Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề CƯƠNG ôn THI tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CHỦ NGHĨA xã hội SAU ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.86 KB, 48 trang )

Câu 1: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất, đặc trưng của CNXH
và động lực của CMVN. Rút ra ý nghĩa thực tiễn và phê phán quan điểm sai
trái.
Bài làm
Đặt vấn đề
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Trong hệ thống quan điểm toàn diện ấy thì tư tưởng của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một bộ phận đặc
biệt quan trọng. Trong đó, có quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản
chất của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta những tác phẩm chuyên khảo về chủ
nghĩa xã hội nói chung, về đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng như động
lực của CMVN nói riêng. Nhưng, thông qua nhiều bài báo, bài phát biểu, bài nói
chuyện với cán bộ, đảng viên, với bộ đội, thanh thiếu niên, nhi đồng, v.v., Người đã
thể hiện sâu sắc tư tưởng của mình về những vấn đề đó
1. Cơ sở hình thành
* HCM đã tiếp cận CNXH từ CNYN và truyền thống VH tốt đẹp của DT
- Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH gắn liền với quá trình hoạt
động của người đi tìm đường cứu nước, trở thành người cộng sản và lãnh tụ của của
Đảng và của dân tộc ta. Tư tưởng Hồ chí Minh về CNXH rất sâu sắc, độc đáo, giản
dị, phù hợp với trình độ nhận thức của nhân dân ta.
Nếu CNXH là một chế độ xã hội mà trong đó con người được sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, không có áp bức, bóc lột, bất công, người với người sống hòa hợp,
hữu ái, thì nó đã trở thành khát vọng, ước mơ hàng ngàn năm của loài người. Do đó
khi đi tìm câu trả lời về nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH,
trước hết cần phải thấy tư tưởng về CNXH của Người có mối liên hệ và nằm trong
dòng chảy tư tưởng CNXH của lịch sử nhân loại.
- Là con người của dân tộc Việt, dân tộc có truyền thống yêu nước, đoàn kết,


tính cộng đồng, tương thân, tương ái, thương yêu con người, lại được sống gần gũi
với nhân dân lao động từ nhỏ, được sự giáo dục chu đáo của gia đình, ở Người đã
sớm hình thành tinh thần yêu nước thương dân, mang trong mình khát vọng giải
phóng của nhân dân, từ đó đã đưa Người vượt qua nhận thức và hành động của thế hệ
trẻ thanh niên đương thời, quyết tâm đi tòm đường cứu nước. Đây là khởi điểm mở ra
cho Người hiểu về thế giới rộng lớn để tìm ra câu trả lời cho con đường cứu nước và
nhờ đó Người đã giác ngộ tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, trở thành
chiến sỹ đấu tranh cho CNXH và CNCS, để từ đó hoàn thiện trong Người nhân cách
của một vị anh hùng giải phóng dân tộc, của một nhà lãnh đạo cộng sản lỗi lạc, kiệt
xuất. Từ chủ nghĩa yêu nước đến vơi chủ nghĩa Mác – Lênin, trở thành người cộng
sản kiệt xuất, nên trong tư tưởng về CNXH của Hồ Chí Minh các yếu tố truyền thống


lịch sử dân tộc cũng bắt nguồn và in đậm vào tư tưởng đó. Người đã tiếp cân CNXH
từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, cứu dân, cứu nước. Người
khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới” (HCM, toàn tập, tập 12,
tr474). Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH còn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. đó
là truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, khoa dung, nhân ái, là đạo đức nhân cách của
con người: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trung với nước, hiếu với dân, xa lạ
với cá nhân chủ nghĩa.
* Tư tưởng về CNXH của Hồ Chí Minh còn là sự kết tinh tư tưởng của
những bộ óc vĩ đại trong lịch sử nhân loại ở cả phương Đông và phương Tây
- Người đã lĩnh hội được tư tưởng từ bi của Đức Phật, tư tưởng bác ái thương
người của chúa Giê su, tư tưởng về thế giới đại đồng của Khổng Tử, chủ nghĩa tam
dân của Tôn Trung Sơn. Sau này khi trở thành người xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ
nghĩa Hồ Chí Minh nói rẳng: “chúa Giê su chỉ lo cứ thế độ dân, hy sinh cho tự do,
bình đẳng”, “nếu đức Giê su sinh ra vào thời đại chúng ta và phải đặt mình trước
những khổ đau của người đương thời, chắc Người sẽ là một người xã hội chủ
nghĩa”. “Nếu Khổng Tử sống trong thời đại chúng ta …cũng có khả năng là siêu

nhân, cũng chịu thích ứng với hoàn cảnh và trở thành người kế tục trung thành
của Lênin”, Hồ Chí Minh còn khẳng định: “mục đích cao cả của phật Thích Ca và
Giê su đều muốn mọi người có cơm ăn áo mặc, bình đẳng tự do và thế giới đại
đồng” (HCM, toàn tập, tập 1, tr.35). Đánh giá về những giá trị cao cả đó của các vĩ
nhân trong lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định “học thuyết Khổng Tử có ưu
điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, tôn giáo Giê su có ưu điểm là lòng
bác ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện
chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó phù hợp
với điều kiện của nước ta. Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những
ưu điểm đó sao. Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi
cho xã hội. Nếu hiện nay họ còn sống trong đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi
tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ, như những người bạn
thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH bắt nguồn trực tiếp từ quan điểm chủ
nghĩa Mác – Lênin về CNXH
- Từ CNYN, Hồ Chí Minh đi đến CNMLN, tiếp thu được linh hồn các nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam. Hơn thế nữa, Người đã cùng Đảng ta và nhân dân ta từng bước hiện thực
hóa và phát triển sáng tạo các nguyên lý đó phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đưa đất
nước Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
- Quan điểm CNMLN về CNXH có thể khái quát ở một số nội dung cơ bản:
+ Xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất tiên tiến,
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.


+ Thực hiện phân phối theo lao động, thực hiện kỷ luật lao động mới.
+ Có nền chuyên chính vô sản – nhà nước XHCN của chế độ dân chủ XHCN,
dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản.
+ Nền văn hóa XHCN mang bản chất vô sản, tính dân tộc, nhân dân là chủ thể
sáng tạo, hưởng thụ các giá trị văn hóa.

