Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề CƯƠNG ôn THI môn tôn GIÁO dưới CHỦ NGHĨA xã hội SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.32 KB, 25 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN TÔN GIÁO DƯỚI CNXH
Câu 1. Làm rõ tình hình, đặc điểm tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Ý nghĩa
của vấn đề?
1. Một số vấn đề chung về tôn giáo
a) Khái niệm tôn giáo, nguồn gốc, tính chất của tôn giáo
- Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là hiện tượng xã hội phức tạp còn nhiều quan niệm khác nhau.
Theo quan niệm chung nhất, tôn giáo là hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, bao
gồm ý thức về lực lượng siêu nhiên, tổ chức, hoạt động tôn thờ lực lượng siêu nhiên mà
sự tồn tại và phát triển của nó là do sự phản ánh hư ảo hiện thực khách quan vào trong
đầu óc của con người.
Ở nước ta, về mặt quản lý nhà nước, một tổ chức tôn giáo được công nhận khi có
đủ các điều kiện sau: Là tổ chức của những người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo
luật, lễ nghi không trái với thuần phong, mỹ tục, lợi ích dân tộc; có hiến chương, điều
lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và không trái
với quy định của pháp luật; có đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn
định; có trụ sở, tổ chức và người đại diện hợp pháp; có tên gọi không trùng tên tổ chức
tôn giáo đã được cơ quan có thẩm quyền công nhận 1.
- Nguồn gốc tôn giáo
Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Do trình độ sản xuất thấp kém, con người bất lực
trước sức mạnh tự nhiên, sức mạnh xã hội làm cho họ tìm đến với thần thánh và hy
vọng được che chở, cứu vớt. V.I.Lênin khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột
trong cuộc đấu tranh chống bóc lột đẻ ra lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn ở thế
giới bên kia, cũng giống hệt như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh
chống thiên nhiên đẻ ra niềm tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu” 2.
Nguồn gốc nhận thức: Do trình độ nhận thức thấp kém, con người không lý giải
được các hiện tượng bí ẩn của thế giới khách quan, họ đã tưởng tượng, và gán cho nó
sức mạnh siêu tự nhiên, tạo ra các biểu tượng tôn giáo. Ph.Ăngghen đã viết: “Sự nhân
cách hoá các lực lượng tự nhiên làm nảy sinh ra những vị thần đầu tiên” 3.
Nguồn gốc tâm lý: Những trạng thái tâm lý tiêu cực như sự sợ hãi, cô đơn, bất
hạnh, đau khổ, nhất là sợ hãi trước cái chết và ngay cả trạng thái tâm lý tình cảm tích


cực như: lòng biết ơn, sự kính trọng, sự hài lòng và sự ngưỡng mộ trước vẻ đẹp hùng vĩ
của thiên nhiên, xã hội cũng làm nảy sinh nhu cầu tôn giáo. V.I.Lênin cho rằng: “sự sợ
hãi của quần chúng trước những thế lực mù quáng của thiên nhiên, của sự áp bức, bóc
lột, bất công của giai cấp thống trị đang hàng ngày, hàng giờ đe doạ, đem lại cho họ sự
phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành
một người ăn xin, một kẻ bần 4cùng và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc
sâu xa của tôn giáo hiện đại” . Ngoài ra truyền thống, phong tục, tập quán, thói quen
cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và phát triển của tôn giáo.
- Tính chất của tôn giáo
Xem Pháp lệnh Tín ngưỡng , Tôn giáo, số 21/2004/ PL-UBTVQH 11.
. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 12, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1979, tr.169.
3
. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 12, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1979, tr.169.
4.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 17, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1979, tr. 515.
1
2


2

Tính lịch sử: Tôn giáo là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử, ra đời, tồn tại, biến đổi
và mất đi gắn với sự vận động, biến đổi của xã hội loài người. Trong những điều kiện
lịch sử khác nhau, dân tộc khác nhau thì quan niệm về thần, thánh, về thân phận con
người và con đường giải thoát sẽ khác nhau. Tính lịch sử của tôn giáo phản ánh sự biến
đổi thích nghi của tôn giáo với điều kiện mới của lịch sử nhân loại, dân tộc.
Tính quần chúng: Tôn giáo phản ánh khát vọng của quần chúng về một xã hội tự
do, bình đẳng và bác ái, là nhu cầu tinh thần, niềm tin của một bộ phận đông đảo quần
chúng nên được đông đảo quần chúng tin theo. Hiện nay, ở nước ta và trên thế giới có
nhiều tín đồ, chức sắc tin theo các tôn giáo lớn là biểu hiện cụ thể tính quần chúng của

tôn giáo.
Tính chính trị: Trong xã hội có đối kháng giai cấp, giai cấp thống trị sử dụng tôn
giáo làm công cụ nô dịch mê hoặc, ru ngủ người lao động chấp nhận sự áp bức, bóc lột
của giai cấp thống trị, tôn giáo có tính chính trị. Ngày nay, tôn giáo đã và đang bị các
thế lực chính trị phản động lợi dụng chống phá cách mạng, cần cảnh giác đấu tranh
chống sự lợi dụng tôn giáo đó.
Tính đối lập với khoa học: Tôn giáo phản ánh hư ảo, sai lạc, duy tâm, thần bí thế
giới hiện thực vào trong đầu óc con người nên nó đối lập với khoa học. Trong lịch sử
tôn giáo đã từng sử dụng quyền lực tôn giáo để phủ nhận thành tựu, đàn áp các nhà
khoa học. Tính chất đối lập với khoa học trở thành nội dung bản chất của tôn giáo, kìm
hãm sự phát triển xã hội.
b) Bản chất, chức năng, vai trò xã hội của tôn giáo
- Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, một hình thái ý thức xã hội phản ánh xuyên
tạc hiện thực khách quan biến lực lượng tự nhiên, xã hội thành lực lượng siêu nhiên; là
“thế giới quan lộn ngược”, trong giải quyết mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
xã hội. Tôn giáo phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
Con người sáng tạo ra tôn giáo rồi trở thành nô lệ của tôn giáo. Xét đến cùng tôn giáo
áp bức con người về tinh thần làm tha hóa con người ở những mức độ khác nhau. Tuy
nhiên trong tôn giáo cũng hàm chứa những giá trị văn hóa đạo đức nhất định. Tôn giáo
luôn mang dấu ấn lịch sử của thời đại, của dân tộc mà nó ra đời, tồn tại và nó cũng biến
đổi, thích ứng với sự biến đổi của xã hội. Thông thường, khi mới ra đời các tôn giáo
đều phản ánh nguyện vọng của quần chúng, nhưng trong quá trình tồn tại, vận động và
phát triển thường bị các thế lực, giai cấp thống trị lợi dụng biến thành công cụ phục vụ
cho lợi ích của chúng, chống lại lợi ích của quần chúng. Tôn giáo còn tồn tại lâu dài,
còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân.
- Chức năng xã hội của tôn giáo
Chức năng đền bù hư ảo là chức năng xã hội chủ yếu, đồng thời cũng là đặc
trưng cơ bản của tôn giáo. Trong đời sống xã hội do con người còn nhiều sự khổ đau,
bất lực, yếu đuối. Nên tôn giáo vẫn là chỗ dựa để an ủi, khuyên răn bằng những lời giải

thích đầy huyền bí về sức mạnh, quyền uy cứu độ của thượng đế, góp phần tạo nên sự
hài lòng, tin tưởng vào các lực lượng siêu nhiên và cuộc sống hạnh phúc ở thiên đường;
góp phần giải toả sự sợ hãi, nỗi bất hạnh trong cuộc đời - mặc dù đó chỉ là hư ảo. Nhờ
đó, tôn giáo có khả năng giảm nhẹ một cách hư ảo sự bất hạnh trong cuộc sống con
người. Đúng như C.Mác nói: tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân, tôn giáo là hạnh
phúc ảo tưởng của nhân dân.


3

Chức năng thế giới quan: Tôn giáo tạo cho tín đồ, một quan niệm về thế giới, về
con người nhưng thế giới quan tôn giáo là “thế giới quan lộn ngược” 5, “vì bản thân
chúng là thế giới lộn ngược”. Sự phản ánh của tôn giáo là sự phản ánh hư ảo về thế giới
nên đã định hướng mọi suy nghĩ, nhận thức, hành động của con người, góp phần hình
thành trong tín đồ hệ thống quan niệm duy tâm về thế giới và những chuẩn mực giá trị
tôn giáo. Trong quan niệm của tôn giáo, vai trò chủ thể sáng tạo của con người bị biến
mất, họ phó mặc cho thần thánh
Chức năng điều chỉnh: Tôn giáo nào cũng có hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức
tôn giáo nhằm điều chỉnh suy nghĩ, hành vi ứng xử của con người với bản thân, với
người khác, với xã hội và với giới tự nhiên phù hợp với đức tin, trong đó có những
chuẩn mực, giá trị đạo đức chân chính, có ý nghĩa tích cực trong điều chỉnh hành vi của
con người, cộng đồng. Chức năng điều chỉnh của tôn giáo được thực hiện vừa tự giác,
vừa bắt buộc, tuân theo nội dung ở giáo lý, giáo luật, nghi lễ hành đạo. Do vậy, khi
đánh giá sức mạnh điều chỉnh của tôn giáo không chỉ thấy mặt tiêu cực mà còn nhận ra
những “hạt” tích cực ẩn chứa trong tôn giáo.
- Vai trò xã hội của tôn giáo.
Nếu như chức năng xã hội của tôn giáo do bản chất, đặc trưng của tôn giáo quy
định thì vai trò xã hội của tôn giáo không chỉ xuất phát từ bản chất, chức năng đó mà
còn chịu sự chi phối của chính trị, văn hoá, đạo đức... Trong xã hội có đối kháng giai
cấp, vai trò xã hội của tôn giáo thường bị chi phối bởi ý thức chính trị - giai cấp. Các

giáo hội ngoài chức năng tôn giáo còn thực hiện những chức năng ngoài tôn giáo như:
thống trị xã hội, chiến tranh xâm lược. Do vậy, khi đánh giá một tổ chức tôn giáo phải
luôn luôn có quan điểm lịch sử, cụ thể, đặc biệt phải phân biệt giữa chức năng xã hội
của tôn giáo với vai trò xã hội của nó.
Vai trò tiêu cực: Do bị thế giới quan duy tâm chi phối, tôn giáo thường hạn chế
phát triển tư duy duy vật, khoa học, làm cho con người dễ có thái độ nhẫn nhục, khuất
phục, không tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc tạo dựng hạnh phúc thật sự nơi trần
gian, mà lại hi vọng hạnh phúc ở cuộc sống sau khi chết. Điều đó dễ dẫn đến thái độ
mù quáng và hành vi cuồng tín ở một số tín đồ - chức sắc tôn giáo.
Do có bản chất chung là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên nên các sinh hoạt tôn
giáo rất dễ bị lợi dụng hành nghề mê tín dị đoan. Trong thực tế, các hiện tượng tôn giáo
và mê tín dị đoan thường đan xen nhau. Đồng thời ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo tăng
lên khi bị giai cấp thống trị và kẻ xấu lợi dụng để thực hiện ý đồ chính trị và “buôn thần
bán thánh”.
Vai trò tích cực: Tôn giáo vừa phản ánh sự khốn cùng của hiện thực, vừa phản
kháng chống lại sự khốn cùng ấy, nên có lúc tôn giáo đã góp phần cổ vũ cuộc đấu tranh
chống lại sự bất công, tàn bạo trong xã hội có áp bức và bóc lột. Và văn hóa, đạo đức
tôn giáo cũng có những nội dung mang tính nhân văn, khuyến thiện, trừ ác, nên có nội
dung đã trở thành giá trị văn hoá đạo đức tinh thần của nhân loại. Bởi thế, Đảng ta
khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động
viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích
cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 6.
2. Tình hình, đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam
- Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo; đa số người Việt Nam có tín ngưỡng tôn
giáo. Theo số liệu thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ các tôn giáo tính đến tháng 2
năm 2011: Việt Nam có trên 30 tổ chức tôn giáo được đăng ký và thế giới công nhận,
với 33 tổ chức tôn giáo, với khoảng 23 triệu tín đồ. Cụ thể: Phật giáo khoảng 10 triệu
5
6


. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 569.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 245.


