1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ HOA
VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
VÀ NHỮNG GỢI MỞ ĐỐI VỚI
VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số
: 62 31 20 01
HÀ NỘI - 2017
2
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS. Lưu văn An
2. PGS.TS. Trịnh Thị Xuyến
Phản biện 1:
....................................................................
....................................................................
Phản biện 2:
....................................................................
....................................................................
Phản biện 3:
....................................................................
....................................................................
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... ngày.......... tháng ..... năm..........
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
3
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phạm Thị Hoa (2010), “Vận động hành lang – một hoạt động phổ biến trong thiết
chế dân chủ”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (5).
2. Phạm Thị Hoa (2013), “Những điều kiện để vận động hành lang tích cực ở Hoa
Kỳ”, Tạp chí Thông tin đối ngoại (6).
3. Phạm Thị Hoa (2014), “Các hiệp hội tự trị với việc hình thành nền dân chủ đa trị
trong quan điểm của Robert Alan Dalh”, Tạp chí Thông tin đối ngoại (6).
4. Phạm Thị Hoa (2014), “Một số khía cạnh chủ yếu của quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền và xã hội dân sự ở Thụy Điển”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông
(7).
5. Phạm Thị Hoa (2015), “Vận động chính sách ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận
chính trị và truyền thông (2).
6. Phạm Thị Hoa (2016), “Văn hóa từ chức ở một số quốc gia Đông Á và những giá trị
tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (3).
7. Phạm Thị Hoa (2016), “Hoàn thiện mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
từ kinh nghiệm của Hàn Quốc”, Tạp chí Thông tin đối ngoại, (8).
4
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đòi hỏi phải khoa học, khách quan và chuyên nghiệp trong hoạch
định chính sách công. Nhằm giảm thiểu sự xuất hiện rào cản giữa Nhà
nước và công dân trong quá trình thực thi quyền lực công, ra các quyết
định chung, cơ chế vận động chính sách (VĐCS) công được hình thành
và phát triển.
VĐCS công đã được áp dụng và luật hóa ở nhiều quốc gia trên thế
giới từ lâu nhưng vẫn còn là một vấn đề mới ở Việt Nam. Việt Nam
đang trong quá trình phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời
sống quốc tế, cùng với xu thế hội nhập, xây dựng Chính phủ kiến tạo,
hành động, liêm chính vì dân thì nhu cầu VĐCS công là khách quan. Ở
Việt Nam, dù ở mức độ còn hạn chế cả trong lý luận và đời sống chính
trị thực tiễn, VĐCS cũng đã tồn tại và ngày càng được thừa nhận. Bởi
vậy, nghiên cứu, tham khảo những kinh nghiệm trên thế giới là yêu cầu
tất yếu.
Vấn đề này mặc dù được đặt ra cấp thiết như thế, nhưng cho đến nay,
chưa nhiều công trình khai thác trực tiếp hướng nghiên cứu này. Chính vì
vậy, tác giả xác định đây còn là một mảnh đất trống cần khai phá trong
nghiên cứu khoa học. Và điều đó cũng thôi thúc tác giả lựa chọn đề tài
“Vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ và những gợi mở đối với
Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án chính trị học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung hệ thống và làm rõ những vấn đề cơ bản về VĐCS
công như khái niệm VĐCS công, mục đích và sự cần thiết VĐCS công,
5
chủ thể, đối tượng và phương thức VĐCS, khảo sát thực trạng hoạt động
này ở ba nước Anh, Pháp, Mỹ; từ đó đưa ra những đánh giá khái quát về
hoạt động VĐCS công ở ba quốc gia nêu trên; đồng thời đưa ra một số
gợi mở cho VĐCS công ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục tiêu trên, đề tài tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ
bản như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về VĐCS công, trong đó hệ
thống và phân tích khái niệm chính sách công, xác định mục đích, sự
cần thiết của VĐCS, chủ thể, đối tượng, phương thức, phương tiện vận
động, khái quát những bước cơ bản trong quá trình VĐCS.
