Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO - QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỂ NGHIỆP QUỐC PHÒNG AN NINH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG AN NINH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.58 KB, 24 trang )

1

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ SỰ NGHIỆP QUỐC PHÒNG - AN NINH
VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG - AN NINH HIỆN NAY
Quốc phòng là công cuộc giữ nước của mỗi quốc gia, dân tộc, bao gồm
tổng thể các hoạt động đối nội, đối ngoại của một quốc gia. Sức mạnh của
quốc phòng là sức mạnh toàn diện cả về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại
giao, văn hoá…, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng. Mục đích của quốc
phòng là giữ vững hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, ngăn
chặn và đẩy lùi các hoạt động gây chiến của các thế lực thù địch và đánh bại
chiến tranh xâm lược của kẻ thù.
An ninh quốc gia là sự cần thiết để duy trì sự tồn tại của quốc gia thông
qua việc sử dụng sức mạnh kinh tế, ngoại giao, triển khai sức mạnh và quyền
lực chính trị. An ninh quốc gia còn là sự ổn định và phát triển bền vững của
chế độ xã hội: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích
quan trọng khác của một quốc gia. An ninh quốc gia đề cập đến sự yên ổn của
một quốc gia, ở bên trong thì khụng có rối loạn, không bị chia cắt, ở bên
ngoài thì không bị các quốc gia khác quấy nhiễu, xâm phạm, không bị lệ
thuộc vào quốc gia khác và các tổ chức quốc tế.
Cho nên, quốc phòng, an ninh luôn giữ vị trí, vai trí cực kỳ quan trọng
đối với mọi quốc gia, dân tộc độc lập, có chủ quyền. Quốc phòng, an ninh
luôn có vị trí chiến lược quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quốc phòng, an ninh ngày nay càng có vị trí
quan trọng, không chỉ để sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, xung đột
vũ trang, mà phải đánh bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”


2

và các âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống


phá cách mạng nước ta.
Bước ra khỏi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội với nhiều
thương tật của chiến tranh, tổ quốc ta phải đối phó với nhiều khó khăn thử
thách từ bên trong và bên ngoài. Trong bối cảnh đó, do nắm vững hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đứng trước những khó khăn thách
thức, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước,
Đảng ta đã không ngừng hoàn chỉnh chủ trương, chính sách quốc phòng, an
ninh và tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong thời kỳ cách
mạng mới, thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ SỰ NGHIỆP QUỐC PHÒNG - AN
NINH
1.1. Quan điểm của Đảng về sự nghiệp quốc phòng – an ninh
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), với tư duy đổi mới
toàn diện của Đảng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội, quốc phòng, an
ninh. Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị (1987) đã cụ thể hoá một bước quan
trọng về chủ trương củng cố quốc phòng, an ninh đáp ứng với yêu cầu cách
mạng trong giai đoạn mới. Sau khi phân tích, âm mưu thủ đoạn của các thế
lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị xác
định nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: Thực hiện ngăn chặn và đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh, tranh thủ điều kiện hoà bình, tạo môi trường thuận lợi để xây
dựng đất nước; đồng thời đánh bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, “bạo
loạn lật đổ” của các thế lực thù địch và các thế lực phản động, đối phó thắng
lợi với các cuộc xung đột vũ trang.


3

Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, Nghị quyết 02 của Đảng đã đề cập đến
quan điểm chỉ đạo quốc phòng, an ninh, đó là: Phát huy sức mạnh tổng hợp

của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, của các lực lượng phối hợp cùng thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng với an ninh, quốc phòng, an ninh với kinh tế; xây
dựng lực lượng vũ trang (Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng
cốt) đủ sức mạnh để đánh bại âm mưu thủ đoạn của kẻ thù; xây dựng thế trận
chiến tranh nhân dân vững mạnh toàn diện cả về kinh tế, xã hội và quốc
phòng, an ninh, chú trọng các khu vực phòng thủ chủ yếu… Trước mắt thực
hiện tốt nhiệm vụ điều chỉnh quân số trong quân đội và thế bố trí chiến lược
phòng thủ đáp ứng yêu cầu thời bình. Với những chủ trương đúng đắn đó đã
tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, các cấp, các địa phương triển khai thực
hiên có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, giữ vững sự ổn định chính trị
để tập trung phát triển kinh tế của đất nước.
Sau gần 4 năm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo đường lối
đổi mới, Đảng ta đã tích luỹ được những kinh nghiệm bước đầu trong lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, làm cơ sở để hoàn chỉnh một
bước về chủ trương củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta đã đề ra
nhiệm vụ: Củng cố quốc phòng, an ninh và thế trận chiến tranh nhân dân
nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, ngăn chặn
và làm thất bại mọi âm mưu phá hoại và xâm lược của kẻ thù là hai nhiệm vụ
quan trọng của toàn dân, toàn quân ta, của cả hệ thống chính trị; đẩy mạnh
xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong thế trận quốc phòng
toàn dân; xây dựng các công trình quốc phòng trọng điểm cần thiết, kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quy hoạch và
kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và từng địa phương; xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân với chất lượng ngày càng cao, bao gồm xây dựng lực