4

tín đồ, Công giáo khoảng 6 triệu tín đồ, đạo Tin Lành khoảng 1 triệu 500 ngàn tín đồ,
đạo Cao Đài khoảng 2 triệu 500 ngàn tín đồ, Phật giáo Hòa Hảo hơn 1 triệu 200 ngàn
tín đồ, Hồi giáo khoảng 73 ngàn tín đồ… Ngoài ra, nhiều người Việt Nam còn tin theo
nhiều hình thức tín ngưỡng tôn giáo khác như vừa tin vào thờ cúng tổ tiên, chịu ảnh
hưởng Phật giáo, tin tử vi, tướng số.
- Tín ngưỡng tôn giáo của người Việt Nam có tính dung hợp, đan xen, hòa đồng
cao. Người Việt Nam nhân ái, khoan dung, độ lượng nên dễ dàng tiếp nhận, dung hợp các
tôn giáo thể hiện điển hình là hiện tượng tam giáo đồng nguyên Phật - Nho - Lão, sự "ngồi
chung" của các vị thần ở các điện thờ, chùa, đình, đền, miếu, ở trong giáo lí và điện thờ
của đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo; tư tưởng vạn vật hữu linh... Nhờ thế mà tín đồ, chức
sắc Việt Nam không cuồng tín, họ ưu tiên quan tâm đến cuộc sống hiện tại nhưng cũng dễ
làm tăng tính thực dụng, mê tín, buôn thần, bán thánh trong sinh hoạt tôn giáo.
- Tính trội của yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam. Xuất phát từ
văn hóa lúa nước, người Việt Nam rất coi trọng sự sinh sôi, nảy nở từ đó mà coi trọng yếu
tố nữ. Do đó, trong văn hóa cũng như trong tôn giáo, người Việt Nam thường coi trọng vai
trò của người mẹ, tôn thờ mẫu. Thực tế, ở nước ta nhiều nơi tôn thờ nữ thần, Phật bà,
Thánh mẫu, Mẫu Liễu Hạnh…
- Người có tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đa số là nhân dân lao động. Đại đa
số tín đồ, chức sắc tôn giáo là người lao động nên họ có tinh thần yêu nước, có ý thức
gắn bó cùng dân tộc, dễ gần và đi theo cách mạng, đã góp phần xứng đáng trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nên có lúc, có nơi
vẫn còn một bộ phận quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo bị các thế lực thù địch lợi
dụng đi ngược lại lợi ích của dân tộc và Tổ quốc, chống phá cách mạng.
- Trong những năm qua, tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có những biến thái

mới. Đại đa số tín đồ chức sắc tôn giáo tích cực hoạt động xã hội từ thiện, hoà nhập vào
đời sống xã hội, chỉ một số ít tín đồ, chức sắc tôn giáo bị kẻ xấu lợi dụng hành nghề mê
tín để đầu cơ, trục lợi, và cô lập thương mại hoá khá sâu sắc, cá biệt có một số phần tử
lợi dụng tôn giáo chống phá chế độ ta.
- Các thế lực thù địch luôn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng.
Trong lịch sử, các thế lực thù địch đều lợi dụng tôn giáo để xâm lược, nô dịch, đồng hoá
dân tộc. Trong thời kì chống Pháp, chống Mỹ, không ít tổ chức tôn giáo, chức sắc và tín
đồ bị kẻ thù lợi dụng chống lại cách mạng. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc xác định tôn giáo
là một lực lượng quan trọng để chống phá Nhà nước Việt Nam. Việc tăng cường truyền
đạo Tin Lành ở Tây Bắc, Tây Nguyên, đạo Vàng Chứ ở người H’Mông Tây Bắc, cái gọi là
“Tin Lành Đề Ga” ở Tây Nguyên... là minh chứng cụ thể của sự lợi dụng tôn giáo chống
phá.
Đặt ra:
+ So sánh, nhận định chung về đặc điểm, tình hình đó đối với một số nước xem nổi
lên vấn đề gì?
+ Đối với đường lối, quan điểm chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta?
Trước đó, Đảng ta nêu quan điểm chính sách gì? Có phù hợp không…?
3. Ý nghĩa
+ Thấy rõ thực trạng nổi bật về đặc điểm tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam trong tiến
trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
+ Chăm lo đến đồng bào theo đạo, có tín ngưỡng tôn giáo, cải thiện đời sống để xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


5

+ Là cơ sở nhận biết âm mưu thủ đoạn của kẻ thù lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Nhận thức vấn đề trên để xác định trách nhiệm của Quân đội trong vận động đồng
bào tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đặc biệt đồng bào có tín ngưỡng tôn

giáo.
4. Liên hệ trách nhiệm cá nhân
- Tích cực trau dồi nâng cao nhận thức về quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
- Tuyên truyền giáo dục, vận động cán bộ, chiến sĩ, học viên thực hiện nghiêm quan
điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
- Xử lý linh hoạt, hiệu quả những vấn đề tôn giáo nảy sinh.
- Trên cương vị tương lai (...), có học vị sau đại học tích cực tham gia viết bài đấu
tranh chống âm mưu, thủ đoạn của CNĐQ và các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống
phá cách mạng nước ta.
Câu 2. Phân tích những xu hướng vận động biến đổi của tôn giáo hiện nay và
mối quan hệ tôn giáo với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ý nghĩa của vấn đề?
I. Các xu hướng vận động biến đổicủa tôn giáo
1. Tôn giáo ngày càng đa dạng và phức tạp hơn
Theo như quan điểm của Mác: Tôn giáo là sản phẩm tinh thần của con người và
chính con người không nhận ra sản phẩm đó của chính mình và quỳ xuống cúi lạy nó.
Soi vào thực tiễn hiện nay, với những điều kiện phát triển của xã hội hiện đại, con
người ngày càng thông minh hơn, hoàn thiện hơn, nhưng tôn giáo ngày càng phát triển và
phức tạp hơn.
Ở Việt Nam, hiện có 12 tôn giáo được công nhận. Số người theo tôn giáo chiếm ¼
dân số.
Trên thế giới, ước tính số người có tín ngưỡng tôn giáo khoảng 90%.
Theo thống kê của các nhà khoa học thế giới, có khoảng 20.000 hiện tượng tôn giáo,
được ví như “kính vạn hoa”.
Vậy vì sao tại xã hội văn minh hiện nay, tôn giáo mới/ đạo lạ ngày càng nảy nở.
Trở lại lịch sử, chủ nghĩa Mác khẳng định, tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh
bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của trật thế giới không có
tinh thần, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.
Chúng ta thấy rằng, tiếng thở dài của chúng sinh là muôn thuở.
Thế giới vật chất là vô cùng vô tận, mà sự hiểu biết của con người có giới hạn, mặc

dù hiện nay khoa học ngày càng phát triển đã góp phần giải thích được nhiều hiện tượng.
(IQ – chỉ số thông minh; EQ- Emotions Quality: sự nhạy cảm, nhanh nhạy)
(Nghiên cứu thêm
Hồ Chí Minh khi trả lời phóng vấn của một nhà báo phương Tây: Chủ nghĩa Mác
được xây dựng trên cơ sở nào? Đó là trên cơ cở lịch sử xã hội phương Tây, mà lịch sử
phương Tây thì không phải là cả thế giới. Do đó, không thể cấm những người cộng sản
chúng ta xem xét lại và bổ sung chủ nghĩa Mác bằng những kinh nghiệm phương Đông.)
2. Xu hướng hình thành tôn giáo nhóm nhỏ, cá nhân


6

Các tôn giáo truyền thống vốn trừu tượng, khắt khe về giáo lý, giáo luật, chặt chẽ về
tổ chức, lễ nghi, khó thuyết phục và ít hấp dẫn con người ngày nay, và do đó, ngày nay, họ
đi tìm đến với các tôn giáo nhóm nhỏ, cá nhân với các giáo lý, giáo luật… dễ hiểu.
Những gì của cuộc sống thực tại đã và đang diễn ra còn nhiều điều làm cho con
người cảm thấy bất an, thậm chí bất lực… là một trong những nguyên nhân làm cho tôn
giáo nảy nở với nhiều hình thức mới.
3. Xu hướng thế tục hóa tôn giáo
Thế tục hóa tôn giáo:
- Tôn giáo đang tích cự tham gia vào thế giới trần tục, bắt đầu dấn thân nhập cuộc
tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội.
Đặc biệt trong lĩnh vực an sinh xã hội.
Hiện các tổ chức tôn giáo xin phép mở bệnh viện, Trường Đại học đào tạo thế tục,
nhưng Nhà nước ta chưa cho phép. (Nghiên cứu thêm)
+ Tôn giáo lý giải kinh thánh một cách lý tính, hiện thực , giảm tính huyền bí và
huyền thoại. Xóa đi những điểm lỗi thời lạc hậu trong giáo lý.
+ Không còn là nơi thâm cung bí hiểm, quan trọng hóa, thiêng liêng, không ngăn
cách.
Ví dụ: Trong Thiền viện ở An Giang, có đến khoảng 600 đứa trẻ, trong đó có

khoảng 60% không rõ nguồn gốc. Vậy có một câu hỏi đặt ra liệu có phải đây có vấn đề về
giải phóng năng lực tình dục cho giới tăng và ni?
+ Tôn giáo không tuyên chiến với khoa học.
Phật giáo nói rằng: Ông Phật mới sinh ra bước đi 7 bước.
Con người có 7 đốt sống cổ.
Trong toán học có 7 số nguyên tố.
Các kỹ sư thiết kế “nội thất”…
Từ đó, tôn giáo cho rằng đó là tiên đoán của tôn giáo.
+ Giảm được một số các nghi lễ.
- Tôn giáo và tâm linh bị biến thành một thức hàng hóa vật chất nhằm thỏa mãn nhu
cầu tôn giáo, tâm linh thực dụng của con người.
+ Con người ngày càng không còn cảm giác bị hóa thân…
- Xã hội và các nhà nước (ở các quốc gia không có tôn giáo) xóa bỏ hết các dấu vết
ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội…
+ Luật lệ xã hội không tham chiếu những lời răn của tôn giáo.
+ Coi tôn giáo là việc riêng tư, không trợ cấp tài chính công.
+ Ngăn cấm đọc kinh thánh, lễ nghi… (Luật lệ 1905 và các nghị định sau này của
nước Pháp).
+ Không cho phép giảng dạy các môn tôn giáo trong trường học.
4. Xu hướng nhạt đạo, khô đạo với các tôn giáo truyền thống
- Ở phương Đông:
+ Ấn Độ: Xứ sở của tôn giáo và thần linh, quê hương của các tôn giáo: Bà La Môn –
tiền thân của Hin Đu, đạo Xích, đạo Phật,… Thanh niên Ấn Độ thờ ơ, lạnh nhật với tôn
giáo.
+ Việt Nam được cho là có đạo Thờ cúng Tổ tiên – tôn giáo truyền thống của dân
tộc. (Tuy nhiên theo GS Ngô Đức Thịnh chứng minh Đạo Mẫu là tôn giáo của người
Việt). Xuất phát điểm của nó là sự vay mượn đạo Thần tiên của Trung Hoa, biểu hiện nghi