- Khảo cứu thực trạng VĐCS công ở Anh, Mỹ, Pháp hiện nay trên các
khía cạnh pháp luật về VĐCS, chủ thể và đối tượng, quy mô hoạt động và
tài chính cho vận động, phương tiện và phương thức vận động của từng
nước và đưa ra những nhận xét về thực tiễn hoạt động này ở từng quốc.
- Từ thực tiễn VĐCS của ba nước Anh, Pháp, Mỹ, luận án làm rõ
quan niệm và những biểu hiện của VĐCS ở Việt Nam, đưa ra những gợi
mở cho chính phủ Việt Nam trong đó chủ yếu tập trung vào những
khuyến nghị để Nhà nước ứng xử phù hợp và hiệu quả hơn với VĐCS.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu trực tiếp hoạt động VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ;
những biểu hiện của VĐCS ở Việt Nam và gợi mở đối với Việt Nam từ
nghiên cứu trường hợp Anh, Pháp, Mỹ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động VĐCS ở Anh, Mỹ,
Pháp là ba quốc gia đại diện cho ba mô hình thể chế chính trị điển hình.
6
Đồng thời, luận án cũng nghiên cứu quan niệm và biểu hiện của VĐCS
ở Việt Nam hiện nay để trên cơ sở những nhận xét rút ra từ VĐCS ở
Anh, Mỹ, Pháp tìm ra những gợi mở cho Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền lực chính trị của
nhân dân lao động, về quyền lực nhà nước, thực thi và kiểm soát quyền
lực nhà nước;
- Một số lý thuyết chính trị học và chính sách công như lý thuyết
về VĐCS công, lý thuyết lựa chọn công cộng, lý thuyết nhóm, lý thuyết
hành vi…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin, cụ thể là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để có những nhìn nhận khách quan, toàn diện về các biểu hiện
của VĐCS ở các nước cũng như ở Việt Nam.
- Phương pháp riêng: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử
dụng tổng hợp các phương pháp như logic - lịch sử, phân tích - tổng
hợp, so sánh, nghiên cứu tài liệu
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách công phu, chi
tiết về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ dựa trên các biểu hiện mang tính
hệ thống và logic bao gồm pháp luật VĐCS, chủ thể và đối tượng, quy
mô và tài chính, hình thức, phương pháp và phương tiện vận động.
Thứ hai, một nghiên cứu so sánh được sử dụng để nghiên cứu cho
cả ba trường hợp Anh, Pháp, Mỹ như trong đề tài này cũng lần đầu tiên
được thực hiện. Trước đó cũng đã có một số công trình trên thế giới
7
nghiên cứu theo hướng so sánh nhưng chỉ tập trung vào một khía cạnh
của VĐCS như những quy định về VĐCS hoặc hiệu quả của VĐCS.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần luận giải và làm rõ những vấn đề về mặt lý luận có
liên quan đến hoạt động VĐCS ở ba nước Anh, Mỹ, Pháp, bước đầu có
những đánh giá một cách khoa học trên quan điểm mác xít về vấn đề
này, đồng thời có những tham chiếu đối với Việt Nam và làm rõ một số
vấn đề có liên quan đến hoạt động VĐCS công ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà
hoạch định chính sách của Việt Nam trong thời gian tới để có cái nhìn
khách quan và khoa học hơn đối với vấn đề VĐCS công ở Việt Nam.
Luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy
và nghiên cứu chính trị học.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án có 3 chương 15 tiết.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về vận động hành lang, vận
động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về vấn đề lý luận
Trong phân nhóm công trình này, có những vấn đề sau đây đã
được bàn đến ở những mức độ khác nhau như quan niệm về chính sách
công và VĐHL,VĐCS công, các công trình bàn đến chủ thể của VĐCS,
các công trình đề cập đến đối tượng của VĐCS, các công trình đề cập
8
đến các hình thức, phương pháp, phương tiện VĐCS, các công trình đề
cập đến môi trường hay các yếu tố ảnh hưởng đến VĐCS, các công trình
đề cập đến những tác động của VĐCS.