4

lượng quân đội nhân dân, lực lượng dự bị động viên lực lượng dân quân tự vệ

lấy chất lượng làm chính, sử dụng có hiệu quả tiềm năng của Quân đội để
tham gia xây dựng kinh tế; chăm lo công tác Đảng công tác chính trị, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong quân đội, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Quân đội và sự nghiệp quốc phòng. Cùng với những chủ trương
lớn về quốc phòng, an ninh, trong cương lĩnh đại hội VII, Đảng ta đã nhấn
mạnh hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, luôn nêu cao cảnh
giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ tổ quốc và thành quả cách mạng.
Trước tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, các nước xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch nhân cơ hội mở
rộng chiến lược “diễn biến hoà bình”, đẩy mạnh tiến công vào các nước xã
hội chủ nghĩa còn lại mà trọng điểm là Việt Nam. Chúng thực hiện chống phá
ta trên tất cả các mặt: chính trị, văn hoá, lối sống… bao vây cô lập và phá hoại
về kinh tế, nhằm làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trước tình
hình đó Đảng ta triệu tập hội nghị Trung ương lần thứ 3 (khoá VII) đề ra các
nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, từng bước củng cố nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân và thế trận chiến tranh nhân dân; tập trung sức nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang; bảo đảm
đời sống vật chất tinh thần của bộ đội; bảo đảm trang bị, kỹ thuật nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quân đội và các đơn vị làm kinh tế của quân đội;
giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân
và Nhà nước, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt; xây dựng phong trào
quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia làm lành mạnh môi trường xã hội; kết
hợp xây dựng thế trận quốc phòng với thế trận an ninh nhân dân.


5

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã có sự phát

triển trong nhận thức về công tác quốc phòng, an ninh, Đảng ta xác định:
“Trong khi đặt nhiệm vụ trọng tâm vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta
không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn coi trọng quốc phòng
- an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”1. Nhiệm vụ quốc
phòng - an ninh trong những năm tới là “Phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc
phòng - an ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân,
thế trận quốc phòng toàn dân gắn an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân,
nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang , bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu và hành
động gây mất ổn định chính trị - xã hội, xâm phạm độc lập chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; ngăn
chặn có hiệu quả và nghiêm trị mọi hoạt động tội phạm, bảo đảm tốt trật tự an
toàn xã hội ”2.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, tư tưởng chỉ đạo của Đại hội VIII là:
Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; kết hợp quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt đó
có mối quan hệ biện chứng với nhau trong nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc; phối hợp
chặt chẽ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại. Hoàn thiện
hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước về quốc phòng an ninh.
Kế thừa các quan điểm xây dựng củng cố quốc phòng, an ninh của các
Đại hội trước và từ yêu cầu của thực tiễn đặt ra, Đại hội Đại biểu toàn quốc
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr39.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr118119
1
2



6

lần thứ IX đã phân tích và chỉ ra rằng, để bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, nếu chỉ củng cố quốc phòng, an ninh thì chưa đủ, mà còn
phải tăng cường quốc phòng, an ninh, một đòi hỏi khách quan trong tình hình
mới. Những quan điểm cơ bản của Đảng về quốc phòng, an ninh trong thời kỳ
mới được thể hiện trên những nội dung sau: về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, Đảng ta khẳng định: “Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi
ích quốc gia dân tộc”3. Như vậy, tư duy bảo vệ tổ quốc của Đảng đã có bước
phát triển mới, bảo vệ độc lập ngày nay không chỉ có vấn đề sẵn sàng chống
quân xâm lược mà quan trọng là bảo vệ độc lập, cả về chính trị, kinh tế, văn
hoá, chống lại mọi hình thức áp đặt thao túng, mua chuộc của các thế lực thù
địch. Việc đó không chỉ tiến hành bằng các giải pháp bạo lực, mặc dù sức
mạnh bạo lực bao giờ cũng là sức mạnh nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc; bảo vệ
chủ quyền quốc gia ngày nay cũng bao hàm nội dung rộng lớn hơn, toàn diện
hơn. Đó không chỉ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên đất liền mà còn
trên biển, trên không; bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ Tổ quốc gắn chặt
với bảo vệ chế độ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng lực
lượng vũ trang; bảo vệ an ninh quốc gia là bảo vệ hoàn chỉnh cả về chính trị ,
kinh tế, văn hoá, xã hội, lấy bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, bảo vệ vững
chắc an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội làm trọng yếu, đồng thời không
xem nhẹ bảo vệ an ninh kinh tế và văn hoá. Đặc biệt chú ý phải bảo vệ “lợi
ích quốc gia, dân tộc”. Đối với nước ta, Tổ quốc gắn với Đảng cộng sản và
chế độ xã hội chủ nghĩa. Tổ quốc là Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Tổ quốc của
3