7


lễ là hầu đồng. Trong thời kỳ phong kiến của nước ta có thời kỳ tôn giáo được coi là quốc
đạo.
+ Thái Lan: 93% dân số theo Đạo Phật. Trước đây, chùa là trường học, sư sãi là
người dạy học. Ngày nay, phương pháp huấn luyện Tỳ khưu này trở nên lạc hậu.
+ Philippin có 83% dân số theo Công giáo.
- Phương Tây:
+ Mỹ 28% thay đổi tôn giáo, 44% đổi hệ phái Tin lành…
+ Hiện tượng vắng bóng các tín đồ trong ngày lễ.
+ Các linh mục đang đấu tranh đòi được kết hôn, tham gia vào các nghiệp đoàn…
5. Xu hướng hiện đại hóa tôn giáo
Quần thể di tích chùa Bái Đính là một ví dụ điển hình.
6. Xu hướng dân tộc hóa tôn giáo
Nhằm chống lại xu hướng toàn cầu hóa.
7. Xu hướng xuất hiện các tân giáo phái, đạo lạ, tà đạo
Điểm nóng tôn giáo?
Tà đạo?
Đạo lạ?
* Xu hướng vận động biến đổi của tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của các xu hướng tôn giáo thế giới, mức độ từng
loại cũng khác nhau và bên cạnh đó cũng có những điểm khác.
- Xu hướng phục hồi, phát triển, cạnh tranh ảnh hưởng.
Nước ta có 45 trường đào tạo chức sắc tôn giáo. Nhưng nước ta không có xung đột
tôn giáo, các tôn giáo chung sống hòa đồng.
- Xuất hiện các tôn giáo lạ, các tà đạo. Ước tính có khoảng trên 50 tôn giáo lạ, tà
đạo làm đời sống tôn giáo trở nên phức tạp. Nhưng hầu hết không có đủ các yếu tố, yêu
cầu, điều kiện của một tôn giáo.
- Xu hướng thế tục hóa. Các tôn giáo hướng tới hoạt động của đời sống dân sinh,
giảm bớt một số giáo lý, lễ nghi cho sát thực với thực tế hơn.
- Nhìn chung, các tôn giáo đều tuân thủ pháp luật, đại bộ phận tín đồ, chức sắc đồng

hành cùng dân tộc.
- Tuy nhiên, một bộ phận chức sắc, tín đồ bị địch lợi dụng, lôi kéo.
II. Mối quan hệ giữa tôn giáo với các lĩnh vực của đời sống xã hội
ĐSTT xã hội là tổng hoà những giá trị, những sản phẩm, những hiện tượng, những
quá trình, những hoạt động, những quan hệ tinh thần của con người, phản ánh đời sống vật
chất xã hội và được thể hiện như một phương thức hoạt động và tồn tại tinh thần của con
người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Với tính cách là một hệ thống, ĐSTT xã hội bao gồm: Đời sống tư tưởng, đạo đức,
lối sống; đời sống khoa học - công nghệ; đời sống văn hoá - nghệ thuật; đời sống giáo
dục - đào tạo và Đời sống sinh hoạt TNTG của xã hội.
- Đời sống TNTG tuy không phải là một lĩnh vực cơ bản trong ĐSTT nhưng nó vẫn
là một bộ phận tồn tại khách quan trong ĐSTT của một bộ phận nhân dân ảnh hưởng nhất
định đến ĐSTT của cá nhân và xã hội.
* Xét xuyên suốt lịch sử nhân loại ảnh hưởng tiêu cực của TNTG giảm dần theo
thời gian.
E.Durkheim (1858 - 1917) nhà triết học, xã hội học, tôn giáo học ngời Pháp, có lí
khi nhận định: “Đã có một sự thật không còn nghi ngờ là tôn giáo ngày càng chiếm lĩnh


8

một phần nhỏ bé dần trong đời sống xã hội. Ban đầu, tôn giáo lan tràn ra tất cả. Tất cả cái
gì là xã hội đều là tôn giáo. Rồi dần dần những chức năng chính trị, kinh tế, khoa học tự vợt thoát khỏi chức năng tôn giáo... Nếu có thể giải thích Chúa lúc đầu có mặt ở tất cả các
mối quan hệ nhân loại, dần dần tự rút lui và bỏ mặc cho con ngời với những cuộc tranh
chấp của nó. Chí ít, nếu Chúa còn muốn thống trị những mối quan hệ của con ngời, thì
cũng từ trên cao và từ xa” [dẫn theo 118, tr. 50-51].
1. Mối quan hệ giữa tôn giáo với chính trị
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng thống trị ĐSTT
xã hội. Hệ tư tưởng chính trị giữ vị trí đặc biệt quan trọng, qui định tính chất, nội dung,
phương hướng phát triển ĐSTT, trong đó có lĩnh vực tôn giáo.

* Thời cổ đại: nói chung tôn giáo còn ảnh hưởng chi phối nặng đến chính trị
Thời phong kiến: Các nhà nước PK đều dùng quốc giáo về thực chất để làm tư
tưởng thống trị, hiện tượng hợp nhất giữa chính trị và tôn giáo rất phổ biến, chính trị thần
quyền là chính tri phổ biến. Trung Quốc, Ai Cập, Ba Tư… nhất thể hóa giữa chức sắc tôn
giáo với nhà thống trị là phổ biến.
Ăng ghen: “Tín điều của giáo hội đồng thời cũng là tín điều chính trị, các câu chữ
trong kinh thánh có hiệu lực pháp luật trong các phiên tòa… đó là kết quả tất nhiên của địa
vị bao trùm tất cả của giáo hội trong chế độ Pk đương thời” [Chiến tranh nông dân ở
Đức, ]
Năm 800, Giáo hoàng trao vương miện cho Chaliman (742-814) lên ngôi hòang đế
thuyết “quân quyền do Chúa trao”. Thần quyền lấn át thế quyền.
Phương Đông, Việt Nam hài hòa hơn giữa thần quyền, thế quyền.
* Thời kỳ hiện đại
- Các nước tư bản: tách nhà nước – giáo hội; chính trị và tôn giáo. Dự luật về quyền
con người (1791) của Mỹ, chính phủ thế tục quản lý tôn giáo … Nói chung là sự suy yếu
ảnh hưởng của tôn giáo với chính trị.
Nhưng lợi dụng tôn giáo để thống trị, bóc lột GCCN, nhân dân lao động Lênin:
GCTS sử dụng chức năng đao phủ, chức năng thầy tu để thống trị, bóc lột GCCN, nhân
dân lao động.
- Các nước thuộc địa: GC thống trị, lợi dụng tôn giáo để xâm lược, thống trị, bóc lột
GCCN, nhân dân lao động.
- Các nước XHCN: GCCN tách giáo hội ra khỏi nhà nước, nhà thờ khỏi trường học,
xây dựng thể chế chính trị vô thần; tôn trọng đảm bảo quyền tự do tôn giáo của nhân dân
lao động. Động viên tập hợp tín đò, chức sắc vào cuộc cuộc xây dựng xã hội mới.
Việt Nam: đa số quần chúng đi theo cách mạng, nhưng vẫn còn có một bộ phận tín
đồ bị địch lợi dụng. Cho nên, không được đồng nhất TNTG với chính trị phản động, đồng
thời cũng không coi nhẹ, mất cảnh giác trước sự lợi dụng TNTG đó của các thế lực thù
địch. Nếu kẻ thù lợi dụng TNTG để chống phá chế độ ta thì đó là chính trị phản động. Còn
Đảng và Nhà nước lãnh đạo quần chúng theo đạo thực hiện nhiệm vụ cách mạng là chính
trị vô sản tiến bộ. Từ đó, cần tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tập hợp, động viên quân

nhân thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị - xã hội, đồng thời cảnh giác, vô hiệu hoá mọi sự lợi
dụng TNTG của kẻ thù.
2. Mối quan hệ giữa tôn giáo với đạo đức
Đạo đức là toàn bộ những quan niệm, thái độ, tình cảm... của con người về các qui
tắc, các chuẩn mực điều chỉnh hành vi và đánh giá cách ứng xử trong quan hệ giữa cá nhân
với cá nhân và giữa cá nhân với cộng đồng xã hội theo các chuẩn mực thiện - ác, lương


9

tâm- trách nhiệm, quyền lợi - nghĩa vụ, công bằng, danh dự, hạnh phúc... Trong đời sống
hiện thực, đạo đức được thiết lập, thực hiện chủ yếu bằng phương thức tự điều chỉnh,
thông qua sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức bị qui định, chế ước bởi tồn tại xã hội,
bởi giai cấp và bởi truyền thống đạo đức dân tộc. Đạo đức vừa có nội dung mang tính
nhân loại vừa có nội dung mang tính giai cấp. Dưới CNXH, hai nội dung đó thống nhất
với nhau. Trung thành với lí tưởng XHCN; lao động tích cực, sáng tạo; có lòng yêu nước
thiết tha và tinh thần quốc tế trong sáng; có lòng nhân ái đối với cộng đồng là những
chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người mới Việt Nam hiện nay cần xây dựng.
Đạo đức tôn giáo cũng là sự tiếp biến, rồi "thần hoá" văn hóa, đạo đức xã hội, được
qui định thành giới luật, lễ nghi tôn giáo để các tín đồ tin theo. Do tính "thần thánh,
thiêng liêng", khó kiểm chứng nên các tín đồ thường vâng phục, tuân thủ một cách tự
giác, hiệu quả hơn.
Đạo đức tôn giáo cũng có mặ tiêu cực và tích cực nhất định.
ở phương diện văn hoá, đạo đức, TNTG vừa có các giá trị văn hoá, đạo đức nhất
định, vừa chứa đựng các nội dung phản văn hoá, trái đạo đức, nên nó có ảnh hưởng hai
chiều đến văn hoá, đạo đứccon người, xã hội.
Do có sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, nên TNTG
không thể không tiếp biến ở mức độ nhất định các giá trị văn hoá đạo đức của xã hội. Mặt
khác, để tồn tại, phát triển TNTG cũng cần phải tiếp biến, thần hoá các giá trị văn hoá đạo
đức nhất định để tập hợp, lôi kéo, hấp dẫn quần chúng tin theo. Nhưng do bản chất lạc hậu

của nó, TNTG cũng chứa không ít cái phản văn hoá, trái đạo đức. Điều đó cho phép giải
thích hiện tượng cùng một tôn giáo nhưng ở mỗi tộc người, dân tộc, quốc gia khác nhau
thì nó có các giá trị văn hoá đạo đức và các phản giá trị văn hoá, đạo đức khác nhau. Do
đó, đòi hỏi phải nhận rõ các giá trị và phản giá trị của TNTG. Từ đó, lựa chọn, tiếp thu
những giá trị văn hoá, đạo đức tích cực, phù hợp như việc đề cao tính cộng đồng, khuyến
thiện trừ ác, nhân nghĩa, vị tha... và khắc phục những phản giá trị gây ảnh hưởng tiêu cực
đến ĐSTT cá nhân, xã hội như sự cầu xin hư ảo, tha hoá, nô lệ thần linh, cản trở thế giới
quan, văn hoá, đạo đức, lối sống tốt đẹp của cá nhân, xã hội. Tránh tuyệt đối hoá ảnh
hưởng tích cực, cũng như đồng nhất nó với mê tín, hủ tục lạc hậu, dẫn đến phủ định sạch
trơn các giá trị văn hoá, đạo đức tôn giáo.
TNTG có ảnh hưởng đến phương diện chính trị - xã hội cá nhân, xã hội. Điều đó
cũng dễ hiểu. Do bị chi phối về thế giới quan, văn hoá, đạo đức, lối sống, hành vi, hoạt
động của TNTG, nên ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội của cá
nhân. Nó còn gây ảnh hưởng nặng thêm lên nếu kẻ thù lợi dụng TNTG để chống phá. Tiếp
cận sự ảnh hưởng của TNTG ở phương diện chính trị-xã hội đòi hỏi phải phân định ảnh
hưởng tiêu cực và tích cực của nó đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội của cá
nhân.
Những gì TNTG cản trở con người tuân theo Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước... ,
cũng như những gì do sự lợi dụng TNTG của các thế lực thù địch đều là ảnh hưởng tiêu
cực. Những gì mà TNTG tạo điều kiện cho công dân thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị - xã
hội là ảnh hưởng tích cực.
Tích cực: Đức tính thật thà, thông cảm nỗi đau khổ của người khác, chăm sóc tới
sức khoẻ và cuộc sống no ấm của mọi người, kính trọng lao động và kinh nghiệm sống
của người già, ham hiểu biết... là những giá trị văn hóa đạo đức tôn giáo nói chung. Nho
giáo có tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lí tưởng về một xã hội hoà mục, bình yên,
thịnh trị, một thế giới đại đồng; đề cao văn hóa, lễ giáo, hiếu học... Phật giáo đề cao tư