+ Là xã hội kiểu mẫu, bảo đảm cho các nhân phát triển toàn diện, sự tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người.
+ Đoàn kết giai cấp, dân tộc và đoàn kết với nhân dân các dân tộc khác.
Nắm vững bản chất CNXH của chủ nghĩa Mác – Lênin và điều kiện cụ thể của
lịch sử Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận
dụng và góp phần phát triển sáng tạo quan điểm về CNXH.
* HCM đã tiếp cận CNXH từ thực tiễn CMVN và xu thế thời đại.
* HCM đến với CNXH từ tư duy độc lập, sáng tạo, tự chủ
2. TT HCM về bản chất, đặc trưng CNXH và động lực của CMVN
* Bản chất, đặc trưng của CNXH
Để hiểu rõ những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của
Hồ Chí Minh, trước hết chúng ta cần hiểu rõ quan niệm của Người về chủ nghĩa xã
hội. Bởi lẽ, trên cơ sở quan niệm về chủ nghĩa xã hội nói chung Hồ Chí Minh đã nêu
lên những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.(*)
Chủ nghĩa xã hội nói chung trong quan niệm của Hồ Chí Minh khá phong phú,
nhưng bao gồm trước hết là lý tưởng chính trị - xã hội; là phong trào hiện thực giải
phóng người lao động và các dân tộc thuộc địa; là xu thế tất yếu của lịch sử nhân
loại; là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản.
Hồ Chí Minh với những năm tháng trực tiếp tham gia phong trào công nhân ở
các nước tư bản phương Tây, đặc biệt sống trong lòng tư bản Pháp, lại được tiếp nhận
chủ nghĩa Mác - Lênin, nên Người sớm nhận ra rằng, chủ nghĩa tư bản có những mâu
thuẫn vốn có mà nó không thể tự giải quyết được. Mâu thuẫn vốn có quan trọng nhất
là mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất (tính chất sản xuất là công
cộng) và tính chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất (tư liệu sản xuất
lại nằm trong tay một số rất ít người). Để giải quyết được những mâu thuẫn vốn có ấy
cần đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mới
giải quyết được tận gốc những mâu thuẫn vốn có ấy của chủ nghĩa tư bản. Do vậy,
chủ nghĩa xã hội với Hồ Chí Minh trước hết là lý tưởng chính trị - xã hội để giải
phóng con người mà trên hết, là người lao động khỏi ách áp bức, nô dịch, bóc lột của
chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh

viết rõ: “Hiện nay, chế độ tư bản có những mâu thuẫn to, nó không giải quyết được.
Một là nhà tư bản sản xuất hàng hóa quá nhiều, quá mau nhưng không bán hết được;
vì công nhân thì nghèo khổ, lớp trung và tiểu tư sản thì nhiều người đã phá sản. Hai
là tính chất sản xuất là công cộng - hàng nghìn hàng vạn công nhân cùng làm ở một
nhà máy. Mà tư liệu sản xuất lại nằm trong tay một số rất ít người. Mâu thuẫn ấy gây
ra nạn thất nghiệp và nạn kinh tế khủng hoảng. Chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa (cộng
sản chủ nghĩa) mới giải quyết được mâu thuẫn ấy”(1). Mặc dù, hiện nay, chủ nghĩa tư


bản đã có những điều chỉnh nhất định, nhưng nhận định của Hồ Chí Minh về mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn.
Chủ nghĩa xã hội với Hồ Chí Minh còn là một phong trào hiện thực nhằm giải
phóng người lao động khỏi mọi áp bức, nô dịch của chủ nghĩa tư bản và giải phóng
các dân tộc thuộc địa. Bởi lẽ, “nhà tư bản chẳng những bóc lột công nhân trong nước
họ mà còn xâm lược và bóc lột các nước khác”(2). Do vậy, Hồ Chí Minh nhận thức
hoàn toàn đúng rằng, “tất cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích
chung là thoát khỏi áp bức, bóc lột, được sống trong sung sướng, tự do, tức là thực
hiện chế độ cộng sản”(3). Do vậy, ngay trong lòng các nước tư bản, các Đảng Cộng
sản cũng lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản vì chủ nghĩa cộng sản. Do đó, chủ nghĩa xã hội (chủ nghĩa cộng sản) đã
trở thành một phong trào hiện thực: “Ngay ở các nước tư bản cũng có những đảng
cộng sản và đang đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản. Thế là chủ nghĩa cộng sản không
chỉ ở trong lý luận mà đã thực hiện dần dần ở phần lớn trong thế giới”(4). Ngay từ
những năm 1923 - 1924, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận thức rất sâu sắc
rằng, “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc
giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của sự nghiệp cách
mạng thế giới”(5). Như vậy, chủ nghĩa xã hội (chủ nghĩa cộng sản), theo Người, là
một phong trào hiện thực giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức tư bản chủ
nghĩa. Đặc biệt, từ sau Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản từ ước mơ của những người lao động đã trở thành phong trào hiện

thực giải phóng người lao động trên thế giới: “Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
từ chỗ chỉ là ước mơ cao đẹp của loài người, sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại đã
trở thành một hiện thực trong xã hội, có sức mạnh vô cùng to lớn lôi cuốn hàng nghìn
triệu người vào hành động cách mạng, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội”(6).
Hồ Chí Minh cũng nhận thức sâu sắc rằng, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
là tất yếu trên con đường phát triển của lịch sử loài người: “Từ cộng sản nguyên thủy
đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội
(cộng sản) – nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy”(7).
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cộng sản gồm hai giai đoạn. “Giai đoạn thấp, tức
là chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn cao, tức là chủ nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống
nhau ở nơi: Sức sản xuất đã phát triển cao; nền tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là
của chung; không có giai cấp áp bức bóc lột. Hai giai đoạn ấy khác nhau ở nơi: Chủ
nghĩa xã hội vẫn còn chút ít vết tích của xã hội cũ. Xã hội cộng sản thì hoàn toàn
không còn vết tích xã hội cũ”(8).
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội còn là một chế độ xã hội ưu việt hơn hẳn
chủ nghĩa tư bản; là xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Theo Người, chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản “mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc
làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền
cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay
chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau
và yêu thương nhau”(9). Rõ ràng, chủ nghĩa xã hội phải là xã hội ưu việt hơn hẳn chủ
nghĩa tư bản. Xã hội ấy đem lại cho người lao động trên thế giới không phân biệt


chủng tộc, nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no, hòa bình, hạnh
phúc; mang lại cho con người cơ sở để yêu thương, giúp đỡ nhau. Đồng thời, chủ
nghĩa xã hội từ trong bản chất của mình là xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
Theo Người, không có một chế độ xã hội nào tôn trọng cá nhân người lao động như

chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ,
“trong chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động
làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng
góp một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập
thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi
ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thỏa mãn”(10).
* Đặc trưng của CNXH
Hồ Chí Minh bày tỏ quan niệm của mình về CNXH không chỉ trong một bài nói,
bài viết nhất định nào, mà trong từng hoàn cảnh cụ thể, từng đối tượng cụ thể Người lại
có những cách diễn đạt phù hợp. Bởi vậy, trong tư tưởng của Người có khoảng 20 định
nghĩa khác nhau về CNXH.
Vẫn theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về CNXH, nhưng qua cách
diễn đạt của Hồ Chí Minh thì những vấn đề đầy chất lý luận chính trị phức tạp được
biểu thị bằng những ngôn ngữ dung dị của đời sống hàng ngày.
Trả lời câu hỏi “CNXH là gì?” Hồ Chí Minh đưa ra những luận đề tiêu biểu như:
Nói một cách tóm tắt mộc mạc, CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động
thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống
một đời hạnh phúc. CNXH là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn lạc hậu;
CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,… làm của chung; CNXH là một xã hội
không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao
động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không
làm không hưởng; CNXH gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát
triển văn hoá của nhân dân; Chỉ trong chế độ XHCN thì mỗi người mới có điều kiện
để cải thiện đời sống của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình;
CNXH là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên. Đó là công trình tập thể của
quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng; Chế độ XHCN và CSCN là chế độ
do nhân dân lao động làm chủ…Từ những luận đề trên có thể khái quát lên thành
những đặc trưng chủ yếu của CNXH ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:
- Về kinh tế: CNXH là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao gắn liền
với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, dần xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về

TLSX.
+ Đó là xã hội có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã
hội cao, sức sản xuất luôn luôn phát triển trên nền tảng phát triển khoa học kỹ thuật,
ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học - kỹ thuật của nhân loại.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”.
+ “Trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột
theo chủ nghĩa tư bản được xóa bỏ dần, đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân ngày càng được cải thiện”.


+ Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được tạo trên cơ sở chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất. Người chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe
lửa, ngân hàng v.v…làm của chung”.
+ Trong thời kỳ quá độ, về hình thức sở hữu, Người cho rằng: “sở hữu của nhà
nước tức là sở hữu của toàn dân; sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân
dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ; một ít tư liệu sản xuất thuộc về sở
hữu của nhà tư bản”. Trong đó “kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn
dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và nhà nước phải bảo đảm cho nó phát
triển ưu tiên…”.
+ Về nguyên tắc phân phối dưới chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chỉ rõ là
nguyên tắc phân phối theo lao động. Người viết: “một xã hội không có chế độ người
bóc lột người, một xã hội bình đẳng nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền
lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm thì
không hưởng”
- Về chính trị: chế độ chính của CNXH được Hồ Chí Minh khẳng định: “chế
độ XHCN là một chế độ do nhân dân lao đông làm chủ”. “nhà nước ta là nước
dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người
quyét nhà, nấu ăn, đến chủ tịch nước đều là phân công làm đầy tớ của dân”
+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân,

vì dân. Người viết: “nhà nước của ta là nhà nước dân chủ, nhân dân dựa trên nền
tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Trong nhà nước đó
nhân dân “có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân nếu
những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Người
đòi hỏi: “nhà nước phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn
dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân làm cho mọi công
dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc nhà nước, ra sức xây dựng chủ
nghĩa xã hội”.
- Về văn hóa: nền văn hóa xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là
nền văn hóa “có tính chất dân tộc khoa học, đại chúng”. Tính chất của nền văn hóa
Việt Nam xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh coi là đặc tính dân tộc, cốt cách dân
tộc, người còn chỉ rõ: “để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn
hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”.
+ Bản chất nền văn hóa xã hội chủ nghĩa theo Hồ Chí Minh phải được thể hiện
trên tất cả các yếu tố cấu thành nền văn hóa đó. Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng
nhất của từ này. Hồ Chí Minh đã quan niệm: “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh


hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sựa sinh tồn”.
+ Người còn nói rõ hơn: “năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc: một
là, xây dựng tâm lý:tinh thần độc lập, tự cường; hai là, xây dựng luân lý: biết hy
sinh mình, làm lợi cho quần chúng; ba là, xây dựng xã hội: mọi người có liên
quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; bốn là, xây dựng chính trị, dân
quyền; năm là, xây dựng kinh tế”.
+ Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa theo Hồ Chí Minh là “phải lấy hạnh phúc

của đông bào, của dân tộc làm cơ sở”, “văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng,
lười biếng, phù hoa xa xỉ”, “phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự
do”, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
- Về xã hội:
+ Về các vấn đề xã hội và quan hệ xã hội của CNXH, Hồ Chí Minh coi con
người là chủ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
có con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa theo Hồ Chí Minh phải
là con người phát triển toàn diện. Dưới chủ nghĩa xã hội, mọi người đề có điều kiện
để phát triển cá nhân: đức, trí, thể, mỹ. Đó là xã hội “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”, “nếu không giải phóng phụ nữ thì mới chỉ giải phóng một
nữa”. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội XHCN.
- Về quan hệ dân tộc, đoàn kết dân tộc:
+ Xã hội XHCN là một xã hội dựa trên sự tôn trọng quyền bình đẳng, đoàn kết,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, Người chỉ rõ: “phải đoàn kết các dân tộc anh em để
cúng nhau xây dựng Tổ quốc…phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và
đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận, ấm no, xây dựng
Tổ quốc”.
- Về quan hệ quốc tế của chủ nghĩa xã hội:
+ Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các dân
tộc yêu chuộng hòa bình và các lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới. Sau khi nước
ta giành được độc lập Người chủ trương: “chính sách ngoại giao của chính phủ thì
chỉ có một điểm, tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ
gìn hòa bình”. “Thái độ nước Việt Nam đối với các nước Á Châu là một thái độ
anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”. Đối với giai cấp công nhân và
các nước xã hội chủ nghĩa thì quan hệ đó được xây dựng trên tinh thần chủ nghĩa
quốc tế vô sản và chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa:
“Quan san muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em”.
Như vậy, có thể nói mặc dù Hồ Chí Minh không viết những công trình khoa
học chuyên biệt về chủ nghĩa xã hội song trong nhiều bài nói, bài viết của Người,

những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được chỉ ra rất cụ thể, sâu sắc, sáng tỏ
với cách trình giản dị, độc đáo. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí


Minh về chủ nghĩa xã hội là cơ sở lý luận của Đảng ta về các đặc trựng chủ nghĩa xã
hội Việt Nam đã được trình bày trong các văn kiện của Đảng, trong cương lĩnh năm
1991 và nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X, và đang được toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta vận dụng trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
* Về động lực của CMVN
- Muốn thực hiện những mục tiêu của cách mạng, theo Hồ Chí Minh là phải
nhận thức, vận dụng và phát huy các động lực, làm cho nó thực sự trở thành sức
mạnh thúc đẩy sự nghiệp cách mạng đi đến thành công. Theo Người, - Động lực của
chủ nghĩa xã hội theo nghĩa rộng được Hồ Chí Minh chỉ ra là Sử dụng đồng bộ các
đòn bẩy về kinh tế-chính trị-văn hóa-xã hội để kích thích tính tích cực của người lao
động. Ở phương diện này Người nhấn mạnh 2 nội dung Tính đồng bộ của các đòn
bẩy và Trình độ năng lực của cán bộ quản lý nhà nước
- Động lực của chủ nghĩa xã hội theo nghĩa hẹp được Hồ Chí Minh chỉ ra là vấn
đề con người. Ở phương diện này Người khẳng định là Đại đoàn kết dân tộc và Con
người mới XHCN.
- Động lực của chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh nêu rất cụ thể, nhưng cũng
rất phong phú đa dạng, có thể khái quát như sau:
+ Thứ nhất, động lực chính trị tư tưởng, tinh thần.
Sức mạnh tiềm tàng của quần chúng chỉ được huy động vào sự nghiệp cách
mạng khi quần chúng giác ngộ lý tưởng cách mạng, nhất trí với quan điểm của Đảng,
tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh
từng nói, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công “cần có ý thức giác ngộ xã hội
chủ nghĩa cao, một lòng một dạ phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội”[13].
Sự giác ngộ này có được là kết quả của một quá trình tuyên truyền, giáo dục lâu
dài, bền bỉ của toàn hệ thống chính trị.