1.1.2. Những công trình bàn về pháp luật và thực tiễn vận động
chính sách côngở Anh, Pháp, Mỹ
Nhóm này chủ yếu gồm các công trình nghiên cứu bằng tiếng nước
ngoài và của các tác giả người nước ngoài. Các công trình trong phân
nhóm này tập trung vào các nội dung sau: pháp luật hay những quy định
về VĐCS, những công trình đề cập đến thực tiễn hoạt động VĐCS ở
Anh, Pháp, Mỹ
1.1.3. Các công trình đề cập đến những kiến nghị, giải pháp để
thúc đẩy tính tích cực cũng như hiệu quả của VĐCS
Các công trình bàn đến vấn đề này không nhiều, trong đó chủ yếu
có 3 công trình là “Lobbying in Europe”, Luận án “Lobbying in the
Dark? The Effects of Policy-Making Transpare ncy on Interest
Group Lobbying Strategies in France and Sweden” và công trình
“Effective lobbying in Europe”.
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách công và vận
động chính sách công ở Việt Nam
Nhóm này tập trung vào hai nội dung chính là Chính sách công ở Việt
Nam và VĐHL, VĐCS công ở Việt Nam. Nhóm này chủ yếu bao gồm
các công trình của tác giả Việt Nam và bằng tiếng Việt. Nội dung được
đề cập trong các công trình này cũng chưa thật tập trung, riêng nội dung
về VĐHL, VĐCS công ở Việt Nam còn rất nghèo nàn, thiếu hẳn các
công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
1.3. Đánh giá những công trình nghiên cứu
1.3.1. Những kết quả đạt được
9
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu trên, có thể thấy, các công
trình là những nghiên cứu công phu, đáng tin cậy về những vấn đề cơ
bản có liên quan đến đề tài, cụ thể như sau:
Thứ nhất, nhóm công trình đầu tiên đã tập trung phân tích nhiều
nội dung liên quan đến VĐHL và VĐCS, trong đó về cơ bản có những
nội dung sau đây đã được thống nhất: khái niệm VĐHL, VĐCS, chủ thể
và đối tượng, nội dung và phương pháp VĐCS, môi trường và các nhân
tố tác động đến VĐCS, những tác động của VĐCS...
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về VĐCS công ở Anh,
Pháp, Mỹ là những nghiên cứu công phu trình bày sâu sắc những nội
dung liên quan đến pháp luật hay những quy định về VĐCS và bước đầu
phân tích bối cảnh cũng như những thay đổi trong quá trùnh xây dựng
và hoàn thiện hệ thống các quy định này ở một số nước, trong đó có
Anh, Pháp và đặc biệt phổ biến là Mỹ.
Thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu về Việt Nam đã phác họa
một cách tương đối chi tiết về những vấn đề chính sách công và VĐCS
công ở Việt Nam như làm rõ được đặc thù và những bất cập trong thực
tiễn chính sách ở Việt Nam xuất phát từ đặc thù của hệ thống chính trị
và các điều kiện khác.
1.3.2. Những khoảng trống chưa được nghiên cứu và những vấn đề
đặt ra, cần tiếp tục nghiên cứu
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, từ tổng quan tình hình
nghiên cứu có thể thấy còn một số khoảng trống sau đây cần tiếp tục
nghiên cứu để làm rõ hơn:
Thứ nhất, mặc dù có khá nhiều công trình đề cập đến những nội
dung cơ bản về VĐCS như khái niệm, chủ thể, đối tượng, mục đích,
phương thức, quy trình… nhưng chưa có công trình nào tập trung vào
10
phân biệt hai khái niệm: VĐHL và VĐCS công để thống nhất cách hiểu
cũng như phạm vi sử dụng hai khái niệm trong thực tế còn nhiều tranh
cãi này. Hơn thế nữa, một công trình tập hợp một cách hệ thống và phân
tích đầy đủ, sâu sắc và toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản về VĐCS
công để làm cơ sở khảo cứu và đánh giá thực tiễn hoạt động này ở Anh,
Pháp, Mỹ là không có.