10


tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân, thương
đến mọi chúng sinh cây cỏ; tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác, chống mọi
sự phân biệt đẳng cấp; đề cao lao động, gắn bó với nhân dân, đất nước; khuyên mọi người
gạt bỏ tham lam, u mê, thù hận (tham-sân-si); thực hiện giữ giới, định, tuệ để cho tâm hồn
yên tĩnh, trí tuệ sáng suốt, luôn phấn đấu, thực hiện theo bát chính đạo để có cuộc sống
chân chính, ngay thẳng... Giáo lí đạo Thiên chúa mang tư tưởng nhân văn sâu sắc như tôn
trọng giá trị đạo đức, cổ vũ tình yêu thương đồng loại, thảo kính với cha mẹ, không nói
dối, không chiếm dụng của người khác... Đạo Hồi coi trọng cuộc sống cá nhân thanh
sạch, coi trọng sự giúp đỡ người nghèo, coi trọng tín nghĩa, quan tâm sức khoẻ... Đạo
Hoà Hảo răn dạy tín đồ thực hiện "Tứ ân hiếu nghĩa": ơn tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), ơn
Tổ quốc, ơn đồng bào, ơn cha mẹ. .. Mặt khác, tôn giáo cũng có biến đổi, thích ứng với
những giá trị mới của chế độ XHCN. Chẳng hạn ở Việt Nam: đạo Phật xác định phương
hướng hành đạo: "Đạo pháp gắn với dân tộc và CNXH"; Công giáo xác định đường
hướng: "giáo hội gắn bó với dân tộc";"Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh
phúc của đồng bào". ..
Tôn giáo có những nội dung mang tính nhân nghĩa, nhân văn, tôn giáo nào cũng có
tính hướng thiện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tới khẳng định: Làm cách mạng để cứu nước,
cũng là để cứu mình, để được tự do thờ phụng, cúng lễ, cầu nguyện, xây dựng cuộc sống
thanh bình ấm no hạnh phúc cũng là làm theo mong muốn của Đức Chúa, Đức Phật...là
thiện. Và Người đã đưa ra một giả thuyết táo bạo: nếu các bậc giáo chủ của các tôn giáo
như Giêsu, Thích ca... sinh ra trong hoàn cảnh hiện nay thì chắc các Ngài cũng sẽ đấu
tranh vì người nghèo như những người Cộng sản [5]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, tôn
giáo không đối lập với Tổ quốc, không đối lập với lý tưởng Cộng sản. Đây là một luận
điểm có giá trị lớn, giải toả băn khoăn, thắc mắc, mặc cảm của tín đồ, chức sắc tôn giáo
trước luận điệu xuyên tạc của kẻ thù rằng: cộng sản vô thần sẽ tiêu diệt tôn giáo. Luận
điểm này hiện nay vẫn giữ nguyên giá trị lí luận và thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định với đồng bào tín hữu rằng mục tiêu của Đức
Chúa, Đức Phật không khác gì mục tiêu của những người xã hội chủ nghĩa. Người nói với
tín đồ Phật giáo: "Đức Phật đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi
khổ nạn, Người phải đấu tranh diệt lũ ác ma.

Nay đồng bào ta đại đoàn kết hi sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng để
đánh tan thực dân phản động, để cứu dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc
lập Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích ca kháng
chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ" [6]. Đến với đồng bào Công giáo, Người
nói: "Chúa Cơ đốc hi sinh để cứu loài người khỏi ách nô lệ và đưa loài người về hạnh
phúc, bình đẳng, bác ái, tự do. Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất
và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế là
việc của chính phủ và nhân dân ta làm đều hợp với tinh thần Phúc âm" .
3. Mối quan hệ giữa tôn giáo với văn hóa
Văn hóa theo nghĩa hẹp; Đời sống văn hoá - nghệ thuật cũng là lĩnh vực cơ bản của
ĐSTT. Đây là "binh chủng đặc biệt", phương tiện kỳ diệu có sức cảm hoá tinh thần mạnh
mẽ, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn và cốt cách con người, giáo dục họ hướng tới những giá
trị cao đẹp của cuộc sống, xây dựng tư tưởng tiến bộ, tình cảm tốt đẹp, nâng cao trình độ
phẩm chất chính trị và khả năng phát triển toàn diện của họ. Xét đến cùng về cơ bản thì
toàn bộ hoạt động của con người đều có tính thẩm mỹ, đều hướng tới chân- thiện - mỹ.
Mặt khác, có những hoạt động hầu như chủ yếu chỉ phục vụ cho mục đích thẩm mỹ (các


11

hoạt động thuần thẩm mỹ) như giáo dục truyền thống, tuyên truyền cổ động, đọc và làm
theo sách báo, xây dựng nếp sống văn minh; các hoạt động của nhà văn hoá, câu lạc bộ,
sáng tác, biểu diễn, thưởng thức nghệ thuật. Tất cả các hoạt động đó gắn bó chặt chẽ với
nhau và đều hướng đến xây dựng con người phát triển toàn diện.
- Đời sống TNTG tuy không phải là một lĩnh vực cơ bản trong ĐSTT nhưng nó vẫn
là một bộ phận tồn tại khách quan trong ĐSTT của một bộ phận nhân dân ảnh hưởng nhất
định đến ĐSTT của cá nhân và xã hội.
- Tác động hai chiều tích cực và tiêu cực
- Tiêu cực: có phản giá trị “thuốc phiện”, làm tha hóa con người, con người càng
hiến dâng cho thần thánh nhiều bao nhiêu thì càng đánh mất bản chất người bấy nhiêu,

sống không xứng đáng với tư cách người bấy nhiêu: cầu xin hư ảo, thủ tiêu đấu tranh,
- Tích cực: có những giá trị chân thiện mỹ nhất định: Hội họa, kiến trúc, âm nhạc,
đạo đức, lối sống phù hộp với xã hội mới.
3. Ý nghĩa
4. Liên hệ trách nhiệm cá nhân
Câu 3. Làm rõ tính khoa học, cách mạng của quan điểm, chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Ý nghĩa của vấn đề?
1. Kiến thức chung về tôn giáo. (Nghiên cứu câu 1)
2. Thực chất của việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta hiện nay là gì?
3. Nhận thức vấn đề trên, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra quan điểm, chính sách tôn
giáo.
a) Quan điểm của Đảng ta về công tác tôn giáo
(Nghị quyết TW7 khóa IX)
- Tôn giáo tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của nhân dân.
- Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc và thỏa mãn nhu cầu của công dân.
- Quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo thỏa mãn nhu cầu của
công dân của quần chúng, đồng thời cảnh giác trước mọi âm mưu của các thế lực thù địch.
Kiên quyết xử lý các hành động chống phá, lợi dụng tôn giáo làm tổn hại lợi ích dân tộc.
- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
- Thực hiện công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và nhân dân.
- Vấn đề theo đạo và truyền đạo, Nhà nước tôn trọng và thừa nhận nhưng phải trong
khuôn khổ pháp luật.
* Nhiệm vụ
- Chăm lo đời sống vật chất tinh thần chính đáng của nhân dân cả đồng bào có đạo/
không có đạo.
- Hướng dẫn, quản lý các hoạt động tôn giáo theo pháp luật.

- Cảnh giác đối với âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.
* Nguyên tắc
- Bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.


12

- Các tôn giáo khác nhau phải tuân thủ pháp luật Nhà nước và hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật.
- Mọi hoạt động tôn giáo phải vì lợi ích chung của cộng đồng tôn giáo và lợi ích đất
nước và hợp pháp. Phải bài trừ mê tín dị đoan, xóa tình trạng lợi dụng tôn giáo.
- Xử lý vấn đề tôn giáo tuân theo pháp luật.
* Một số vấn đề cụ thể
- Đối với các tín đồ: Luôn nhận thức, hành động đúng mối quan hệ tín đồ, công dân.
- Đối với hoạt động tôn giáo: Phải trong khuôn khổ quy định của pháp luật; phù hợp
với từng loại tôn giáo; Các hoạt động quốc tế của tôn giáo cũng phải theo quy định luật
pháp và được phép của các cơ quan thẩm quyền.
- Đối với các tổ chức tôn giáo: Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận khi
có đủ điều kiện; Chỉ hoạt động khi đã được Nhà nước cho phép và trong khuôn khổ pháp
luật; Các tổ chức giáo hội được quyền đào tạo chức sắc của mình (mở trường, gửi ra nước
ngoài…); Các tổ chức tôn giáo phải thông báo cho các cấp chính quyền quản lý về việc
thay đổi bổ nhiệm.
- Đối với các cơ sở thờ tự: Được Nhà nước bảo hộ; Các tổ chức tôn giáo có trách
nhiệm giữ gìn, bảo vệ, tu bổ; Những cơ sở thờ tự được công nhận là di tích lịch sử văn hóa
thì phải tuân thủ Luật Di sản văn hóa; Được tạo nguồn tài chính để tu bổ nơi thờ tự; Việc
in, ấn, xuất ản, phát hành thì phải tuân thủ Luật xuất bản; Nghiêm cấm việc lợi dụng để in
ấn phát hành tài liệu tuyên truyền chống phá cách mạng, mê tín dị đoan.
b) Nội dung chính sách tôn giáo
4. Chứng minh tính khoa học, cách mạng:
a) Tính khoa học:

Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và
giải quyết vấn đề tôn giáo.
* Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo
- Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại, nhưng đã có những
biến đổi tích cực.
Trong chủ nghĩa xã hội tôn giáo còn tồn tại bởi các nguyên nhân sau: Chủ nghĩa
xã hội, nhất là ở thời kỳ quá độ, tuy đã có những biến đổi căn bản về kinh tế- xã hội,
nhưng vẫn chưa thể nào xoá bỏ triệt để các nguồn gốc phát sinh, tồn tại của tôn giáo.
Trong chủ nghĩa xã hội, vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác
nhau, bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn còn. Một bộ phận nhân
dân vẫn còn bất lực trước những khó khăn, bất hạnh; nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội
chưa lý giải được. Tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn có khả năng đáp ứng nhu cầu văn hóa,
tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách,
lối sống. Tôn giáo có tính lạc hậu và sự biến đổi, thích ứng của các tổ chức tôn giáo.
Ngoài ra, do những yếu kém trong thực hiện chính sách kinh tế - xã hội của các đảng
cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa; sự o bế, nuôi dưỡng lợi dụng tôn giáo của các
thế lực thù địch... Đó là những nguyên nhân chủ yếu cho tôn giáo tồn tại trong chủ
nghĩa xã hội.
Tuy vậy, trong chủ nghĩa xã hội, các tôn giáo đã có những biến đổi tích cực: Các
tổ chức tôn giáo, giáo hội không còn là những tổ chức thống trị áp bức bóc lột quần
chúng nhân dân lao động mà đã trở thành những tổ chức chuyên chăm lo việc đạo. Các
đặc quyền, đặc lợi của nhà thờ, giáo hội bị xoá bỏ. Nhà thờ tách khỏi nhà nước, khỏi


13

trường học, không còn là công cụ áp bức chi phối giáo dục. Tuy vậy, vẫn còn một số tổ
chức giáo hội tôn giáo bị kẻ thù lợi dụng, đã tham gia hoạt động chính trị chống phá
chế độ xã hội chủ nghĩa. Giáo dân đã thực sự là người chủ đất nước, tin theo đảng, ủng
hộ nhà nước xã hội chủ nghĩa, đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao; có đóng góp

tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy, cá biệt có lúc, có nơi
niềm tin tôn giáo tăng lên, vẫn có những giáo dân bị kẻ thù lợi dụng chống lại cách
mạng. Giáo lí, lễ nghi của các tôn giáo có sự thay đổi để thích nghi phù hợp với chế độ
xã hội mới, tuân thủ pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa như so với đời sống mới.
Đội ngũ chức sắc tôn giáo, đa số họ đã tin và đi theo cách mạng, chuyên tâm chăm lo
phần đạo, góp phần xây dựng chế độ xã hội mới. Song cá biệt vẫn còn một số chức sắc
mặc cảm, bị kẻ thù lợi dụng chống phá chế độ.
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo.
Giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là tổng thể các hoạt
động tích cực, chủ động, có kế hoạch của cả hệ thống chính trị, diễn ra trên tất cả các
lĩnh vực, nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu cực, phát huy những giá trị tích cực của tôn
giáo, giải phóng nhân dân lao động ra khỏi sự áp bức của tôn giáo về tinh thần, tập
hợp, đoàn kết quần chúng không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo góp phần thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Lập trường nhất quán của những người cộng sản, là giải phóng nhân dân lao
động ra khỏi ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo. Với mục tiêu cao nhất là giải phóng con
người, bởi tôn giáo áp bức con người về tinh thần, là xiềng xích trói buộc con người,
làm tha hóa con người, biến con người thành nô lệ cho tôn giáo nên cách mạng xã hội
chủ nghĩa tất yếu phải giải phóng quần chúng ra khỏi mọi sự áp bức, trong đó có áp bức
tôn giáo. Như vậy, việc giải phóng nhân dân lao động khỏi ảnh hưởng tiêu cực của tôn
giáo là yêu cầu khách quan hợp quy luật phát triển xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề tôn giáo theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin:
Một là, giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn với việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn liền với
việc giải quyết nguồn gốc sinh ra tôn giáo, tức là gắn liền với sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa: “Phê phán thượng giới biến thành phê phán cõi trần, phê phán tôn giáo
biến thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành phê phán chính trị” 7.

Theo đó, giải quyết vấn đề tôn giáo phải sử dụng tổng hợp các giải pháp trên tất cả các
lĩnh vực. Không được cực đoan coi tôn giáo là đối tượng duy nhất để phê phán, mà coi
nhẹ vấn đề đấu tranh giai cấp, muốn tuyên chiến, tiêu diệt tôn giáo. Không thể dùng
mệnh lệnh hành chính để xoá bỏ tôn giáo mà chỉ có thể giải phóng quần chúng khỏi ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn gốc tự nhiên, nguồn
gốc xã hội của tôn giáo. Do đó, giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn với việc đấu tranh
giai cấp của giai cấp công nhân để cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới.
Giải quyết vấn đề tôn giáo là một quá trình lâu dài gắn với quá trình phát triển
của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo
dục, khoa học - công nghệ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao
động, trong đó có đồng bào theo đạo; đồng thời phải chủ động và thường xuyên coi
7

C.M¸c vµ Ph ¡ngghen, Toµn tËp, tËp 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.571.


14

trọng thế giới quan duy vật, phép biện chứng, phương pháp luận khoa học, đường lối,
chính sách của đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa một cách phù hợp.
Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân, kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân là quan
điểm cơ bản có tính nguyên tắc trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Đó chính là tôn trọng
quyền bình đẳng của mọi công dân, khẳng định quyền lợi, nghĩa vụ của công dân trước
pháp luật. Trong chủ nghĩa xã hội, mọi công dân đều có thể theo hoặc không theo tôn
giáo, không ai có thể bắt buộc công dân từ bỏ tôn giáo mà họ đang theo và cũng không
được lôi kéo công dân theo tôn giáo nào đó. Mọi công dân có quyền theo đạo, đổi đạo, bỏ
đạo tùy theo ý thích của họ mà không ai được ngăn cản. Tôn trọng phải đi liền với không
ngừng tạo điều kiện cho quần chúng tiến bộ mọi mặt, bài trừ mê tín dị đoan. Không vì lý

do tôn trọng tín ngưỡng mà để quần chúng nghèo đói, dốt nát, nô lệ thần quyền, giáo lý
khắt khe. Phải giải quyết đồng thời ba vấn đề: tôn trọng tự do tín ngưỡng, bài trừ mê tín dị
đoan và bảo đảm cho tín đồ tiến bộ về mọi mặt.
Ba là, thực hiện đoàn kết đồng bào giữa các tôn giáo, đoàn kết giữa người theo
tôn giáo và không theo tôn giáo.
Quan điểm này thể hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt tín
ngưỡng tôn giáo, nhằm tập hợp được mọi lực lượng để thực hiện sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Đoàn kết đồng bào giữa các tôn giáo, không phân biệt chia rẽ, kỳ thị
các tôn giáo. Đoàn kết giữa người có tôn giáo và không tôn giáo. Phát huy tinh thần
yêu nước của những chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo để họ làm tốt việc đạo, việc
đời, hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng chính sách, pháp luật của nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Kiên quyết vạch trần và trừng trị kịp thời những phần tử lợi dụng tôn giáo để
hoạt động chống phá cách mạng, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân, xuyên tạc đường
lối chính sách của đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa, làm tổn hại đến lợi ích của tổ
quốc xã hội chủ nghĩa và lợi ích của nhân dân.
Bốn là, phân biệt rõ mặt tư tưởng (tín ngưỡng) và chính trị trong giải quyết vấn
đề tôn giáo.
Mặt tư tưởng và mặt chính trị của tôn giáo là hai loại mâu thuẫn khác nhau, phải
có thái độ giải quyết khác nhau. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo của
quần chúng. Khắc phục mặt tư tưởng là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài gắn với quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Đấu tranh loại bỏ yếu tố chính trị phản động trong tôn giáo là nhiệm vụ quan trọng
thường xuyên phải được tiến hành kiên quyết, dứt khoát, đồng thời phải thận trọng, tỉ
mỉ.
Thực tế cho thấy, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tư tưởng và chính trị của các
tôn giáo không đơn giản, bởi hai mặt đó đan xen, tác động lẫn nhau, rất khó phân biệt
rạch ròi, nhất là khi kẻ thù luôn lợi dụng mặt tín ngưỡng để lồng vấn đề chính trị vào
trong các hoạt động của tôn giáo. Điều đó càng đòi hỏi khi xem xét, giải quyết vấn đề
tôn giáo phải bình tĩnh, thận trọng, nghiên cứu kĩ thực chất của vấn đề để giải quyết

chính xác, đạt hiệu quả cao.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo có tính lịch sử, ở các thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò lịch sử của tôn
giáo đến đời sống xã hội khác nhau, thái độ của giáo hội, chức sắc, tín đồ có khác nhau.


15

Do đó, xem xét giải quyết vấn đề tôn giáo phải quán triệt quan điểm khách quan, toàn
diện, lịch sử cụ thể phát triển. Tuyệt đối không được mặc cảm, định kiến chủ quan
trong xem xét giải quyết vấn đề tôn giáo.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề tôn giáo
Vận dụng trung thành, sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững tình
hình đặc điểm tôn giáo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại tư tưởng, chính sách
giải quyết vấn đề tôn giáo đặc sắc, hiệu quả, thể hiện trên những nội dung chính sau
đây:
- Đoàn kết lương giáo, hoà hợp dân tộc.
Quan điểm đoàn kết của Hồ Chí Minh là quan điểm bao trùm lên tất cả, vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, vì lợi ích của nhân dân. Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Đoàn kết lương
giáo và những người có tín ngưỡng, tôn giáo với những người không theo tín ngưỡng,
tôn giáo, giữa những người theo tôn giáo khác nhau là một bộ phận của đại đoàn kết
dân tộc nói chung, xuất phát từ mục tiêu độc lập dân tộc và lý tưởng cao cả giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội của người cộng sản.
Hồ Chí Minh chỉ ra muốn đoàn kết những người có tín ngưỡng tôn giáo khác
nhau và với những người không theo tín ngưỡng tôn giáo, phải đặt lợi ích dân tộc, lợi
ích toàn dân lên trên hết, đồng thời quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của đồng
bào có đạo. Phải phân biệt được nhu cầu tín ngưỡng chân chính của đồng bào có đạo
với việc lợi dụng tín ngưỡng vì lợi ích cục bộ, vị kỷ; phân biệt đức tin chân chính của
quần chúng với việc các phần tử phản động lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng.