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr117


7

dân, chỉ có Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa mới đem lại tự do,
ấm no và hạnh phúc cho mọi người dân. Do đó, bảo vệ Tổ quốc là phải bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. không tách rời hoặc
xem nhẹ. Nếu không mất vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản là mất chế độ xã
hội chủ nghĩa và ngược lại, mất chế độ là mất vai trò lãnh đạo của Đảng, mất
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân không được tự do, âm no, hạnh phúc.
Nếu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng,
quốc phòng và an ninh được trình bày ở một mục riêng, với tiêu đề: “Tăng
cường quốc phòng và an ninh” thì đến Đại hội X được phát triển là: “Tăng
cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”.
Để bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ và thống nhất của Đảng, mà trực tiếp
là cấp uỷ địa phương đối với công tác quốc phhòng, an ninh ở địa phương, Bộ
Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ra nghị quyết số
28NQ/TƯ ngày 22/9/2008 “Về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”,
trong đó xác định rõ nguyên tắc và cơ chế “xây dựng và hoạt động của khu
vực phòng thủ đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của tỉnh uỷ, thành
uỷ, sự quản lý điều hành của chính quyền; cơ quan quân sự phối hợp với cơ
quan công an và các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương làm tham mưu và tổ
chức thực hiện”4. Đồng thời, cụ thể hóa hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của
người chỉ huy các cơ quan quân sự và công an trong những tình huống về
quốc phòng, an ninh ở khu vực phòng thủ: “hoạt động của khu vực phòng thủ
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, biểu tình, gây rối; phòng, chống
khủng bố, bắt cóc con tin, bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, bảo đảm an

ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội do người đứng đầu cơ quan công an ở
4

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của BCT, H.2011, tr4.


8

địa phương chủ trì, tham mưu và chỉ huy lực lượng công an phối hợp với lực
lượng quân sự và các lực lượng khác xử lý theo chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn do luật pháp quy định”; “hoạt động của khu vực phòng thủ trong tình
huống khẩn cấp về quốc phòng, an ninh và chiến tranh đặt dưới sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo thống nhất của Uỷ ban Nhân
dân, do chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương chủ trì tham mưu và chỉ
huy thống nhất các lực lượng vũ trang của khu vực phòng thủ, phối hợp với
các lực lượng khác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu” 5. Đảng ủy, bộ tư lệnh
quân khu phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn xây dựng và hoạt động của
khu vực phòng thủ; khi có chiến sự, lãnh đạo và chỉ huy thống nhất các lực
lượng vũ trang chiến đấu bảo vệ địa phương (trường hợp đặc thù sẽ có qui
định riêng).
Nghiên cứu các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng cho thấy, tư duy mới về xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân,
an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn hiện nay được Đảng ta tiếp tục phát triển. Đó là tư duy mới về bảo vệ Tổ
quốc được thể hiện trước hết ở quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định mục tiêu,
nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự gắn
kết chặt chẽ giữa hai mặt tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong bảo vệ

Tổ quốc, chúng ta đặc biệt quan tâm đến việc giữ vững hòa bình, ổn định
chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn
chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù
địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta... Báo cáo chính trị còn
5

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của BCT, H.2011, tr4.


9

nhấn mạnh đến việc giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời... sẵn
sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn
cầu...
Cùng với việc tiếp tục khẳng định vấn đề tăng cường sức mạnh quốc
phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố vững mạnh, tiếp tục phát triển quan điểm của Đại hội X của Đảng,
Đại hội XI khẳng định phải xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực
hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Điều đó chứng tỏ, hơn lúc nào hết, trong
công cuộc bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay, vấn đề lòng dân có vai trò
cực kỳ quan trọng. Xây dựng thế trận lòng dân là yêu cầu bức thiết, là nội
dung cơ bản của việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh
nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Đây là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, là việc nâng lên một tầm cao mới truyền thống, kinh nghiệm
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, được Đảng ta thể hiện trong tư duy
mới về sức mạnh và lực lượng bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Kiên trì quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây
dựng nền an ninh nhân dân trong mối quan hệ với sự ổn định và phát triển

kinh tế - xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định quan điểm
hết sức cơ bản là: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh
tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt
chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong


10

từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và
trên từng địa bàn”6
1.2. Thực trạng quá trình thực hiện quan điểm của Đảng về sự
nghiệp quốc phòng - an ninh
Trong tình hình hiện nay, nhất là từ khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ,
phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Mặc dù so sánh
lực lượng đang tạm thời nghiêng về phía chủ nghĩa đế quốc mà đứng đầu là
đế quốc Mỹ, nhưng tính chất cơ bản của thời đại vẫn là quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại và
phát triển, có mặt còn sâu sắc hơn, nội dung và hình thức còn biểu hiện có
nhiều nét mới. Cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp trên thế giới cũng như ở
mỗi nước tiếp tục diễn ra quyết liệt, phức tạp, nhưng đặc trưng cơ bản vẫn là
cuộc đấu tranh giai cấp và vấn đề “ai thắng ai”giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội. Những khả năng về hoà bình và chiến tranh đan xen rất phức
tạp, nhưng hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển vẫn là xu thế cơ bản
không thể đảo ngược được. Bên cạnh đó, các cuộc xung đột vũ trang, nội
chiến, chiến tranh cục bộ do những mâu thuẫn về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo ở
mỗi nước và do tranh chấp về lãnh thổ, lợi ích kinh tế, tài nguyên giữa các
nước. Đặc biệt là do chính sách can thiệp mới của chủ nghĩa đế quốc, đứng
đầu là đế quốc Mỹ và các nước lớn vẫn xảy ra. Do đó, chiến tranh lớn, chiến
tranh thế giới, chiến tranh huỷ diệt có khả năng bị đẩy lùi. Chạy đua vũ trang,

khủng bố, nội chiến và chiến tranh cục bộ dưới những hình thức và quy mô
khác nhau vẫn xảy ra. Nhân cơ hội trước bối cảnh quốc tế đó, chủ nghĩa đế
quốc điên cuồng chống phá cách mạng thế giới. Đế quốc Mỹ với âm mưu
thiết lập “trật tự thế giới mới”, thế giới một cực do Mỹ đứng đầu. Bất chấp
Liên Hiệp Quốc, pháp luật quốc tế và phản ứng của dư luận thế giới, Mỹ
6

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr82


11

ngang nhiên can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nước và kích
động chủ nghĩa ly khai, gây mất ổn định trên thế giới.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tác
động mạnh mẽ đến quốc phòng, an ninh làm nảy sinh cả thời cơ và thách thức
mới đối với những nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Đối với Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, đứng đầu
là đế quốc Mỹ tiếp tục điều chỉnh chiến lược và phương thức chống phá cách
mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá,
quốc phòng, an ninh. Âm mưu của chúng nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường,
khống chế về kinh tế, thúc đẩy quá trình “tư nhân hoá”, “tư bản hoá” nền kinh
tế nước ta, kết hợp với tăng cường chống phá ta về chính trị, văn hóa, đạo
đức, lối sống. Đồng thời chúng tạo dựng lực lượng chống phá và sử dụng lực
lượng phản động người Việt Nam ở trong nước và sống lưu vong ở nước
ngoài xâm nhập về hòng gây bạo loạn lật đổ chính quyền. Mặt khác, chúng
còn chuẩn bị lực lượng quân sự; khôi phục và tăng cường khối liên minh quân
sự với một số thế lực thù địch chống cộng ở Đông Nam Á, với mưu đồ của
chúng là xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.

Bên cạnh đó, thực trạng quốc phòng, an ninh nước ta trong những năm
đổi mới tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng vẫn còn bộc lộ
nhiều khâu yếu và có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới. Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ chế độ
trong thời kỳ mới, chuyển trọng tâm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh từ đề
phòng chiến tranh xâm lược lớn sang đề phòng xung đột vũ trang có quy mô
khác nhau, phòng chống “diễn biến hoà bình” và “bạo loạn lật đổ”, coi đó là
nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, đồng thời sẵn sàng đối phó thắng lợi các tình
huống phức tạp khác nhau. Đánh giá ưu khuyết điểm về quốc phòng, an ninh,