Thứ hai, một nghiên cứu so sánh về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ
tập trung vào mối quan hệ giữa tính thể chế (đặc thù của hệ thống chính
trị và quá trình chính sách công) với thực tiễn VĐCS lần đầu tiên được
thực hiện trong luận án của tác giả. Đặc biệt, từ thực tiễn VĐCS công ở
Anh, Pháp, Mỹ, đưa ra những đánh giá, nhận định và rút ra những giá trị
và những kinh nghiệm có tính tham khảo cho Việt Nam hiện nay là nội
dung hoàn toàn mới.
Riêng nhóm công trình về Việt Nam, hiện tại chưa có một công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu về VĐCS công ở Việt Nam. Đặc biệt,
từ việc nghiên cứu thực tiễn VĐCS ở các nước và từ nhận thức về biểu
hiện của VĐCS công ở Việt Nam hiện nay, đưa ra những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam, nhất là tập trung vào kinh nghiệm ứng xử của
Chính phủ các nước với VĐCS làm giá trị tham khảo cho Chính phủ
Việt Nam hiện nay là hướng nghiên cứu riêng của luận án này.
Từ những khoảng trống của các nhóm công trình được đề cập
trong tổng quan này, tác giả luận án sẽ tập trung vào mấy vấn đề chính:
hệ thống và làm rõ mối quan hệ giữa hai khái niệm VĐHL và VĐCS
theo hướng coi VĐHL và VĐCS là trùng nhau dựa trên bản chất và mục
đích của nó; tiến hành một khảo cứu về thực tiễn VĐCS công ở Anh,
Pháp, Mỹ dựa trên những vấn đề cơ bản được trình bày trong cơ sở lý
luận; đặt vấn đề và nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về VĐCS
11
công ở Việt Nam bao gồm quan niệm và biểu hiện, những quy định (nếu
có) về VĐCS công và phân tích mối quan hệ giữa hệ thống chính trị và
quá trình chính sách ở Việt Nam cũng như kinh nghiệm từ VĐCS ở
Anh, Pháp, Mỹ, đề xuất những kiến nghị giúp Chính phủ có quan điểm
đúng đắn, khách quan và ứng xử hợp lý với VĐCS công ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
2.1. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
2.1.1. Khái niệm vận động chính sách công
Trong phần này, tác giả hệ thống lại các cách tiếp cận và định nghĩa
về VĐCS công và phân loại theo ba nhóm và rút ra ba đặc trưng của
VĐCS công, so sánh VĐCS công với vận động hành lang (VĐHL) và đi
đến lựa chọn nhất quán quan niệm đồng nhất VĐCS và VĐHL và gọi
thống nhất là VĐCS, cuối cùng luận án đưa ra quan niệm sau đây về
VĐCS: VĐCS công là những nỗ lực mang tính hệ thống và có chủ đích
của các chủ thể trong đời sống chính trị nhằm gây ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến các quyết định của cơ quan có thẩm quyền để thay đổi
chính sách theo hướng có lợi hơn cho mình trong những điều kiện cụ thể.
2.1.2. Cơ sở vận động chính sách công
Về cơ sở VĐCS công, luận án đưa ra và làm rõ ba cơ sở hình
thành VĐCS là cơ sở kinh tế, cơ sở chính trị và cơ sở văn hóa xã hội.
Những cơ sở này góp phần làm căn cứ để luận án luận giải những vấn đề
thuộc về thực tiễn VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ trong chương sau.
2.2. MỤC ĐÍCH VÀ SỰ CẦN THIẾT VẬN ĐỘNG CHÍNH
SÁCH CÔNG
2.2.1. Mục đích vận động chính sách công
12
Luận án trình bày và giải thích rõ mục đích của VĐCS công trên
cơ sở chỉ ra VĐCS công nhắm đến mục đích gì trong quá trình tác động
vào từng giai đoạn của quy trình chính sách và các cách thức tác động
để đạt được mục đích ấy là gì. Đồng thời luận án cũng chỉ ra cơ sở quan
trọng cho toàn bộ quá trình này chính là việc cung cấp thông tin và
phân tích, xử lý thông tin theo hướng có lợi cho nhóm vận động mà lại
có sức thuyết phục các chủ thể hoạch định và thực thi chính sách.