+ Thứ hai, phát huy sức mạnh đoàn kết của cộng đồng dân tộc.
Sức mạnh ấy thể hiện ở lực lượng của các giai cấp công nhân, nông dân, tầng
lớp trí thức, các dân tộc, đồng bào yêu nước trong và ngoài nước không phân biệt
đảng phái, tôn giáo, tín ngưỡng.
+ Thứ ba, thoả mãn những nhu cầu, lợi ích chính đáng của người lao động
Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, hành động của con người luôn luôn gắn với nhu cầu
và lợi ích của họ. Vì vậy, Người chú ý kích thích động lực mới là lợi ích cá nhân chính
đáng của người lao động; chủ trương thực hiện các cơ chế chính sách để kết hợp hài hoà
lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, như thực hiện khoán, thưởng, phạt đúng đắn và nghiêm
túc trong lao động sản xuất.
Trong cách mạng, có những lĩnh vực đời hỏi con người phải chịu hy sinh, thiệt
thòi, chỉ lợi ích kinh tế không thôi thì chưa giải quyết được, cần có động lực chính trị
- tinh thần. Vì vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải phát huy quyền làm chủ và ý thức là
chủ của người lao động.
Thực hiện CNXH (công bằng nhưng không cào bằng). Người căn dặn: không sợ
thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên.
+ Thứ tư, để tạo động lực cho CNXH, còn cần phải sử dụng vai trò điều chỉnh
của các nhân tố tinh thần khác như chính trị, đạo đức, văn hoá, pháp luật.


+ Thứ năm, ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp
được sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, phải sử dụng tốt những
thành quả khoa học - kỹ thuật thế giới,…
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết định
nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
- Để phát huy cao độ những động lực của CNXH, cần phải khắc phục những trở
lực kìm hãm nó. Đó là:
+ Phải thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (giặc nội xâm), vì nó là
kẻ địch hung ác của CNXH, là"bệnh mẹ" đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm khác.
+ Phải thường xuyên đấu tranh chống tham ô, lãng phí và quan liêu, vì nó là bạn

đồng minh của thực dân PK, nó phá hoại đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính.
+ Chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật, vì nó làm giảm sút uy tín và
ngăn trở sự nghiệp của Đảng.
+ Chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập,…
3. Ý nghĩa thực tiễn
Tư tưởng HCM về đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng như động lực
của cách mạng Việt Nam là những luận điểm sáng tạo, đặc sắc có giá trị lý luận và
thực tiễn sâu sắc.
- Một mặt nó làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về
hình thái kinh tế xã hội CSCN.
- Là cơ sở quan trọng để ĐCS VN tiếp thu, vận dụng sáng tạo để từng bước hình
thành mô hình XHXHCN mà nhân dân ta xây dựng.
- Là cơ sở để các ĐCS và GCCNVN đấu tranh làm thất bại các quan điểm sai
trái, phủ nhận con đường đi lên CNXH ở VN, xuyên tạc bop méo chủ nghĩa MácLeeenin, tư tưởng HCM
Ngày nay, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa bình,
hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ,
khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo...vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Cách mạng
khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nuớc phát triển, nhưng cạnh
tranh, tranh giành thị truờng, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, nguồn lực khoa học
công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia,
nhất là các nước đang và kém phát trển trước những thách thức gay gắt. Ở trong
nước, bên cạnh thững thuận lợi cơ bản do những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử mà Đảng và nhân dân ta đã giành được trong sự nghiệp đổi mới làm tăng thế và
lực, uy tín quốc tế của đất nước, chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn,
thách thức to lớn. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm. Các cân đối kinh tế lớn, ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật
vững chắc. Một số lĩnh vực xã hội còn có những mặt yếu kém như giáo dục, đào tạo,
khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, quản lý các hoạt động văn hóa, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông; tệ tham nhũng, lãng phí chậm được
khắc phục, gây bức xúc trong nhân dân. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống

phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hết sức quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn tinh
vi, thâm độc: tuyên truyền vu cáo, xuyên tạc, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa
bình”, âm mưu gây bạo loạn, bất ổn chính trị. Thêm vào đó, mặt trái của cơ chế thị


truờng tác động làm suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng
viên... làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.
Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất, đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội và động lực của cách mạng Việt Nam, chúng ta cần tập trung giải
quyết những vấn đề quan trọng nhất.
* Giữ vững mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội cũng chính là mục tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn dân ta. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh giành được độc lập dân tộc, từng bước quá độ
dần lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta, độc lập dân tộc phải gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, vì
đó là quy luật tiến hóa trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng của toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân
chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển
đất nước cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là tiếp tục con đường cách
mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đổi
mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là thay đổi mục tiêu.
Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách ngăn chặn,
phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững trên tất cả

mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; không vì phát triển, tăng
trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt khác của cuộc sống con
người.
Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt được để phục vụ cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, làm
cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội, sự trong sạch,
lành mạnh về đạo đức, tinh thần.
* Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các
nguồn lực, trước hết là nội lực để thực hiện CNH, HĐH đất nước
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải trải
qua. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, của
điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng biến nước ta thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong
muốn của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự
nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi
cho dân, nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, có phát huy


mạnh mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.
Trong nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất.
Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức
lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc để xây dựng
và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm
cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nhất
là ở địa phương, cơ sở, làm cho DC thật sự trở thành động lực của sự phát triển xã
hội.

- Chăm lo mọi mặt đời sống của ND để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ
sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã hội
vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi,
tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa. Chúng ta phải tranh thủ
tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phải có cơ
chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện
đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng HCM.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp
tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân
chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực quốc gia.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh
và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng rường cột của
nước nhà, để không tự đánh mất mình bởi xa rời cội rễ dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và
bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu
tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc.
* Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước,
đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần kiệm
xây dựng chủ nghĩa xã hội
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính, một
Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy, phải:
- Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng "đạo đức, văn
minh". Cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn,
lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi
việc.- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách đồng bộ

để phục vụ đời sống nhân dân.
- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm
khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính
quyền những "ông quan cách mạng", lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi ích
riêng; phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.


- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước, hăng
hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng nước
nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc sách, thành
một chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức, một hành vi văn hóa
như Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Một dân tộc biết cần, biết kiệm" là một dân tộc văn
minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu
có về vật chất, cao đẹp về tinh thần.
* Đối với quân đội
- Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của
cán bộ, chiến sĩ về vai trò, vị trí quan trọng, giá trị vận dụng to lớn của tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Toàn quân phải nhận thức đúng đắn và thực hiện nghiêm túc hai nhiệm vụ
chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
- Tích cực tham gia lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phần thiết thực,
hiệu quả cùng toàn dân đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
- Tích cực tham gia công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, góp phần củng
cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân - động lực chủ yếu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
4. Phên phán quan điểm sai trái
- Kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng sai trái, dao động
thiếu tin vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, những luận điệu thù địch muốn xuyên
tạc, phủ nhận làm chệch hướng con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

5. Trách nhiệm bản thân
Câu 2: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc trưng, con đường xây dựng
CNXH ở VN. Rút ra ý nghĩa thực tiễn và phê phán quan điểm sai trái
Bài làm
Đặt vấn đề
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc trưng, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là một nội dung rất quan trọng trong hệ thống nội dung tư tưởng của
Người. Đó là sản phẩm sáng tạo của trí tuệ Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống dân tộc, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên thế giới, trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn Việt
Nam. Đây là cống hiến lớn của Người cả trên phương diện lý luận và thực tiễn chỉ
đạo cách mạng; là một trong các nhân tố có vai trò quan trọng, quyết định thắng lợi
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Cơ sở hình thành (câu 1)
2. Về đặc trưng, con đường xây dựng CNXH ở VN
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc trưng CNXH (câu 1)
Hồ Chí Minh bày tỏ quan niệm của mình về CNXH không chỉ trong một bài nói,
bài viết nhất định nào, mà trong từng hoàn cảnh cụ thể, từng đối tượng cụ thể Người lại
có những cách diễn đạt phù hợp. Bởi vậy, trong tư tưởng của Người có khoảng 20 định
nghĩa khác nhau về CNXH.