Phải chú ý kế thừa những giá trị nhân bản của tôn giáo, trân trọng những người sáng
lập các tôn giáo, vì các ông đều có điểm chung là mong muốn giải phóng con người.
Với những người lầm đường lạc lối, Người kiên trì thuyết phục, cảm hoá với thái độ
khoan dung độ lượng: ''mong những đồng bào đó mau mau giác ngộ và quay về với
kháng chiến để phụng sự Chúa, phụng sự Tổ quốc''. Chính phủ luôn "hoan nghênh rộng
rãi như những người con đi lạc mới về".
- Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định tư tưởng nhất quán, lâu dài của Đảng,
Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Theo Người, đây là một
quyền cơ bản của con người. Sự tôn trọng ấy không chỉ thể hiện trên văn bản lời nói mà
mà quan trọng hơn là bằng hành động thực tiễn thiết thực. Đồng thời, cảnh giác nghiêm
trị những kẻ lợi dụng tin ngưỡng tôn giáo, hành nghề mê tin dị đoan, những việc làm
sai chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Chính phủ.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc; tập hợp, đoàn kết đồng
bào tôn giáo thực hiện nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội không mâu thuẫn với lý tưởng của tôn giáo,
mà còn hiện thực hoá lý tưởng đó. Chỉ có cách mạng mới thực sự đảm bảo cho đồng
bào tự do tín ngưỡng thực hiện "đẹp đời, tốt đạo" như khát vọng thiêng liêng của đồng
bào các tôn giáo. Theo Hồ Chí Minh: Nước độc lập tôn giáo mới được tự do. Bởi vậy,
Người yêu cầu tín đồ "Kính Chúa và yêu nước" phải kết hợp với nhau; "đẹp đời, tốt
đạo” phải đi liền với nhau, không thể phân chia. Đẹp đời là tạo cơ sở vật chất, xã hội để
tốt đạo. Muốn tốt đạo cần phải đi theo cách mạng xây dựng cuộc sống mới. Vì thế,
không lý do gì đồng bào các tôn giáo không đoàn kết cùng toàn thể dân tộc kháng
chiến, kiến quốc. Ai không thực hiện điều đó không phải là người Việt Nam yêu nước


16

chân chính và cũng là không phải tín đồ chân chính. Đây là yêu cầu cần phải có đối với
mọi tín đồ Việt Nam chân chính, yêu nước. Người quan tâm sâu sắc lợi ích của giáo

dân. Theo Hồ Chí Minh: nước độc lập mà dân không được ấm no hạnh phúc thì độc lập
cũng không có nghĩa lý gì. Đồng bào các tôn giáo theo cách mạng mà Đảng, Nhà nước
không quan tâm đến lợi ích thiết thân của đồng bào để “phần xác ấm no, phần hồn
thong dong” thì không thể đoàn kết được. "Ta quan tâm quần chúng thì quần chúng sẽ
theo ta. Ta được lòng dân thì không sợ gì cả... Nếu giáo dục tốt thì giáo dân có thể đấu
tranh... sống theo Đảng, chết theo Chúa" 8 . Cho nên Đảng, Nhà nước phải quan tâm
phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của giáo dân... để giáo dân
giác ngộ, đoàn kết tham gia kháng chiến, kiến quốc.
- Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và lực lượng cốt cán
trong các tôn giáo.
Cán bộ là gốc của mọi công việc. Công tác tôn giáo phải cần có cán bộ giỏi. Do
đó, phải đào tạo cán bộ hiểu biết công tác tôn giáo. Người yêu cầu cán bộ phải tôn
trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo, không thành kiến, hẹp hòi, không xúc
phạm tín ngưỡng, không mắc bệnh dùng lý luận không đúng lúc, hay đao to búa lớn
“nào khách quan, chủ quan” nào “tích cực, tiêu cực”, nào “khoa học hoá”, “gì gì hoá”
mà “tốt nhất là miệng nói, tay làm làm gương cho người khác bắt chước” 9. Phương
pháp giáo dục phải thận trọng, kiên trì, gần gũi với đồng bào; với phương châm lấy cái
tốt mà bỏ dần cái xấu, “dần dần nói cho người ta hiểu, để người ta vui lòng làm, chứ
không có quyền ép người ta”. Người quan tâm thu phục, cảm hoá, bồi dưỡng các chức
sắc, tín đồ tôn giáo theo cách mạng. Thực tế, nhiều chức sắc tín đồ tôn giáo đã có đóng
góp cho cách mạng như: Ngô Tử Hạ, Nguyễn Mạnh Hà, Hồ Ngọc Cẩn, Cao Triều Phát,
Phạm Bá Trực… Với Người, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", làm gì để xây dựng được khối
đoàn kết lương - giáo, làm gì có lợi cho Cách mạng đều cần thiết cả.
* Cơ sở thực tiễn: thực tiễn giải quyết vấn đề tôn giáo trên thế giới, các nước XHCN
và Việt Nam.
b) Tính cách mạng:
- Nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa những người theo/ không theo tôn giáo.
- Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho họ cùng toàn dân xây dựng CNXH.
- Tạo bình đẳng giữa cộng đồng có tín ngưỡng/ không có tín ngưỡng trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.

5. Ý nghĩa
6. Liên hệ trách nhiệm cá nhân
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo tinh
thần của Đại hội XI
PGS, TS. Nguyễn Trọng Tuấn - Học viện Kỹ thuật quân sự
Ngày 7/5/2012. Cập nhật lúc 11h 42'
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng ta đã từng bước đổi
mới về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong quá trình đó, tư duy lý luận của Đảng
ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được thể hiện một cách đầy đủ, hoàn thiện
hơn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, Đại
8
9

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 385.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.91-109.


17

hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng"1.
Thật vậy, sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, quan điểm đổi mới của
Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng phát triển hoàn thiện và đi vào cuộc
sống. Bước ngoặt trong sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo được
đánh dấu bằng sự ra đời Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị ngày 16/10/1990 "Về tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Về nhận thức lý luận, Đảng ta đã nêu lên "3
luận đề" có tính đột phá về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng: Một là, tôn giáo là vấn đề còn tồn
tại lâu dài; Hai là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
và Ba là, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới.

Đồng thời nêu lên “3 quan điểm” đổi mới về công tác tôn giáo: Một là, công tác tôn giáo
vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa cảnh giác kịp thời
đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng; Hai là, nội dung cốt lõi của
công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng và Ba là, công tác tôn giáo là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Để có được những tư tưởng đổi mới có tính "đột
phá” nêu trên, Đảng ta tìm tòi, trăn trở trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo vào tình hình tôn giáo ở nước ta. Trong quá trình
đổi mới, tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện
trong các chỉ thị, nghị quyết tiếp theo. Chỉ thị 37 của Bộ Chính trị (2/7/1998) chỉ rõ:
"Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát
huy"2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) về Xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc (16/7/1998), dành quan điểm
thứ 8 về “Chính sách văn hóa đối với tôn giáo",khẳng định: "Khuyến khích ý tưởng công
bằng, bác ái, hướng thiện ... trong tôn giáo”3.
Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa IX) của Đảng
ra ngày 12/3/2003, đã tổng kết và phát triển tư duy lý luận đổi mới của Đảng ta về vấn đề
tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo đó,
nhận thức về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tập trung vào
những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội và không tính
những điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Đây
là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách rõ ràng, dứt khoát quan điểm
của Đảng ta về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ quan điểm
"tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài" do Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (1990) nêu ra,
đến Nghị quyết 25 của Đảng đã phát triển lên một bước mới, khẳng định rõ hơn tôn giáo
"đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội". Nhận thức này có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là sự phát triển có tính sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phản ánh đúng quy luật tồn tại khách quan của tín
ngưỡng, tôn giáo ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Luận điểm này đã
cụ thể hoá quan điểm "tồn tại lâu dài" của tôn giáo, nhưng phát triển rõ hơn trong mối

quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên phương diện nhận
thức, quan điểm này tránh được các cuộc tranh luận không cần thiết về vấn đề tôn giáo sẽ
tồn tại đến khi nào. Đồng thời khắc phục được tư tưởng chủ quan, duy ý trí, nóng vội cho
rằng tôn giáo sẽ mất đi nhanh chóng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, đã chỉ ra rằng, tôn giáo chỉ mất đi khi những cơ sở kinh tế-xã
hội, thậm chí là cả cơ sở tâm lý, nhận thức cho sự tồn tại của nó không còn nữa. Nghĩa là


18

khi nào những cơ sở cho sự tồn tại của tôn giáo "không còn gì để phản ánh nữa, như Ph.
Ăngghen đã chỉ ra, thì khi ấy tôn giáo sẽ mất đi. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thế giới tự
nhiên còn nhiều điều chưa thể đạt đến sự hợp lý, đặc biệt mặt trái của cơ chế thị trường,
như tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo, những rủi ro, bệnh tật, môi trường sinh thái bị hủy
hoại,... vẫn còn là cơ sở khách quan cho tôn giáo tồn tại và phát triển trên những phạm vi
nhất định. Do đó, tôn giáo vẫn còn tồn tại, khó có thể đoán định được "tuổi thọ” của tôn
giáo, song chắc chắn rằng tôn giáo vẫn là một thực thể tồn tại trong chủ nghĩa xã hội4.
Như vậy, với cách nhìn mới, Đảng ta khẳng định tôn giáo còn tồn tại lâu dài, không
thể đơn giản cho rằng tôn giáo sẽ mất đi một sớm một chiều khi con người đã khám phá,
chinh phục được thiên nhiên, khi đời sống vật chất ngày một tăng, tức là đã giải quyết
được nguồn gốc tự nhiên. Đây là một nhận định mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc
của Đảng, phản ánh đúng tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại và phát triển của tín
ngưỡng, tôn giáo.
Không dừng lại ở việc thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta còn khẳng định những điểm "tương đồng" giữa lý tưởng của tôn
giáo với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết 25 chỉ rõ: "Mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào
các tôn giáo với mục tiêu chung"5. Đây là một luận điểm mới có giá trị lý luận và thực tiễn
sâu sắc, thể hiện sự vận dụng nhuần nhuyễn nét đặc sặc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về

việc khai thác, phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hoá, đạo đức của các tôn giáo với
mục tiêu của công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước ta. Một mặt, quan điểm này làm thất
bại những âm mưu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch về chủ nghĩa cộng sản
vô thần chống tôn giáo, vi phạm nhân quyền, dân chủ, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. Mặt khác, hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của các tôn giáo tạo cơ sở
cho sự đồng thuận xã hội. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh" chính là điểm tương đồng, là mạch kết nối, nơi gặp gỡ giữa giá trị nhân bản trong
tôn giáo với giá trị nhân văn của chủ nghĩa xã hội, có tác dụng huy động sức mạnh của
khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước. Tín ngưỡng hay không tín
ngưỡng là quyền tự do lựa chọn của mỗi công dân. Phấn đấu cho sự phồn vinh của Tổ
quốc và hạnh phúc của nhân dân là lý tưởng thiêng liêng chung cho mọi người, là mục tiêu
mà công cuộc xây dựng xã hội mới của chúng ta đang hướng tới, đồng thời cũng chính là
ước vọng mà các tôn giáo theo đuổi. Đó chính là mẫu số chung để gắn kết đồng bào các
tôn giáo với toàn thể nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Mục đích cao cả của Phật Thích ca và Chúa
Giêsu đều giống nhau: Thích ca và Giêsu đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình
đẳng, tự do và thế giới đại đồng"6. Còn: "Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia
sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự
do. Như thế những việc Chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm" 7.
Kế thừa tư tưởng ấy, Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ: "Giáo dục truyền thống yêu nước, ý
thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với
đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"8.
Mỗi tôn giáo đều có những hạt nhân triết học hợp lý, có giá trị nhân văn sâu sắc,
như đức "từ bi" của Phật giáo, lòng "nhân nghĩa" của đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo,
tư tưởng "bác ái" của đạo Kitô, truyền thống uống nước nhớ nguồn, lòng tự hào, tự tôn dân
tộc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đó chính là chân giá trị mà nhân loại cũng như dân