2.2.2. Sự cần thiết của vận động chính sách công trong quy
trình chính sách công
Luận giải cho sự cần thiết của VĐCS trong quy trình chính sách
công, tác giả luận án đưa ra những luận điểm sau đây: Thứ nhất, xuất
phát từ nhu cầu thông tin từ phía các nhà hoạch định chính sách; Thứ
hai, xuất phát từ nhu cầu tham gia vào quá trình chính sách để thực hiện
hiệu quả hơn quyền lực của công dân; Thứ ba, VĐCS là phương tiện
giúp củng cố quyền lực của các chủ thể cầm quyền.
2.3. CHỦ THỂ, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG THỨC VẬN
ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
2.3.1. Chủ thể vận động chính sách công
Khi xã hội ngày càng phát triển, con người có nhiều mối quan tâm
hơn và nhu cầu VĐCS ngày càng tăng theo thì các chủ thể VĐCS cũng
ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, có thể là các tổ chức hoặc
cũng có thể là cá cá nhân, công dân, có thể là các chủ thể bên ngoài bộ
máy nhà nước hoặc cũng có thể là chính các cá nhân, tổ chức, các cơ
quan thuộc chính phủ… trong đó đặc biệt phải kể đến sự tham gia của
các đảng chính trị, các nhóm lợi ích và hạt nhân trong đó là các chuyên
gia VĐCS. Luận án đi vào phân tích sâu hơn sự tham gia của các chủ thể
chính này vào quá trình VĐCS.
13
2.3.2. Đối tượng vận động chính sách công
Luận án chỉ ra đối tượng chính của VĐCS là các nghị sĩ, quan chức
chính phủ, thẩm phán, các công chức có thẩm quyền… đương nhiệm,
thậm chí là cả những người đứng đầu nhánh hành pháp ở các nước như
Tổng thống hay Thủ tướng. Họ chính là những người được nhân dân uỷ
quyền, thay mặt cho nhân dân trong việc thực thi quyền lực nhà nước
trong đó có việc thảo luận và thông qua các chính sách công.
2.3.3. Những phương thức chủ yếu vận động chính sách công
Dựa trên các tiêu chí cụ thể, có thể phân ra thành các phương thức
VĐCS như sau:
Xét theo cách thức giao tiếp, bao gồm VĐCS trực tiếp và VĐCS
gián tiếp.
Xét theo hình thức thể hiện, các phương thức vận động bao gồm
gặp gỡ tại phòng làm việc, mời các chủ thể quyền lực công tham dự hội
thảo, tọa đàm, tặng quà, mời ăn tối, hoặc vận động qua các ủy ban hành
động chính trị (điển hình là ở Mỹ).
2.4. QUY TRÌNH VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
Tiết này bàn về quy trình VĐCS công, luận án khái lược một số
cách tiếp cận và phân chia các giai đoạn trong quy trình VĐCS và cuối
cùng lựa chọn cách phân loại như đã được đưa ra bởi trường Đại học
John Hopkins, theo đó quy trình VĐCS công gồm các bước như sau:
1.Phân tích vấn đề chính sách; 2. Xây dựng chiến lược vận động chính
sách; 3. Xây dựng các liên minh, đưa ra các thông điệp vận động chính
sách; 4. Phối hợp hành động vận động chính sách; 5. Đánh giá kết quả
vận động; 6. Theo dõi kết quả chính sách (duy trì tính liên tục)
14
Tiểu kết chương 2
Có thể thấy, dù còn nhiều quan niệm, nhiều cách tiếp cận khác
nhau về VĐCS nhưng những vấn đề cơ bản liên quan đến VĐCS như
chủ thể, đối tượng, mục đích, nội dung, phương thức vận động… hiện
nay là tương đối rõ ràng và thống nhất. Theo đó, không còn nghi ngờ
VĐCS đang ngày càng trở nên cần thiết trong các thiết chế dân chủ và
tác động mạnh mẽ đến các quá trình chính sách công mặc dù VĐCS có
lịch sử hình thành và phát triển của nó gắn liền với những điều kiện cơ
bản của đời sống kinh tế - xã hội cũng chính là những cơ sở hình thành
hoạt động này. Chủ thể và đối tượng VĐCS rất đa dạng, phương thức
tiến hành vận động có thể khác nhau nhưng nhìn chung, mục đích của
các hoạt động VĐCS đều hướng đến việc tạo ra những thay đổi chính
sách theo hướng có lợi hơn cho chủ thể vận động.