Vẫn theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về CNXH, nhưng qua cách
diễn đạt của Hồ Chí Minh thì những vấn đề đầy chất lý luận chính trị phức tạp được
biểu thị bằng những ngôn ngữ dung dị của đời sống hàng ngày.
Trả lời câu hỏi “CNXH là gì?” Hồ Chí Minh đưa ra những luận đề tiêu biểu như:
Nói một cách tóm tắt mộc mạc, CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động
thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống
một đời hạnh phúc. CNXH là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn lạc hậu;
CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,… làm của chung; CNXH là một xã hội

không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao
động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không
làm không hưởng; CNXH gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát
triển văn hoá của nhân dân; Chỉ trong chế độ XHCN thì mỗi người mới có điều kiện
để cải thiện đời sống của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình;
CNXH là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên. Đó là công trình tập thể của
quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng; Chế độ XHCN và CSCN là chế độ
do nhân dân lao động làm chủ…Từ những luận đề trên có thể khái quát lên thành
những đặc trưng chủ yếu của CNXH ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam
* Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
- Để nhận thức đầy đủ và đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, trước hết chúng ta cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ nước
ta là một nước thuộc đia nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, bởi vậy muốn đi
lên chủ nghĩa xã hội, trước hết dân tộc ta phải được giải phóng khỏi ách áp bức thực
dân, phong kiến phải hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hồ Chí Minh
trong hành trình đi tìm đường cứu nước của mình đã sớm hình thành nhận thức chân
lý gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội và thực tiễn cách mạng Việt Nam đã
chứng tỏ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
trình cách mạng Việt Nam.
- Trong bài “cuộc kháng chiến” viết vào thập niên 20 của thế kỷ XX, Nguyễn
Ái Quốc chỉ rõ: “cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và cách mạng thế giới”. Trong chính cương vắn tắt 10.1930, Nguyễn Ái
Quốc đã xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn làm tư sản dân quyền
cách mạng và tổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đến năm 1960, Người
khẳng định “ chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh và mối QH giữa ĐLDT và CNXH vừa phản ánh
tính tất yếu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay,

thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH, gắn liền với cách mạng XHCN,
đồng thời phản ánh mối quan hệ hữu cơ giữa mục tiêu GPDT với mục tiêu giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn


kết chặt chẽ với cách mạng XHCN, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, bởi lẽ “nếu
nước nhà độc lập mà dân không được hưởng tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
lý gì”. vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới “làm cho dân giàu, nước mạnh”, “mọi người
được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh “yêu Tổ quốc,
yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội
thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh
thêm”.
- Để cách mạng giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, cuộc cách mạng
đó phải gắn liền với cách mạng vô sản, đi theo con đường cách mạng vô sản.
Trong cuộc cách mạng đó, giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa phải đoàn kết với giai
cấp vô sản ở chính quốc, phải cùng nhau phối hợp hành động chống kẻ thù chung.
Người đã nói: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa có hai vòi, một vòi bám vào chính
quốc, một vòi bám vào các nước thuộc địa. Muốn đánh bại chúng, thì phải cắt cụt cả
hai cái vòi đó. Cho nên, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính
quốc như hai cánh của một con chim. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại
cách mạng vô sản tất yếu phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản chân chính
theo chủ nghĩa Mác- Lênin. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” Hồ Chí Minh
khẳng định: “Cách mệnh muốn thành công trước hết phải có đảng cách mệnh…Đảng
có vững cách mạng mới thành công…Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
+ Người còn chỉ rõ: cách mạng là sự nghiệp chung của toàn dân, do đó phải lôi
cuốn, tập hợp, tổ chức, đoàn kết được các tầng lớp nhân dân thì cách mạng mới thành
công. Người viết: “Cách mệnh là việc chunmg của cả dân chúng chứ không phải việc
một, hai người”. Đoàn kết cả “sĩ, nông, công, thương” để chống cường quyền, trong

đó “công, nông là người chủ cách mệnh…công nông là gốc cách mệnh”.
- Cách mạng GPDT được tiến hành chủ động, kiên quyết, sáng tạo.
+ Mặc dù không phủ nhận vai trò cách mạng vô sản ở chính quốc đối với cách
mạng ở các nước dân tộc, thuộc địa và sự cần thiết phải phối hợp hành động giữa các
lực lượng của hai cuộc cách mạng đó. Song với tinh thần cách mạng- khoa học, Hồ
Chí Minh đã nhận thức sâu sắc tinh thần, ý chí, quyết tâm cách mạng của giai cấp vô
sản và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Vì vậy, Người dự báo, cách mạng
giải phóng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô
sản ở chính quốc, không cần chờ cách mạng vô sản ở chính quốc.Người chỉ rõ:
“Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân các nước thuộc địa) chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
+ Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tiên đoán: “Cách mạng thuộc địa không
những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà còn có thể giành
thắng lợi trước” và thậm chí “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại


của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đớ những người anh
em mình ở phương tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”
+ Để thức tỉnh ý thức, quyết tâm, tinh thần quật khởi đấu tranh giành độc lập
dân tộc, Hồ chí Minh cổ vũ: “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Đây chính là sức
mạnh nội lực dân tộc, nội lực cách mạng quyết định nhất các sự nghiệp đấu tranh
cách mạng của nhân dân các dân tộc.
- Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân phải vận dụng sáng tạo tư
tưởng cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác- Lênin.
+ Quan điểm về cách mạng vô sản, chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách mạng bạo
lực là quy luật phổ biến nhằm giành, giữ chính quyền và bảo vệ thành quả cách
mạng. Thấm nhuần quan điểm đó, vận dụng vào thực tế Việt nam- một nước thuộc
địa, nửa phong kiến, Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam tất yếu phải tổ
chức ra và sử dụng bạo cách mạng. Ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã đề cập đến
cuộc vũ trang khởi nghĩa ở Đông Dương để đánh đổ đế quốc, phong kiến. Đến năm