19


tộc ta luôn hướng tới. Hồ Chủ tịch đã đúc kết một cách sâu sắc những giá trị đạo đức của
các tôn giáo lớn. Người viết: "Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo
đức là từ bi. Khổng tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” 9. Đại đa số đồng bào tôn giáo ở nước
ta đều có tinh thần yêu nước, đồng hành cùng dân tộc trong quá trình chống giặc ngoại
xâm và xây dựng đất nước, tham gia vào xây dựng và giữ gìn bản sắc dân tộc, đó là chủ
nghĩa yêu nước, dân tộc và quốc gia có chủ quyền.
Để phát huy được những điểm tương đồng ấy đòi hỏi phải kết hợp một cách biện
chứng giữa lợi ích chung của sự phát triển đất nước với lợi ích cụ thể của đồng bào có đạo
trên cả hai mặt đời sống vật chất và đời sống tinh thần, trong đó có nhu cầu về đời sống
tâm linh tôn giáo. Đây chính là động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước trong đồng
bào các tôn giáo nhằm thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội và phương châm, định hướng
hành đạo gắn bó với dân tộc, tuân thủ pháp luật của các tôn giáo. Phát huy những điểm
tương đồng, hướng về mục tiêu chung của công cuộc đổi mới đất nước có tác dụng huy
động sức mạnh tiềm năng của đồng bào các tôn giáo, tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, giúp đồng bào các tôn giáo đấu tranh chống các thế lực lợi dụng tôn giáo gây mất
đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.
Việc Đảng ta chỉ rõ đồng bào các tôn giáo là một bộ phận trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, cũng có nghĩa là đã khẳng định đồng bào các tôn giáo là một bộ phận không
thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước khi trở thành tín đồ của một tôn giáo, họ là công dân của nước Việt Nam, cùng
chung lo tới vận mệnh của dân tộc. Đảng ta khẳng định thực hiện nhất quán chính sách tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền được sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
đúng pháp luật của đồng bào có đạo và sự bình đẳng giữa các tôn giáo. Tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo trước hết là tạo điều kiện, đảm bảo cho quần chúng có đạo được
tham gia sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Mặt khác, phải chăm lo đến
lợi ích thiết thân của bộ phận quần chúng đặc thù này. Nghĩa là phải chủ động giải quyết
kịp thời những nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng chính đáng của đồng bào có đạo đúng với
pháp luật. Trong đó, quan trọng nhất là chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho họ.
Hai là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Quan

điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về vấn
đề tôn giáo. Trước đây, tôn giáo thường tiếp cận từ hai góc độ tư tưởng triết học và chính
trị với hai định nghĩa mang tính kinh điển: "tôn giáo là hình thái ý thức xã hội" và "tôn
giáo là thuốc phiện của nhân dân". Đó là hướng tiếp cận đúng, nhưng chưa đủ theo quan
điểm mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Bởi vì, tôn giáo không chỉ là triết học (một bộ
phận của thượng tầng kiến trúc, phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan), không chỉ là vấn
đề chính trị (bị các thế lực chính trị xấu lợi dụng), mà tôn giáo còn là lịch sử (phản ánh
tiến trình lịch sử của nhân loại), là nhận thức (giải thích về thế giới và con người), là văn
hóa (góp phần hình thành nên những nền văn minh và nếp sống văn hóa của loài người), là
đạo đức (góp phần điều chỉnh hành vi của con người hướng tới những giá trị chân, thiện,
mỹ)10, là lối sống (góp phần hình thành lối sống của những người có đạo) và tôn giáo là
một thực thể xã hội (có lực lượng tín đồ hùng hậu, có tổ chức giáo hội, tôn giáo chân chính
góp phần vào củng cố cộng đồng và sự ổn định xã hội) v.v.
Như vậy, với quan điểm nhìn nhận mới, Đảng ta không chỉ bó hẹp tôn giáo trong
khuôn khổ của tư tưởng triết học và chính trị mà đa diện hơn đúng với sự tồn tại và phản
ánh của nó. Đây là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, thể hiện tầm sâu trong tư duy


20

nhận thức lý luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Điều đó đã khẳng định rõ thái độ của
những người cộng sản Việt Nam về sự tôn trọng nhu cầu đời sống tâm linh của nhân dân,
một nhu cầu đích thực, chính đáng của quần chúng có đạo, thể hiện sự quan tâm và bảo
đảm cho những lợi ích thiết thân của đồng bào các tôn giáo. Việc tôn trọng, bảo đảm và
thỏa mãn nhu cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính đáng của họ cũng giống như việc
bảo đảm các quyền lợi khác của con người như ăn, ở, mặc, bảo vệ sức khoẻ, tự do, nhân
quyền, dân chủ v.v.
Ba là, thừa nhận và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền
thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Luận điểm này là sự kế
thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong cách mạng dân tộc, dân chủ, nhưng được

bổ sung, phát triển làm sâu sắc hơn trong thời kỳ đổi mới. Tôn giáo trong quá trình tồn tại
và phát triển luôn bộc lộ hai mặt tích cực và tiêu cực. Trước đây, do yêu cầu của cách
mạng cần phải tập trung cho nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc trong điều kiện các thế
lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nên chúng ta thường nhấn mạnh đến
mặt tiêu cực, hạn chế của tôn giáo, như tư tưởng yếm thế, ru ngủ con người. Nhưng quan
điểm đổi mới của Đảng, bên cạnh mặt hạn chế cần khắc phục, phải trân trọng và phát huy
những giá trị tích cực của tôn giáo, trong đó có mặt tích cực về đạo đức, văn hóa tôn giáo.
Tôn giáo có chức năng điều chỉnh hành vi xã hội của con người, hướng con người đến cái
chân, thiện, mỹ. Tín đồ các tôn giáo với niềm tin vào đấng tối cao và cuộc sống vĩnh hằng
sau khi chết, lo sợ bị trừng phạt hoặc bị "quả báo" nếu phạm tội hoặc làm điều ác nên đã
có hành vi đạo đức hướng thiện. Giáo lý giáo luật và những lời răn dạy của tôn giáo đã tạo
ra những quy phạm đạo đức hướng con người làm các việc thiện lành, tránh điều ác, tu
nhân tích đức để được giải thoát (theo quan niệm của Phật giáo), được lên thiên đàng (theo
quan niệm của Kitô giáo, Hồi giáo). Các tôn giáo không chỉ "thiêng hóa" các quy phạm
đạo đức mà còn tạo ra dư luận xã hội để điều chỉnh hành vi của tín đồ hướng về cái thiện,
bài trừ cái ác. Như vậy, đạo đức tôn giáo góp phần điều chỉnh hành vi xã hội của con
người. Thực tế cho thấy, ở những nơi tôn giáo ổn định, có đông tín đồ thì các tệ nạn xã hội
ít hơn, trật tự ổn định và lối sống đạo đức nền nếp hơn11.
Tôn giáo, tín ngưỡng không đơn thuần chỉ là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh, tinh
thần, mà còn là vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống có những giá trị tốt đẹp mà công cuộc
xây dựng xã hội mới có thể tiếp thu. Điều ấy thể hiện một cách sâu sắc quan điểm thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội của Đảng ta về vấn đề
tôn giáo, một lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm. Bên cạnh những hạn chế, tôn giáo cũng chứa
đựng nhiều yếu tố hợp lý bởi tính nhân bản, nhân văn, hướng thiện của nó, những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới, góp phần bổ sung hoàn thiện cho việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc. Hơn nữa, mọi tôn giáo chân chính đều đều răn dạy tín đồ hướng
tới cái chân, thiện, mỹ. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội với chủ trương, đường
lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, các tôn giáo đã và sẽ có sự điều chỉnh để thích ứng
với xã hội mới. Đồng bào các tôn giáo ngày càng tham gia tích cực hơn vào phong trào thi

đua yêu nước xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo". Quan điểm nêu trên của Đảng đã góp
phần khơi dậy, động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo phát huy những giá trị tốt đẹp, mặt
tích cực, điểm tương đồng của tôn giáo với chủ nghĩa xã hội; phát huy tinh thần yêu nước
của đồng bào các tôn giáo làm cho họ tự giác đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên
tạc âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: "Phát huy những giá


21

trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín
đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tô
quốc"12.
Bốn là, "giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên,
tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân". Quan điểm này hoàn toàn mới,
có tính sáng tạo trong tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Lần đầu
tiên nội hàm của tín ngưỡng được Đảng ta đề cập tới một cách chính thức trong văn kiện
của mình. Đây là quan điểm đúng đắn, phản ánh rõ truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh
những người có công với làng, với nước của nhân dân ta. Trong tâm thức của người Việt
Nam, thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những có công với dân, với nước không đơn thuần chỉ là
một loại hình tín ngưỡng mà cao hơn đó còn là một đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của
dân tộc. Đó là một truyền thống lâu đời đã ăn sâu trong tiềm thức, đời sống tâm linh, văn
hóa, tinh thần của mỗi người dân Việt Nam, trở thành một di sản văn hóa phi vật thể đậm
đà bản sắc dân tộc, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Chính vì vậy, các tôn giáo ngoại
nhập, kể cả những tôn giáo độc thần như Công giáo khi vào Việt Nam cũng phải thừa
nhận, tiếp thu loại hình tín ngưỡng truyền thống này.
Việc Đảng ta thừa nhận những giá trị tốt đẹp của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn
vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân, có một ý nghĩa hết sức quan trọng có
tác dụng to lớn, góp phần định hướng cho các tôn giáo đồng hành, gắn bó với dân tộc. Mặt
khác, việc phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên còn là nhân tố

để khắc phục sự hẫng hụt, thiếu vắng trong đời sống tâm linh, văn hoá, tinh thần vốn là
khoảng trống để các tôn giáo, nhất là các tà đạo phát triển. Đoàn kết đồng bào các tôn
giáo, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh
những người có công với Tổ quốc và nhân dân, đồng thời phải nghiêm cấm sự phân biệt
đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân,
chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Đó là những quan điểm mang tính
biện chứng sâu sắc trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, giữa xây dựng khối đoàn kết toàn
dân với việc chống sự phân biệt, đối xử, chống âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động gây rối;
giữa giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp với đấu tranh loại trừ các tệ nạn mê
tín hủ tục nhằm bảo đảm cho môi trường sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh.
Từ những nhận thức mới về vấn đề tôn giáo, Đảng ta đã nêu lên những quan điểm
mới về công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Một là, công tác tôn giáo vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần
chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo đế phá hoại cách mạng.
Trong quan điểm này, Đảng ta nhấn mạnh đến hai nội dung rất quan trọng của công tác
tôn giáo. Đó là chăm lo đến đời sống tôn giáo của nhân dân và đấu tranh chống sự lợi
dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Trên cơ sở xác định tôn giáo là tình cảm, nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Mọi người được tự
do theo hoặc không theo một tôn giáo nào, "khắc phục nhận thức thiển cận đối với tôn
giáo và thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo”. Tín đồ các tôn
giáo được tự do sinh hoạt tôn giáo tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống, "có
kinh sách để tu học, có chức sắc hướng dẫn việc đạo". Đặc biệt, Nghị quyết 24 đã mở ra
việc giải quyết, công nhận về mặt tổ chức các tôn giáo nếu hội đủ các điều kiện: có đường
hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp và luật pháp,