Chương 3. VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
Thực trạng VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ được triển khai trong 5 tiểu
tiết sau đây:
1. Pháp luật về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ
2. Chủ thể, đối tượng VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ
3. Quy mô, tài chính cho VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ
4. Phương thức, phương tiện VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ
5. Một số nhận xét về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ
3.1. PHÁP LUẬT VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở
ANH, PHÁP, MỸ
3.1.1. Pháp luật về vận động chính sách ở Anh
ở Anh, mặc dù không có Hiến pháp thành văn nhưng VĐCS công
không phải là vấn đề mới ở quốc gia này. Thậm chí, Vương quốc Anh
còn được coi là xuất phát điểm của VĐCS công với vai trò của hành
15
lang trung tâm của Điện Wesminster. Các quy định liên quan đến VĐCS
công bao gồm: Đại Tuyên ngôn về các quyền tự do (Magna Carta) năm
1215, Tuyên ngôn về các quyền của Vương quốc Anh, Ủy ban Nolan,
Bản đăng ký các lợi ích của nghị sĩ, “Hướng dẫn về các Quy tắc liên
quan tới hành vi của nghị sỹ”, Bộ luật hành vi, Bộ quy tắc điều chỉnh
hành vi của Bộ trưởng, Quy định chi tiết về các giao dịch giữa cán bộ
công chức và các nhà VĐCS công, bản báo cáo: “Vận động hành lang:
Tiếp cận và ảnh hưởng ở Whitehall”, gần đây nhất, một Đạo luật được
cho là có quy định cụ thể hơn về VĐCS được thông qua ở Anh nhưng
lại chỉ được áp dụng từ ngày 19 tháng 9 năm 2014 đến ngày 07 tháng 5
năm 2015 nên được gọi là "giai đoạn điều chỉnh”, chủ yếu đưa ra những
quy định liên quan đến việc gây quỹ của các tổ chức từ thiện cho các
chương trình vận động tranh cử của các ứng cử viên và các đảng chính
trị trong cuộc tổng tuyển cử 2015.
Như vậy, tựu chung lại, ở Anh hiện nay vẫn vắng bóng một quy
định hay luật chính thức về VĐCS. Những quy định về VĐCS công ở
Anh mặc dù đã có nhưng chưa cụ thể, rõ ràng và chi tiết, đặc biệt, các
quy định này do chính các tổ chức chuyên về VĐCS tự đặt ra, do đó,
cũng có thể nói, ở bình diện quốc gia, Vương quốc Anh vẫn chưa có
Luật chính thức về VĐCS.