1941, Người khẳng định cách mạng Việt Nam phải thông qua khởi nghĩa vũ trang, đi
từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa. Người cùng toàn Đảng chăm lo xây
dựng bạo lực cách mạng gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, sử dụng hình
thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang và sự kết hợp của hai lực lượng, hai
hình thức đấu tranh đó trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, hai cuộc kháng chiến đã đưa
cách mạng Việt Nam đến thành công, giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước đi lên CNXH.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam
- Một là, cần nhận thức rõ tính quy luật và đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá
độ lên CNXH của một nước chưa kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
kinh tế chậm phát triển.
- Quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin về các hình thức quá độ:
trực tiếp hoặc gián tiếp, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát
triển theo con đường khác nhau…có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội…có
nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Đối với
Việt Nam, một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, lại
bị chiến tranh tàn phá, thiên tai khắc nghiệt thì con đường đi lên CNXH của Việt
Nam là phải “trải qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân” rồi “tiến lên chủ
nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
- Hồ Chí Minh đã chỉ ra những mâu thuẫn và đặc điểm của thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam. Người nói, đặc điểm to lớn nhất, bao trùm nhất của quá độ
lên CNXH ở nước ta là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội, không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Cần phải nắm
vững đặc điểm này để tìm ra phương thức, con đường, hình thức bước đi và các biện
pháp phù hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nói chung cũng như thực hiện


các nhiệm vụ phát triển trên các lĩnh vực đời sống xã hội, ở các cấp, các ngành, các
địa phương nói riêng.
- Hồ Chí Minh lưu ý, với đặc điểm đó, thì TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam

phải trải qua một quá trình lâu dài, phức tạp. Người chỉ rõ: “Tiến lên chủ nghĩa xã
hội không phải là một sớm, một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục”.
“Việt Nam ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, công cuộc đổi xã hội cũ
thành xã hội mới gian nan, phức tạp hơn việc đánh giặc”. “Chủ nghĩa xã hội
không thể làm mau được mà phải làm dần dần”.
- Nhận thức đúng tính chất lâu dài, gay go, phức tạp của thời kỳ quá độ là cơ
sở khách quan để ngăn ngừa những biểu hiện chủ quan, nóng vội, duy ý ý chí muốn
có ngay CNXH mà bất chấp quy luật khách quan. Vì vậy, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và
lâu dài”. Vì “Cuộc cách mạng XHCN là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc
nhất”. và “chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, xưa nay chưa từng có
trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý
nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ
sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới…phải dần dần
biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp”.
* Về nội dung các nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt nam.
- Trước hết về kinh tế- xã hội, theo Hồ Chí Minh là phải “xây dựng nền tảng
vật chất kỹ thuật của CNXH...có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và
khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh
tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
- Về chính trị- xã hội, theo Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ phải giữ vững
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đây không chỉ là nhân tố cơ bản mà
còn là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho sự phát triển đất nước theo con đường
XHCN; “phải thực hành dân chủ rộng rãi”, “nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước”,
“dân chủ phải đi đôi với chuyên chính”.
+ Cần chú ý chăm lo, tập hợp, tổ chức và phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của nhân dân, của các đoàn thể chính trị- xã hội. “Tăng cường củng cố khối
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công- nông”. Đặc biệt, điều căn bản là
đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng được đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, đoàn thể từ
Trung ương tới cơ sở “vừa hồng, vừa chuyên”, “xứng đáng là người lãnh đạo, người

đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên CNXH ở Việt Nam còn được thể hiện
ở những chỉ dẫn của Người về nhịp độ, phương thức và biện pháp đi lên CNXH.
+ Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm của các
nước anh em, đảng anh em trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Song, Người luôn
nhấn mạnh tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, vận dụng sáng tạo và phù hợp


với điều kiện, hoàn cảnh nước ta chứ không rập khuôn, máy móc. Người nói: “ Ta
không thể giống Liên Xô.., ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
- Về con đường đi lên CNXH, Hồ Chí Minh không chỉ rõ ta phải trải qua bao
nhiêu chặng đường, nhưng Người cho rằng: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai
bàn tay trăng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”, “không thể một sớm, một
chiều”; “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, “chớ có ham làm mau, ham
rầm rộ…Đi bước nào, vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần”.
Về bước đi trong nông nghiệp, Người nói: “Lúc đầu là cải cách ruộng đất, sau
tiến lên một bước là tổ chức tổ đổi công sao cho tốt, cho khắp, lại tiến lên hình thức
hợp tác xã dễ dàng rồi tiến lên hợp tác xã cao hơn”. Trong lĩnh vực công nghiệp,
Người chỉ dẫn: “ Mấy năm kháng chiến ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành
thị…nếu muốn công nghiệp hóa gấp là chủ quan…Ta cho nông nghiệp là quan trọng
và ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công
nghiệp nặng”. “Làm trái với Liên Xô cũng là Mác xít”.
- Về phương thức xây dựng CNXH, theo Hồ Chí Minh cần kết hợp giữa “xây và
chống”, giữa “cải tạo và xây dựng”, giữa “xây dựng và bảo vệ”, giữa “tự lực cánh
sinh là chính đồng thời ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các
nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới”. Cần phải “đem tài
dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”, “cái gì có lợi cho dân hết sức làm, cái gì
có hại cho dân hết sức tránh”.
- Bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Biện pháp xây dựng CNXH phải rất phong phú, năng động, sáng tạo. Người

thường nói: “Chủ trương một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi…mới có thể
hoàn thành tốt được”.
Để xác định bước đi và tìm cách làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí Minh đề ra
hai nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
+ Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc
tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chế
độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước anh em.
+ Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất
phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân
dân.
Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận này, Hồ Chí Minh xác định phương
châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: dần dần, thận trọng từng
bước một, từ thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng và sự tuần tự của các bước đi
do điều kiện khách quan quy định. Mặt khác, phải tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội, nhưng tiến nhanh, tiến mạnh cũng không phải làm bừa,
làm ẩu mà phải phù hợp với điều kiện thực tế. Trong các bước đi lên chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến vai trò của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa,
coi đó là "con đường phải đi của chúng ta", là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thực hiện thắng
lợi trên cơ sở xây dựng và phát triển nền nông nghiệp toàn diện, vững chắc, một hệ


thống tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ đa dạng nhằm giải quyết vấn đề lương
thực, thực phẩm cho nhân dân, các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho xã hội.
Cùng với các bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện pháp tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người đã sử dụng một số cách làm cụ
thể sau đây:
+ Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây
dựng, lấy xây dựng làm chính.
+ Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở

hai miền khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để thực
hiện thắng lợi kế hoạch đã đề ra.
+ Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội là đem của dân, tài dân, sức dân, làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Hồ Chí Minh cho rằng, phải huy động hết mọi tiềm năng, nguồn lực có trong
dân để đem lại lợi ích cho dân. Nói cách khác, phải biến sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội thành sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của
đảng cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách để huy động và
khai thác triệt để các nguồn lực của dân, vì lợi ích của quần chúng lao động.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH rất phong phú,
sâu sắc, độc đáo, sáng tạo. Đó là do Người đã nắm vững bản chất cách mạng- khoa
học chủ nghĩa Mác- Lênin, hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử cụ thể đất nước và đúc kết từ
thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo của Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước ta trong các giai
đoạn cách mạng, nhất là thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với chủ nghĩa
Mác- Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH đang
được toàn Đảng, toàn dân ta kế thừa, vận dụng và phát triển trong công cuộc đổi mới
hiện nay nhằm mục tiêu xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN, “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
3. Ý nghĩa thực tiễn
- Tư tưởng về đặc trưng, con đường xây dựng CNXH ở VN là một nội dung đặc
sắc, có giá trị lý luận thực tiễn to lớn trong di sản tư tưởng HCM. Nhờ vận dụng sáng
tạo tư tưởng này, đảng và nhân dân ta đã giành được nhiều thành tựu quan trọng
trong đấu tranh giành chính quyền và trong cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới,
góp phần làm phong phú thêm học thuyết Mác-Lênin về mô hình XHXHCN và con
đường đi lên CNXH ở 1 nước thuộc địa, nửa phong kiến không kinh qua con đường
TBCN. Đồng thời, đây là cơ sở để Đảng ta kiên định con đường mình đã chọn, đấu
tranh làm thất bại những quan điểm sai trái, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vì
hạnh phúc của đông đảo nhân dân lao động.