22


chuẩn bị tốt về mặt nhân sự, . . . Sau khi đã được công nhận, tổ chức tôn giáo được thực
hiện đầy đủ theo Hiến chương, Điều lệ (hoặc giáo luật), như tổ chức đại hội, hội nghị, việc
đào tạo, phong chức, bổ nhiệm chức sắc, xuất bản kinh sách, sản xuất đồ dùng việc đạo
xây sửa cơ sở thờ tự, quan hệ đối ngoại,... Đây là quan điểm có ý nghĩa rất quan trọng để
ứng xử cụ thể đối với từng tôn giáo, một mặt tạo điều kiện cho các tôn giáo hợp pháp
chăm lo đời sống sinh hoạt của tín đồ, mặt khác đưa sinh hoạt tôn giáo vào khuôn khổ
quản lý nhà nước, góp phần loại bỏ các tà đạo nhằm làm lành mạnh hóa sinh hoạt tôn giáo.
Bên cạnh việc chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào các tôn giáo, phải đấu tranh
chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng.
Do đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam, trước đây khi xâm lược nước ta, các thế lực đế
quốc đều tìm cách lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị của chúng. Ngày
nay, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ việc lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng
nước ta. Vì vậy trong khi tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân, Đảng ta chủ trương phải cảnh giác đấu tranh với những hoạt động lợi dụng tôn giáo
của các thế lực thù địch. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ mật thiết với
nhau. Giải quyết đúng đắn và đầy đủ nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của quần
chúng là làm cho đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào
chế độ và sự nghiệp đổi mới đất nước, hiểu rõ âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn tạo của các
thế lực xấu, từ đó nêu cao cảnh giác để họ "tự giác đấu tranh chống lại chúng, bảo vệ
quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của mình, bảo vệ an ninh Tổ quốc". Ngược lại, khi làm
tốt công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo sẽ tạo môi trường sinh hoạt tôn giáo
lành mạnh, không bị địch lợi dụng để quần chúng yên tâm sinh hoạt tôn giáo.
Khi xác định mối quan hệ hữu cơ giữa hai nhiệm vụ trên, Đảng ta đã đặt vấn đề giải
quyết nhu cầu giáo của quần chúng trước việc đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo
nhằm khắc phục tình trạng có nơi, có lúc khi tập trung chống địch lợi dụng tôn giáo lại
chưa quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, thậm chí có nơi còn
đồng nhất quần chúng có đạo với các phần tử lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng 13.
Điều đó vô hình chung đã đẩy một bộ phận quần chúng có đạo về phía các thế lực lợi dụng
tôn giáo.
Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Đây

là quan điểm thể hiện tư duy lý luận sâu sắc của Đảng ta về công tác quần chúng nói
chung, công tác tôn giáo nói riêng. Khi nói nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công
tác vận động quần chúng, Đảng ta muốn nhấn mạnh đến bản chất và vai trò quyết định của
công tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo; Suy cho cùng, công tác vận động
quần chúng có đạo là công tác đối với con người, đó là những con người-công dân-tín
đồ. Họ là một đối tượng quần chúng đặc thù, có điểm giống, nhưng cũng có điểm khác với
các đối tượng quần chúng khác. Ở họ, giữa con người công dân với con người tín đồ luôn
quyện chặt vào nhau, bổ xung cho nhau không thể tách rời và luôn hướng tới "tốt đời, đẹp
đạo". Trong họ, quyền lợi và nghĩa vụ song trùng giữa con người công dân có quyền lợi,
nghĩa vụ với Tổ quốc và con người tín đồ có quyền lợi, bổn phận với đạo, với giáo hội của
mình. Bởi vậy, công tác vận động quần chúng có đạo không đơn thuần chỉ là công tác
tuyên truyền giáo dục mà còn là công tác tập hợp tín đồ các tôn giáo trong các đoàn thể
quần chúng, công tác xây dựng cốt cán, công tác đối với các chức sắc, nhà tu hành, các
nhân sỹ trí thức trong các tôn giáo. Công tác vận động quần chúng còn là "tăng cường
công tác giáo dục, y tế văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nâng cao dân trí, nhất là ở những vùng
đông đồng bào có đạo", tức là phải chăm lo việc ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục, y tế, hưởng


23

thụ văn hóa,... để nâng cao đời sống dân sinh, trình độ dân trí cho quần chúng. Về khía
cạnh tôn giáo, công tác vận động quần chúng có đạo phải thực hiện tốt chính sách tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, chứ không phải là tuyên truyền thế
giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng để "giải phóng" quần chúng khỏi "đám
mây mù” tôn giáo; cũng không phải tốn thời gian vào các cuộc tranh luận vô bổ có hay
không có Đấng tối cao, có hay không có Thiên đường mà là vận động quần chúng tín đồ
các tôn giáo xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc ngay trên thế gian này. Nói tóm lại,
công tác vận động quần chúng có đạo là làm cho đồng bào được "phần xác no ấm, phần
hồn thong dong"14) như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Làm được điều đó cũng chính là đã
tạo điều kiện để đồng bào có đạo tích cực tham gia xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo",

góp phần cùng toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh".
Ba là, làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở xác định công tác tôn giáo mang nét đặc thù với sự tinh tế trong
nhiều mối quan hệ, không chỉ là giải quyết chính sách đối với tín đồ, ứng xử với chức sắc
và tổ chức giáo hội mà còn là công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo, liên quan
đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do vậy, Đảng ta xác định lực
lượng làm công tác tôn giáo trong thời kỳ mới là toàn bộ hệ thống chính trị. Gồm Đảng,
chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị,... Toàn bộ hệ thống chính trị tham gia làm
công tác tôn giáo, nhưng mỗi ngành tuỳ theo chức năng có những nhiệm vụ cụ thể: Đảng
giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo thông qua chủ trương, đường lối mang tính
định hướng đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ thể. Đồng thời, thông
qua mặt trận và các đoàn thể thực hiện công tác vận động quần chúng xây dựng lực lượng
cốt cán trong tín đồ, chức sắc. Các cấp chính quyền có trách nhiệm thể chế hóa chủ trương
của Đảng bằng các văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo; thực hiện quản lý các hoạt
động tôn giáo, đưa cáo hoạt động tôn giáo vào khuôn khổ của pháp luật. Mặt khác, các cấp
chính quyền còn phải chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của tín đồ các tôn giáo
bằng các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đấu tranh chống các hoạt động
lợi dụng tôn giáo nhằm làm lành mạnh hóa các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng. Mặt trận và
các đoàn thể tuyên truyền, vận động quần chúng, đưa quần chúng tín đồ các tôn giáo theo
từng giới, từng lứa tuổi tham gia các đoàn thể chính trị-xã hội, các đoàn thể xã hội và các
đoàn thể nghề nghiệp khác15.
Bốn là, việc theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo (sinh hoạt động, truyền đạo
và quản đạo) phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Đây là quan điểm có vị trí đặc biệt
quan trọng phản ánh rõ đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta ngày càng được
mở rộng cùng với quá trình đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhưng đồng thời cũng
xuất hiện những vấn đế phức tạp trong đời sống sinh hoạt tôn giáo cần được chấn chỉnh.
Cùng với việc khẳng định quyền tự do hoạt động tôn giáo của tín đồ và các tổ chức tôn
giáo hợp pháp, cần nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân chưa được nhà nước thừa nhận tư
cách pháp nhân truyền đạo, nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động tôn giáo để tuyên truyền

tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân hay ép buộc người khác theo đạo. Điều
đó không chỉ bảo đảm cho hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, giữ vững tình
hình chính trị-xã hội mà còn bảo vệ các tôn giáo chân chính, chống tà đạo, tà giáo và hiện
tượng mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá môi trường sinh hoạt tôn giáo theo nhu cầu,
nguyện vọng chính đáng của quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo.


24

Hoạt động tôn giáo, nhất là hoạt động truyền giáo luôn mang tính xã hội và ảnh
hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó, nó cũng phải tuân thủ và chịu sự quản lý
của nhà nước thế tục. Vì vậy, bất cứ một quốc gia nào dưới những hình thức khác nhau
đều có các chính sách hay pháp luật để quản lý các hoạt động tôn giáo, nhất là hoạt động
truyền giáo nhằm giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống của
mình.
Có thể nói, những quan điểm đổi mới nêu trên đã từng bước được thể chế hóa bằng
chính sách, pháp luật của nhà nước, như Nghị định 69/HĐBT năm 1991 của Chủ tịch hội
đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ); Nghị định 26 CP năm 1999 của Chính phủ, đặc biệt
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của UBTV Quốc hội (2004); Nghi định 22 của Chính phủ
hướng dẫn thi hành một số điều trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01 (năm
2005) của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành. Đó là những văn
bản tạo cơ sở pháp lý quan trọng nhằm giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.
Theo đó, nhiều vấn đề cơ bản, quan trọng của các tôn giáo đã cơ bản được giải quyết, như
sinh hoạt tôn giáo của tín đồ; vấn đề đào tạo chức sắc, in ấn kinh sách, đồ dùng việc đạo;
vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự; đặc biệt vấn đề thừa nhận tư cách pháp nhân về mặt tổ chức
của các tôn giáo (đến nay đã có 12 tôn giáo với 32 tổ chức, hệ phái tôn giáo đã được thừa
nhận); vấn đề hoạt động từ thiện, nhân đạo, văn hóa, xã hội, giáo dục y tế, đối
ngoại,. . . của tôn giáo. Điều đó đã tạo nên niềm tin tưởng, phấn khởi của đại đa số tín đồ,
chức sắc các tôn giáo, có tác dụng động viên, khuyến khích họ tích cực tham gia công
cuộc đổi mới đất nước.

Tuy nhiên, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta còn nhiều hạn chế, chưa thể hiện
đầy đủ những tư tưởng đổi mới của Đảng về vấn đề tôn giáo cũng như chưa phù hợp với
thực tiễn đời sống tôn giáo đang đặt ra ở nước ta trong thời kỳ mở rộng, hội nhập quốc tế.
Vì vậy, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng”16. Đây là vấn đề quan trọng nhất
mà thời gian tới chúng ta cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Trên thực tế, nhất là Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 22 của Chính phủ hướng dẫn một số điều trong
Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo sau 6 năm đi vào thực tế đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, cần
phải chinh sửa, bổ sung, hoàn thiện và nâng cao cho phù hợp với tình hình thực tế đời
sống tôn giáo đang diễn ra. Do đó, bên cạnh những vấn đề đã được khẳng định, Đại hội lần
thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, động viên
các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn
giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được nhà nước thừa nhận,
đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với
những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn
kết dân tộc”17.
Tóm lại, cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, dân chủ hóa đời sống xã
hội, Đảng và Nhà nước ta cũng từng bước xây dựng hoàn thiện chính sách đổi mới về
công tác tôn giáo theo quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nhiều
vấn đề về chính sách, pháp luật cũng cần được bổ sung, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho
công tác tôn giáo cũng như phù hợp với tình hình thực tế cũng như tạo điều kiện cho các
tôn giáo tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, góp phần vào sự ổn định và phát triển đất nước trong điều kiện mới./.
___________


25

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb

CTQG, HN, 2011, tr.245.
2. Viện nghiên cứu Tôn giáo và tín ngưỡng: Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn
giáo ở Việt Nam (tài liệu tham khảo), Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007, tr.323.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành trung
ương khóa VIII, Nxb CTQG, HN, 1998, tr.67.
4. Nguyễn Thanh Xuân, “Trở lại những quan điểm đổi mới về công tác tôn giáo của
Nghị quyết 24”, tạp chí Công tác Tôn giáo, số 2, 2005, tr.8.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành trung
ương khóa IX, Nxb CTQG, HN, 2003, tr.49.
6. Hồ Chí Minh: Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng. Nxb KHXH, HN, 1996, tr. 194.
7. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 7, tr. 197.
8. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban chấp hành Trung
ương khóa IX, Nxb CTQG, HN, 2003, tr52.
9. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 6, tr. 225.
10. Xem Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công tác
tôn giáo của Nghị quyết 24”, tạp chí Công tác Tôn giáo, số 2 (10/2005), tr. 7-8.
11. Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công tác tôn
giáo của Nghị quyết 24”, bài đã dẫn, tr. 8.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sđd,
tr. 245.
13. Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công tác tôn
giáo của Nghị quyết 24”, bài đã dẫn, tr. 9.
14. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, HN, 1996, tr. 606.
15. Xem Nguyễn Thanh Xuân: “Trở lại với những quan điểm đổi mới về công tác
tôn giáo của Nghị quyết 24”, bài đã dẫn, tr. 10.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sđd,
tr. 245.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sđd,
tr. 245.



×