12

tại Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
Đại hội X về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh chưa được triển khai kịp thời.
Nhận thức về quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ,
đảng viên trong các ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác
trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thự địch và “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực
còn có những thiếu sót; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có
nơi còn bị động, tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội ở một số địa bàn còn diễn biến phức tạp”7
Về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đã coi trọng xây dựng khu vực
phòng thủ tỉnh, thành phố và xây dựng lực lượng động viên vững mạnh. Các
cuộc diễn tập khu vực phòng thủ ở các cấp được tiến hành thường xuyên. Tuy
nhiên, yêu cầu khách quan phải tăng cường quốc phòng an ninh để ngang tầm
với tình hình mới đặt ra, đó là: Quốc phòng, an ninh phải lấy việc bảo đảm
hoà bình ổn định chính trị và phát triển kinh tế đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa cho hoạt động quốc phòng, an ninh; gắn chặt bảo vệ độc lập chủ quyền
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ với bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã

hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc, kết hợp chặt chẽ
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với kinh tế, phối hợp hoạt động quốc phòng,
anh ninh với hoạt động đối ngoại trong nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP QUỐC PHÒNG - AN NINH HIỆN NAY
Trước những vấn đề trên, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp quốc phòng, an ninh và xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr170


13

ninh nhân dân trong thời kỳ mới đạt hiệu quả cao, cần phải thực hiện tốt một
số biện pháp cơ bản sau:
2.1. Tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ thể hóa đường lối và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh.
Đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh trước hết bằng đường
lối, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân,
và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Do vậy, để tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh cần chú trọng đẩy mạnh
công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận, cụ thể hoá đường lối
cho phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Đường lối quốc
phòng, an ninh của Đảng trong giai đoạn hiện nay phải nhằm tăng cường tiềm
lực quốc phòng của đất nước, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững
chắc với thế trận chiến tranh nhân dân; tăng cường tiềm lực an ninh của đất
nước, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; gắn

quốc phòng, an ninh với đối ngoại; xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật
sự trong sạch, vững mạnh, chính quy và tiến lên hiện đại, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc và nhân dân, thật sự là công cụ tin cậy, sắc bén của Đảng
và Nhà nước. Đại hội lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: Xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao;
xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng
cao chất lượng tổng hợp của quân đội, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, làm
cho quân đội có để sức mạnh đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, hoàn thành
thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình
hình mới, giữ vững hoà bình, ổn định, tạo điều kiện cho sự phát triển nền kinh
tế đất nước trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập nền kinh tế tri thức.


14

Ðảng coi trọng việc nghiên cứu những diễn biến mới của tình hình thế
giới và trong nước; dự báo chính xác các tình huống cơ bản liên quan nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh để chủ động lãnh đạo xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ
quốc, chiến lược tổ chức lực lượng, chiến lược trang bị, nghệ thuật chỉ đạo tác
chiến, chiến lược bảo vệ các khu vực trọng điểm quốc gia...
Trong những năm gần đây, tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố khó lường. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội
ở Đông Âu và Liên Xô làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, cách mạng
xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào thoái trào. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc diễn ra gay go, quyết liệt, trật tự thế giới bị đảo lộn, cục diện
chính trị thế giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch. Cuộc cách mạng khoa học phát triển mạnh mẽ như vũ bão, đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu
là đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng tình hình trên nhanh chóng ứng dụng thành tựu

của khoa học công nghệ vào trong lĩnh vực quốc phòng, phát triển mạnh các
loại vũ khí công nghệ cao, ngang nhiên tiến hành chiến tranh xâm lược các
nước độc lập, có chủ quyền: các cuộc chiến tranh ở Vùng Vịnh, Nam Tư,
Apganistan, I - Rắc …
Đứng trước sự vận động, biến đổi phức tạp của tình hình thực tiễn
trong nước và trên thế giới, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, phát
triển và cụ thể hóa quan điểm, đường lối về sự nghiệp quốc phòng, an ninh;
nhằm thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trọng yếu, mang
tính tổng hợp và toàn diện của quốc gia, đó là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị đối với sự nghiệp quốc
phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa


15

Sức mạnh của Nhà nước được thể hiện ở sức mạnh quốc phòng, an
ninh, nó có tác dụng răn đe kẻ thù, ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trường hoà
bình, ổn định cho sự phát triển của kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy,
chăm lo sự nghiệp quốc phòng, an ninh là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân, của các thành phần kinh tế và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, Đảng cần tăng cường sự
lãnh đạo phát huy vai trò trách nhiệm của Nhà nước, của cả hệ thống chính
trị, của các ngành, các địa phương và mọi thành phần kinh tế cùng chăm lo
xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh; trên cơ sở xây dựng, ban hành, thực
thi và hoàn thiện Luật quốc phòng, Luật Công an nhân dân, Luật Sĩ quan
trong quân đội nhân dân Việt Nam, Luật nghĩa vụ quân sự,... cụ thể hoá bằng
cơ chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Tạo sự thống nhất
trong nhận thức và hành động của các ngành, các cấp, các địa phương, các
thành phần kinh tế và sự đồng thuận trong nhân dân về trách nhiệm xây dựng

