện, diễn tập khu vực
phòng thủ; kế hoạch giáo dục thông tin tuyên truyền, trang bị phương tiện
phòng thủ dân sự.
Giáo dục cho toàn dân thực hiện tốt pháp luật và các văn bản dưới luật
về phòng thủ dân sự. Hệ thống pháp luật về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc…
4- Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, trách nhiệm của các
địa phương, lác lực lượng, các thành phần kinh tế
Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến, động viên thời chiến là


trách nhiệm của toàn dân, của các cấp, các ngành, các địa phương, các lực
lượng, các thành phần kinh tế. Do đó, phải thông qua hệ thống tổ chức chính
quyền các cấp, các đoàn thể xã hội để động viên, hướng dẫn mọi người, mọi
ngành tham gia. Bộ Quốc phòng làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước, cơ quan
quân sự địa phương các cấp phải phát huy vai trò làm tham mưu cho cấp uỷ,
chính quyền địa phương tiến hành lãnh đạo, chỉ đạo thực hành chuyển đất
nước, địa phương sang thời chiến và công tác động viên thời chiến.
5- Thường xuyên huấn luyện, diễn tập kiểm tra, rút kinh nghiệm

Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến và công tác động viên thời
chiến là vấn đề chúng ta còn ít kinh nghiệm. Do đó, căn cứ vào chức năng,
nhiệm vụ do Chính phủ giao, hàng năm các bộ, ban ngành, các địa phương phải
tổ chức diễn tập thực nghiệm để kiểm tra công tác chuẩn bị của đơn vị mình và
bổ sung, điều chỉnh kế hoạch cho sát thực tế.
Thông qua huấn luyện, diễn tập kiểm tra…để bồi dưỡng nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của các ngành, các cấp các địa phương. Đồng thời nâng cao
năng lực tổ chức thực hành của cấp uỷ, chính quyền và các lực lượng tham gia.
Công tác huấn luyện động viên thời chiến phải gắn với khu vực phòng
thủ và lực lượng vũ trang. Mỗi lần huấn luyện, diễn tập yêu cầu phải đầu tư
ngân sách, tài chính, huy động lực lượng cần thiết, do vây phải lãnh đao, chỉ
đạo chặt chẽ, tránh phô trương hình thức và lãng phí.
KẾT LUẬN Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến và công tác
động viên thời chiến là để chủ động chuẩn bị và tiến hành chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc. Hiện nay chúng ta còn nhiều hạn chế về cả lý luận và hoạt động thực
tiễn để chuyển đất nước nói chung và chuyển địa phương nói riếng sang thời
chiến nhất là trong điều kiện kẻ thù có ưu thế về vũ khí trang bị và nhất là vũ
khí công nghệ cao. Do đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ đảng và nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở phải luôn học tập rút kinh nghiệm để không ngừng hoàn thiện
cả lý luận và thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Liên hệ thực tiễn
Câu 9: Làm rõ cơ chế Đảng lãnh đạo khu vực phòng thủ tỉnh (TP) trực
thuộc trung ương?
Đặt vấn đề
Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc là một
chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Ngày nay, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch đã và đang ra sức chống phá cách mạng nước ta
thông qua chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, thậm chí can thiệp
vũ trang khi có điều kiện và thời cơ. Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân

phải tiếp tục triển khai thực hiện xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân. Trong đó trọng tâm là thực hiện Nghị quyết số
28 - NQ/TƯ ngày 22 tháng 9 năm 2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng


tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc để bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) : Khu vực phòng thủ
tỉnh (thành phố) là tổ chức quốc phòng, an ninh theo địa bàn hành chính của
tỉnh (thành phố), tạo thành thế trận quốc phòng - an ninh cả nước; được xây
dựng vững mạnh về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự, an ninh, dưới
sự lãnh đạo, chỉ huy của cấp tỉnh (thành phố) tạo thành sức mạnh tổng hợp,
tập trung chủ yếu vào những khu vực phòng thủ then chốt để phòng thủ địa
phương, chống mọi âm mưu, hành động phá hoại và xâm lược của kẻ thù, giữ
vị trí chién lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vận dụng đúng đắn cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ huy trong khu vực
phòng thủ. Thực hiện đúng theo cơ chế Nghị quyết số 28 của Bộ Chính trị
- Nội dung cơ chế
Để bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ và thống nhất của Đảng, mà trực tiếp
là cấp uỷ địa phương đối với công tác quốc phòng và an ninh ở địa phương,
Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ra nghị quyết số 28
- NQ/TƯ ngày 22/9/2008 về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới. Trong
đó, xác định rõ cơ chế; đồng thời, cụ thể hóa hơn nữa chức năng, nhiệm vụ
của người chỉ huy các cơ quan quân sự và công an trong các tình huống về
quốc phòng và an ninh.
“Xây dựng và hoạt động của khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) đặt
dưới sự lãnh đạo của tỉnh (thành) ủy; chính quyền tỉnh (thành phố) quản lý,
điều hành theo pháp luật; cơ quan quân sự, công an, các ban ngành, đoàn thể
tỉnh (thành phố) làm tham mưu theo chức năng. Chỉ huy trưởng quân sự, công

an tỉnh (thành phố) chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang thuộc quyền.
Hoạt động của khu vực phòng thủ trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm, biểu tình, gây rối; phòng, chống khủng bố, bắt cóc con tin, bạo loạn
chính trị, bạo loạn vũ trang, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
do người đứng đầu cơ quan công an ở địa phương chủ trì tham mưu và chỉ
huy lực lượng công an phối hợp với lực lượng quân sự và các lực lượng khác
xử lý theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do luật pháp quy định;
Hoạt động của khu vực phòng thủ trong tình huống khẩn cấp về quốc
phòng và chiến tranh, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của cấp uỷ đảng,
sự chỉ đạo thống nhất của uỷ ban nhân dân, do chỉ huy trưởng cơ quan quân sự
địa phương chủ trì tham mưu và chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang của
khu vực phòng thủ, phối hợp với các lực lượng khác sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu”
- Các thành phần trong cơ chế
Thành phần lãnh đạo là cấp uỷ địa phương các cấp;
Thành phần quản lý điều hành là chính quyền địa phương (hội đồng
nhân dân, uỷ ban nhân dân) các cấp;
Thành phần làm tham mưu là tất cả các ban, ngành, đoàn thể chính trị


×