- Ngày nay, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa bình,
hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ,
khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo...vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Cách mạng
khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nuớc phát triển, nhưng cạnh
tranh, tranh giành thị truờng, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, nguồn lực khoa học
công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia,


nhất là các nước đang và kém phát trển trước những thách thức gay gắt. Ở trong
nước, bên cạnh thững thuận lợi cơ bản do những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử mà Đảng và nhân dân ta đã giành được trong sự nghiệp đổi mới làm tăng thế và
lực, uy tín quốc tế của đất nước, chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn,
thách thức to lớn. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm. Các cân đối kinh tế lớn, ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật
vững chắc. Một số lĩnh vực xã hội còn có những mặt yếu kém như giáo dục, đào tạo,
khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, quản lý các hoạt động văn hóa, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông; tệ tham nhũng, lãng phí chậm được
khắc phục, gây bức xúc trong nhân dân. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống
phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hết sức quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn tinh
vi, thâm độc: tuyên truyền vu cáo, xuyên tạc, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa
bình”, âm mưu gây bạo loạn, bất ổn chính trị. Thêm vào đó, mặt trái của cơ chế thị
truờng tác động làm suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng
viên... làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.
- Trong bối cảnh đó, Đảng ta, nhân dân ta khẳng định kiên định và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, mục tiêu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn
và được lịch sử phát triển của dân tộc ta gần một thế kỷ qua chứng minh rằng: chỉ có
con đường xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho dân tộc ta có nền độc lập thật sự, đất
nước ta phát triển ổn định, phồn vinh, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Đó là con đường đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

- Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, trong hoàn
cảnh mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng ta luôn xác định xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, một cuộc
đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội; vì vậy, nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài, nhiều bước phát triển, không thể đơn giản, chủ quan, nóng vội.
- Để thực hiện thành công mục tiêu xã hội xã hội chủ nghĩa, kế thừa và phát
triển các quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra các phương hướng
và nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng buớc xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế và cải
thiện đời sống nhân dân.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi
nguồn lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế.
Ba là, chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng,
giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Đồng thời, kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại.


Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân,
thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an
ninh; xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại.
Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp

tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển đất nước,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế
của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ trên thế giới.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là của nhân
dân, nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội, thực hiện các
cam kết quốc tế; giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nuớc và
nhân dân; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; có
cơ chế kiểm soát, ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách
nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, ra
sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo.
Những phương hướng và nhiệm vụ trên là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo của
Đảng ta những tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đây là
nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay
và trong tương lai.
* Đối với quân đội
- Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của
cán bộ, chiến sĩ về vai trò, vị trí quan trọng, giá trị vận dụng to lớn của tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Toàn quân phải nhận thức đúng đắn và thực hiện nghiêm túc hai nhiệm vụ
chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
- Tích cực tham gia lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phần thiết thực,

hiệu quả cùng toàn dân đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
- Tích cực tham gia công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, góp phần củng
cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân - động lực chủ yếu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
4. Phê phán quan điểm sai trái
- Kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng sai trái, dao động
thiếu tin vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, những luận điệu thù địch muốn xuyên
tạc, phủ nhận làm chệch hướng con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
5. Trách nhiệm bản thân


Câu 3: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường, phương
pháp cách mạng ở VN. Rút ra ý nghĩa thực tiễn và phê phán quan điểm sai trái
hiện nay
Bài làm
Đặt vấn đề
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường, phương pháp cách mạng là một nội dung
cơ bản, chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh . Đây cũng
là vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường, phương pháp cách mạng ở Việt Nam vừa là sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân
tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo của người trong
việc vận dụng những nguyên lý phổ biến của Chủ nghĩa Mac Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể Việt Nam. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường, phương pháp cách
mạng ở Việt Nam được coi là bước phát triển mới học thuyết Mac Leenin về cách
mạng thuộc địa ở thời điểm các dân tộc bị áp bức, bóc lột vùng lên đấu tranh cho độc
lập, tự do cho hạnh phúc của con người
1. Cơ sở hình thành (câu 1)
2. TT HCM Về CNXH
* Về M của CNXH
- Về mục tiêu của CNXH, khi trả lời câu hỏi CNXH là gì ? Hồ Chí Minh nhấn

mạnh: CNXH là giải phóng nhân dân khỏi nghèo nàn lạc hậu, “làm cho mọi người
có công ăn, việc làm, được ấm no, hạnh phúc”, “đất nước được hoàn toàn độc lập,
nhân dân hoàn toàn được tự do, ai cũng cơm ăn, áo mặc, ai cũn được học hành”.
- Để có CNXH, theo Hồ Chí Minh “nhiệm vụ quan trọng nhất…là phát triển
sản xuất để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Muốn có chủ
nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là dốc lực lượng của mọi người ra để sản
xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta…”.
* Về đặc trưng của CNXH (câu 1)
3. Về con đường cách mạng ở Việt Nam (câu 2)
Vạch ra con đường cách mạng đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khai
thông bế tắc đường lối giải phóng dân tộc, mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và
lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu nhất của cách mạng nước ta. Đó là
sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công
nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc. Đó là việc
xây dựng thành công lực lượng cách mạng với Mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi lấy
liên minh công nông làm nòng cốt, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng,
xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân đầu tiên ở nước ta. Đó là việc xác định
chính xác phương pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn đất nước để thực hiện thành
công các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trước các biến động hết sức phức tạp
trong các quan hệ quốc tế.
4. Về phương pháp cách mạng ở Việt Nam
* Tư tưởng về BLCM


Theo Hồ Chí Minh Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con
đường cách mạng bạo lực
- Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
+ Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn
áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành

động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì
chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ
có thể là con đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động
của bọn đế quốc và tay sai, HCM cho rằng: "Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống
kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực
phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền" . Sđd, t.12, tr.304.
+ Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ
Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng. Hình thức
của bạo lực cách mạngbao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhưng
phải "tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích
hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng" Sđd, t.12, tr. 304.
+ Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị
trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu
quân sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu
tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần
chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực
lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
+ Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Hồ
Chí Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm
mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột
bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những
nhượng bộ có nguyên tắc.
+ Việc tiến hành các hội nghị Việt - Pháp và ký các hiệp định trong năm 1946 là
thể hiện tư tưởng nhân đạo và hòa bình của Hồ Chí Minh. Theo Người, tinh thần
thiện chí của Việt Nam khi ký hiệp ước còn giá trị hơn mọi văn bản và lời nói, vì
chúng ta bảo đảm những lợi ích tinh thần, văn hóa và vật chất của Pháp, và ngược lại,
Pháp phải bảo đảm nền độc lập của chúng ta. Một chữ "Độc lập " là đủ để đưa lại một
sự tín nhiệm đang cần được khẳng định. "Tôi không muốn trở về Hà Nội tay không.
Tôi muốn khi trở về nước sẽ đem về cho nhân dân Việt Nam những kết quả cụ thể

với sự cộng tác chắc chắn mà chúng tôi mong đợi ở nước Pháp" Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 279.
+ Sau khi miền Bắc nước ta được giải phóng, Người kiên trì yêu cầu đối phương
thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, thực hiện hiệp thương tổng tuyển
cử thống nhất nước nhà.
+ Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không
còn khả năng thương lượng, hòa hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực
dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát
động chiến tranh.


+ Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách vãn hồi hòa bình.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nhiều lần gửi thư cho Chính phủ và
nhân dân Pháp, cho tướng lĩnh, binh sĩ trong quân đội Pháp và những kiều dân Pháp
ở Việt Nam, cho các chính phủ, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa và nhân dân các
nước, vừa tố cáo cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, vừa kêu gọi đàm
phán hòa bình. Người viết: "Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và
Việt ngừng chảy. Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau. Chúng tôi
mong đợi ở Chính phủ và nhân dân Pháp một cử chỉ mang lại hòa bình. Nếu
không, chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu đến cùng để giải phóng hoàn toàn đất
nước" . Sđd, t. 5, tr. 19.
+ Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Người gửi nhiều thông điệp cho các
nhà cầm quyền Mỹ, đề nghị đàm phán hòa bình để kết thúc chiến tranh. Khi quân Mỹ
tăng cường chiến tranh, một mặt Người kêu gọi quân dân ta "quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược", đồng thời chủ trương vừa đánh vừa đàm để kết thúc chiến tranh.
+ Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện
chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chủ trương, yêu nước, thương
dân, yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả
năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến
tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng,

dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc
lập tự do.
- Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc
+ Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương
châm chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói:
"Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất
định thua, ta nhất định thắng" . Sđd, t.4, tr. 485, "Trường kỳ kháng chiến... nhất định
thắng lợi" , 3. Sđd, t.6, tr. 82, 81-82.
+ Kháng chiến phải trường kỳ vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải
chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của toàn dân. Theo Người, họa thực
dân cũng như một chứng bệnh trầm trọng. Muốn chữa bệnh ấy, ta phải thật gan dạ để
chịu đau đớn khi mổ xẻ, phải có đủ thời giờ để bồi dưỡng lại sức, kết quả nhất định
tẩy trừ được bệnh ấy. Công cuộc kháng chiến cũng như vậy. Người phân tích: "Với
binh nhiều, tướng đủ, khí giới tối tân, chúng định đánh mau thắng mau.
+ Với quân đội mới tổ chức, với vũ khí thô sơ, ta quyết kế trường kỳ kháng
chiến... thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau"3.
+ Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người khẳng định: Chiến tranh có
thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại
đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!.
+ Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm
phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự
giúp đỡ bên ngoài. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người chỉ rõ: muốn người ta
giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã. Tháng Tám (1945) khi thời cơ


tổng khởi nghĩa xuất hiện, Hồ Chí Minh kêu gọi Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy,
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
+ Tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất (tháng 6-1952), Người nói,

muốn thắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh.
+ Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức
mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần
độc lập tự chủ. Người nói: "Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực
cánh sinh. Trông vào sức mình... Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan
trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác" . Sđd, t.6, tr.
522.
+ Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là
một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời
ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và
tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
* Tư tưởng về khời nghĩa, chiến tranh nhân dân, QPTD, BVTQXHCN
* Tư tưởng đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao
* Tư tưởng xây dựng đất nước đi lên CNXH
5. Ý nghĩa thực tiễn
Tư tưởng về con đường, phương pháp cách mạng ở VN là nội dung cơ bản, cốt
lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Nhờ tiếp thu,
vận dụng sáng tạo tư tưởng này mà đảng và nhân dân ta đã chấm dứt thời kỳ khủng
hoảng về đường lối, phương pháp đấu tranh cách mạng, chúng ta đã tranh thử được
sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, nhất là các nước XHCN anh em để làm nên những
thắng lợi vô cùng to lớn trong các cuộc chiến tranh để giải phóng dân tộc. Đưa nhân
dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ xã hội, đưa nước ta thu về một mối,
từng bước phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu khác. Đồng thời, đây
còn là sự bổ sung rất lớn, có giá trị của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác-Lênin
về CMVS ở các nước thuộc địa, tạo cơ sở để cổ vũ, tiếp thêm sức mạnh cho các dân
tộc trên thế giới đang bị áp bức, bóc lột vùng lên đấu tranh giành chính quyền. Mặt
khác, dây còn là cơ sở để đảng ta khẳng định sự kiên định con đường CMXHCN của
mình trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh làm thaats bại các quan điểm sai trái cho
rằng việc đảng ta đi theo con đường CMVS, sử dụng bạo lực khiến nhân dân VN rơi

vào cảnh “nồi da nấu thịt”, “đổi mới ở VN là nửa vời, kinh tế thị trường mà định
hướng XHCN là đầu Ngô mình Sở”….
Ngày nay, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa bình,
hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ,
khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo...vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Cách mạng
khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nuớc phát triển, nhưng cạnh
tranh, tranh giành thị truờng, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, nguồn lực khoa học
công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia,
nhất là các nước đang và kém phát trển trước những thách thức gay gắt. Ở trong
nước, bên cạnh thững thuận lợi cơ bản do những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử mà Đảng và nhân dân ta đã giành được trong sự nghiệp đổi mới làm tăng thế và
lực, uy tín quốc tế của đất nước, chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn,


thách thức to lớn. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm. Các cân đối kinh tế lớn, ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật
vững chắc. Một số lĩnh vực xã hội còn có những mặt yếu kém như giáo dục, đào tạo,
khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, quản lý các hoạt động văn hóa, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông; tệ tham nhũng, lãng phí chậm được
khắc phục, gây bức xúc trong nhân dân. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống
phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hết sức quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn tinh
vi, thâm độc: tuyên truyền vu cáo, xuyên tạc, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa
bình”, âm mưu gây bạo loạn, bất ổn chính trị. Thêm vào đó, mặt trái của cơ chế thị
truờng tác động làm suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng
viên... làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta, nhân dân ta khẳng định kiên định và vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường, phương pháp cách mạng ở VN. Tuy nhiên
để thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã đặt ra cần tập trung thực hiện tốt 1 số nội
dung cơ bản như sau:
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng buớc xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế và cải
thiện đời sống nhân dân.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi
nguồn lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế.
Ba là, chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng,
giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Đồng thời, kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại.
Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân,
thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an
ninh; xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại.
Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển đất nước,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế
của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ trên thế giới.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là của nhân
dân, nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội, thực hiện các
cam kết quốc tế; giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nuớc và



×