quốc phòng, an ninh.
Đồng thời, thường xuyên chăm lo xây dựng hệ thống chính trị, nhất là
các tổ chức Đảng và bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở thực sự
trong sạch vững mạnh. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân. Thực hiện có hiệu quả chiến lược cán bộ, trong công tác tổ chức,
sắp xếp cán bộ ở các cấp uỷ, bộ máy chính quyền và tổ chức chính trị - xã hội
các cấp, đặc biệt là những vị trí chủ chốt, cần chú ý lựa chọn những người
tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và lối sống, năng lực trí tuệ
và trình độ tổ chức thực tiễn, những người gần gũi quần chúng nhân dân và
được tín nhiệm suy tôn; có trách nhiệm và năng lực chỉ đạo, điều hành kết
hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh theo chức trách, nhiệm vụ được
giao. Kiên quyết không bố trí, sắp xếp những người có biểu hiện tha hoá về


16

chính trị, tư tưởng về đạo đức và lối sống, cơ hội, thực dụng, xa rời quần
chúng, coi nhẹ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với đó, xây dựng cơ sở chính trị-xã hội cũng là nội dung hết sức
quan trọng của việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh
nhân dân được Ðảng ta hoạch định ngày càng cụ thể và sâu sắc hơn trong quá
trình đổi mới. Trong xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, vấn đề xây dựng các tổ
chức chính trị, nhất là các cơ sở, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và tăng
cường công tác giáo dục bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh là những
nội dung rất quan trọng được Ðảng ta thường xuyên quan tâm lãnh đạo. Xây
dựng cơ sở chính trị - xã hội phản ánh sâu sắc nguồn sức mạnh to lớn của nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân nước ta là từ nhân dân, của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân.
2.3. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với Quân đội, Công an

Công tác xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, sự
quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, đồng thời bám sát
thực tiễn quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội trong từng thời kỳ cách mạng để đề ra mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ phù
hợp, tranh thủ được sự ủng hộ, phối hợp, hiệp đồng, giúp đỡ của cả hệ thống
chính trị, các ngành, các cấp và nhân dân.
Không ngừng bổ sung, hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm túc cơ
chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, Công an. Để bảo đảm cho sự lãnh
đạo chặt chẽ đối với quân đội và công an, Đảng định ra cơ chế lãnh đạo. Nắm
vững và thực hiện đúng cơ chế, không ngừng hoàn thiện cơ chế, làm cho cơ
chế đó luôn phù hợp với tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động
của quân đội, công trong từng giai đoạn cách mạng là vấn đề quan trọng nhất


17

để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an. Cơ chế lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội, công an hiện nay đã và đang phát huy hiệu
lực trên thực tế, nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Cơ chế lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội, công an không phải là cái gì bất biến. Một cơ chế được phát huy
tốt phải là một cơ chế luôn vận động phát, triển phù hợp với sự phát triển của
nhiệm vụ cách mạng, phù hợp với nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của quân
đội, công an trong từng giai đoạn. Nghiên cứu, đổi mới, hoàn thiện cơ chế
lãnh đạo của Đảng đối với quan đội, công an là một quá trình, cần phải có
thời gian, không thể nóng vội.. Hướng đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội, công an phải nhằm vào việc phát huy cao độ vai
trò của các tổ chức đảng, người chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ
chính trị; giải quyết tốt mối quan hệ của các thành phần trong cơ chế, nhất là
giữa tập thể cấp uỷ với người chỉ huy, giữa người chỉ huy với Bí thư đảng uỷ.

Khắc phục cho được biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, ỉ lại tập thể, vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công cá nhân
phụ trách.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế Ðảng lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng, an
ninh. Với vai trò là chủ thể lãnh đạo phù hợp với tính đặc thù của lĩnh vực
quân sự - quốc phòng, Ðảng đã thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt đối với xây dựng nền quốc phòng, an ninh. Nguyên tắc này
thể hiện ở chỗ Ðảng trực tiếp quyết định chủ trương, đường lối; trực tiếp lãnh
đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện xây dựng nền
quốc phòng, an ninh. Những chủ trương, quan điểm, đường lối của Ðảng phải
được quán triệt sâu sắc trong nội bộ Ðảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, trong các lực lượng quân đội, công an.
Đồng thời, tổ chức rút kinh nghiệm và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết
số 51NQ/TƯ ngày 20/7/2005 của BCT khoá IX, phát huy vai trò trọng trách


18

“chủ trì về chính trị”, “trực tiếp chỉ đạo và tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT
trong quân đội” của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp
và Quy định số 92QĐ/TW ngày 15/05/202 của Bộ Chính trị về tổ chức Đảng
trong Công an Nhân dân Việt Nam... Không ngừng nâng cao chất lượng và
hiệu quả CTĐ, CTCT trong lực lượng vũ trang nhân dân nhằm giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang. Xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, lấy vững mạnh về chính trị
làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu toàn diện.
2.4. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức
dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, làm
cho mọi người có đủ kiến thức quốc phòng, an ninh và hiểu rõ những
thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong
điều kiện mới

Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục quốc phòng, an ninh cho mọi
cán bộ, đảng viên, cho toàn dân và lực lượng vũ trang, nhất là đối tượng cán
bộ chủ chốt bằng các hình thức, phương pháp phong phú, bảo đảm đạt hiệu
quả và chất lượng cao. Cần quán triệt tư tưởng và quan điểm của Đảng ta là
trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta phải luôn
luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Chủ động và kịp
thời định hướng tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, toàn dân
và toàn quân về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với nước ta, về
đối tượng và đối tác của cách mạng. Công tác này phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục, bằng nhiều biện pháp sinh động, phù hợp với các đối tượng
khác nhau. Với đối tượng cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp,
các ngành, việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh phải được thực hiện
có nền nếp theo nghị định và chỉ thị của Chính phủ đã ban hành. Với đối


19

tượng học sinh, sinh viên, giáo dục quốc phòng đã trở thành môn học chính
khóa, nhưng cần đổi mới phương pháp truyền đạt, kết hợp giữa bài giảng, hội
thảo khoa học với tham quan, thâm nhập, tiếp xúc với người thật, việc thật,
tham gia trực tiếp vào việc xây dựng và giữ gìn các di tích lịch sử, giúp đỡ các
gia đình có công với nước, với cách mạng... Giáo dục quốc phòng, an ninh
đối với toàn dân, gắn liền với việc xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, xây
dựng ''thế trận lòng dân'', củng cố lực lượng dân quân, tự vệ và lực lượng dự
bị động viên ở cơ sở xã, phường, thôn, xóm.
Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục và bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng, an ninh cho toàn dân và hệ thống chính trị, tạo chuyển biến mạnh
mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân và hệ thống chính trị; chuẩn hóa chương
trình, nội dung giáo dục quốc phòng, an ninh cho từng đối tượng. Trên cơ sở

đó phân cấp tổ chức giáo dục quốc phòng, an ninh cho từng cấp theo hệ thống
các trường từ trung ương tới cơ sở. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chương trình
cho các cấp học, bậc học về quốc phòng, an ninh. Chú trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên. Quan tâm và tích
cực đầu tư ngân sách, bảo đảm tài liệu cơ sở vật chất cho dạy và học môn giáo
dục quốc phòng, an ninh ở các trường, các cấp, các địa phương. Có kế hoạch
và kiên quyết thực hiện theo đúng kế hoạch việc cử cán bộ các cấp đi học các
lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh.
2.5. Kiên quyết đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị
hóa” quân đội và công an của các thế lực thù địch.
Thực chất của “phi chính trị hóa” quân đội và công an là nhằm tách
quân đội, công an ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội, công an
mất phương hướng chính trị, xa rời lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu,
không còn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu, công cụ bạo lực sắc
bén bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân để chúng dễ bề thực hiện mưu đồ


20

làm chuyển hóa chế độ chính trị ở nước ta. Bài học đắt giá về sự sụp đổ chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào cuối những năm 80,
đầu những năm 90 của thế kỷ XX vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, các cấp ủy,
tổ chức đảng cần chú trọng làm tốt việc tuyên truyền, giáo dục để đảng viên,
cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức trong toàn lực lượng vũ trang thấy rõ sự
nguy hiểm của âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội và công an, luôn đề cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động, kiên quyết đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Đồng thời, kịp
thời xử lý có hiệu quả các tình huống phức tạp trong thực tiễn theo đúng quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không để kẻ
thù lợi dụng. Đặc biệt, phải thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đẩy

mạnh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đảm bảo an ninh chính
trị và an toàn tuyệt đối, nhất là đối với các cơ quan, đơn vị trọng yếu, cơ mật;
phòng, chống địch cài cắm, móc nối, lôi kéo, mua chuộc, dụ dỗ, kích động.
Các cơ quan nghiên cứu, báo chí, văn hóa nghệ thuật của quân đội và công an
phải giữ vững định hướng chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng; tích cực
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, giữ vững trận địa tư tưởng của
Đảng
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam ra đời từ phong trào
đấu tranh cách mạng của quần chúng, được Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức,
lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; vì vậy, không có mục tiêu chiến đấu nào khác
là độc lập dân tộc gắn liền với chủ gnhĩa xã hội, đem lại cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân. Quân đội và công an ta không chỉ mang bản chất
giai cấp công nhân mà còn mang tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. Lịch sử
xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội và công an ta đã chứng
minh rõ điều đó, nên dù các thế lực có tìm mọi cách chống phá cũng không
thể đảo ngược. Trên cơ sở nhận thức đúng, mọi cán bộ,chiến sỹ phải đề cao


21

tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén, sắc sảo và kiên quyết đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội và công an; tỉnh
táo, kịp thời xử lý các tình huống phức tạp diễn ra trong hoạt động thực tiễn
theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, không để kẻ địch lợi dụng.
KẾT LUẬN
Sự nghiệp xây dựng, củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh của
Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong thời kỳ mới rất to lớn, nặng nề và phức
tạp. Để sự nghiệp này giành được thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ
của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước.

Ngày nay, đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
thu được những thành tựu vô cùng to lớn cho phép đất nước ta chuyển sang
một thời kỳ phát triển mới. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, song bên cạnh những thời cơ mới là những thách thức không nhỏ,
những nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII nêu lên vẫn luôn tiềm
ẩn, chứa đựng những diễn biến phức tạp, có thể gây nên sự chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, đe doạ sự tồn vong của chế độ xã hội ta. Đặc biệt là trước
chiến lược “diễn biến hoà bình”gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Từ đó Đảng và Nhà nước ta phải ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
thế trận an ninh nhân dân vững mạnh để đủ sức đánh bại mọi kẻ thù cùng các
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay,
tiếp tục đặt ra cho lực lượng vũ trang ta những nhiệm vụ hết sức nặng nề:
Cùng toàn Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang “bảo vệ vững chắc độc
lập, an ninh, chủ quyền và toàn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo
vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm


22

mưu và hoạt động gây mất ổn định chính trị xã hội, xâm phạm độc lập chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước, ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả mọi loại tội phạm, bảo đảm tốt trật
tự, an toàn xã hội”. Đòi hỏi quân đội, công an phải luôn luôn quán triệt đường
lối đổi mới của Đảng, thường xuyên củng cố và tăng cường xây dựng sự
nghiệp quốc phòng, an ninh vững mạnh toàn diện để đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ mới. Đồng thời, Đảng, Nhà nước ta cũng phải tiếp tục tổng kết, phát
triển, đổi mới tư duy trong việc xác định đường lối xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân ngang tầm với sự nghiệp đổi mới, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới của sự nghiệp cách

mạng.
Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa trong sự
nghiệp đổi mới, yêu cầu khách quan là phải chăm lo tới sự nghiệp quốc
phòng, an ninh. Đây là một điều kiện cơ bản quyết định để bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định đất nước,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới với mục tiêu: dân giầu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên
là thiết thực tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng,
an ninh. Qua đó, đảm bảo cho quân đội và công an thực hiện thắng lợi sự
nghiệp xây dựng, củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng
mới.


23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb CTQG, H.1986
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb CTQG, H.1991
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb CTQG, H.2001
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, Hà Nội-2006.
6. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, H. 2011
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008

của Bộ chính trị
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số
28-NQ/TW về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới, 2013.
9. Nghị quyết 02-NQ/TƯ ngày 30-7-1987 của Bộ Chính trị về xây dựng
khu vực phòng thủ.


24

10. Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết hội
nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội - 2003.
11. Học viện Chính trị: Tập bài giảng Giáo dục quốc phòng, an ninh
(dùng cho đào tạo thạc sỹ), Hà Nội, 2015.
12. Giáo trình Lịch sử nghệ thuật quân sự, Nxb QĐND, H.1997, tập 3
13. Giáo trình Lịch sử nghệ thuật quân sự, Nxb QĐND, H.1997, tập 4
14. Võ Nguyên Giáp, Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo
vệ tổ quốc, Nxb Sự thật, H.1979
15. Bộ Quốc phòng: Thông tư số 139/2008/TT - BQP, ngày 14-11-2008
Chính phủ: Nghị định 152/2007/NĐ-CP ngày 10-10-2007
16. Quyết định số 13/2012/QĐ-TTg ngày 23-02-2012 của Thủ tướng
Chính phủ về khu vực phòng thủ.
17. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 51-NQ/TW,
ngày 20/7/ 2005.
18. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương: Quy định số 92-QĐ/TW,
ngày 15/5/2012 về tổ chức Đảng trong Công an Nhân dân
19. Ban Tổ chức Trung ương: Hướng dẫn số 14 về tổ chức Đảng trong
Công an Nhân dân Việt Nam.




×