3.1.2. Pháp luật về vận động chính sách ở Pháp
Luật Le Chapelier được ban hành vào ngày 14 tháng 6 năm 1791
đã nghiêm cấm các nhóm lợi ích tham gia vào diễn đàn chính trị. Hiện
nay, Pháp không có Luật về hành vi đối với những đại diện của các
nhóm lợi ích, Thượng viện Pháp không có Bản đăng ký hay danh sách
các nhóm áp lực. Điều 79 Luật về thủ tục cấm các nghị sỹ sử dụng địa vị
của mình hoặc cho phép sử dụng địa vị của mình vào việc khác ngoài
16
việc thực thi trách nhiệm của nghị sỹ với các hình phạt cụ thể cho việc
bất tuân thủ. Các nghị sĩ Pháp cũng bị cấm tham gia vào các tổ chức hay
nhóm bảo vệ lợi ích cá nhân, địa phương hay nghề nghiệp hoặc có cam
kết với các nhóm này trong hoạt động Quốc hội của họ. Pháp cũng
không có quy tắc dành riêng cho các nghị sĩ sau khi hết nhiệm kỳ. Họ có
thể tiếp tục cung cấp các dịch vụ tư vấn và có vai trò như các chuyên gia
VĐCS với điều kiện trước khi nhận công vụ, họ đã được quyền cung cấp
các dịch vụ như vậy. Gần đây nhất, Tổ chức minh bạch Pháp đã phát
triển một bản hướng dẫn thiết kế để tính toán chi phí VĐCS, điều mà lẽ
ra cần phải được đề cập trong Luật đăng ký của Quốc hội Pháp với sự
hợp tác của một nhóm các công ty. Đây chính là nỗ lực mới mẻ và tích
cực nhất hướng tới xây dựng các quy định và luật về VĐCS ở Pháp thời
gian tới.
3.1.3. Pháp luật về vận động chính sách ở Mỹ
Cơ sở cho sự ra đời của hoạt động VĐCS được bắt nguồn từ chính
Hiến pháp Mỹ với quy định Quốc hội sẽ không xây dựng một đạo luật
nào để hạn chế quyền của dân chúng được hội họp ôn hoà và đưa lên
Chính phủ các điều thỉnh cầu bày tỏ nỗi bất bình của họ. Ở Mỹ có nhiều
văn bản pháp luật thừa nhận và quy định các hoạt động VĐCS. Đặc biệt,
VĐCS được hệ thống pháp luật quy định và bảo vệ. Tu chính án thứ
nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ. Đạo luật đầu tiên được áp dụng cho hoạt
động VĐCS là Đạo luật Vận động hành lang (The Federal Regulation of
Lobbying Act of 1946) được Quốc hội thông qua năm 1946. Tiếp đến là
Đạo luật về Công khai hóa hoạt động VĐCS (Lobbying Disclosure Act
of 1995). Năm 2007, Luật Lãnh đạo trung thực và Chính phủ mở (The
Honest Leadership and Open Government Act of 2007). Bản hướng dẫn
Đạo luật về Công khai hóa hoạt động VĐCS năm 2011 của Văn phòng
17
Thư ký Hạ viện Mỹ. Ngoài ra, liên quan đến hoạt động VĐCS còn có
Bộ luật về ngân sách liên bang (Internal Revenue Code – IRC) và Đạo
luật Đăng ký đại diện cho nước ngoài (Foreign Agents Registration Act
of 1938 – FARA).
Từ những quy định về VĐCS ở ba nước Anh, Pháp, Mỹ như đã
trình bày trên đây, có thể nhận thấy một số điểm chính sau đây:
Một là, quy định về VĐCS có liên quan trực tiếp đến các yếu tố
thuộc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội như đặc điểm thành phần
kinh tế, các giá trị văn hóa chính trị, đặc điểm hệ thống chính trị và quy
trình chính sách, ý thức chính trị của công dân.
Hai là, Anh, Pháp, Mỹ, mỗi quốc gia theo đuổi một mô hình quy
địnhvề VĐCS khác nhau song thành công nhất là Mỹ, nơi mà các quy
định về VĐCS đầy đủ và hoàn chỉnh nhất, với những điều chỉnh liên tục
cho phù hợp với thực tiễn VĐCS.
Ba là, xu hướng ngày càng thắt chặt những quy định về VĐCS ở cả
ba nước Anh, Pháp, Mỹ.
3.2. CHỦ THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA VẬN ĐỘNG CHÍNH
SÁCH CÔNG Ở ANH, PHÁP, MỸ
Về chủ thể, đối tượng VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ, từ việc
nghiên cứu về chủ thể và đối tượng VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ có thể
nhận thấy một số điểm đáng lưu ý sau đây: Mặc dù ở cả ba quốc gia, các
chủ thể VĐCS đều rất đông đảo về số lượng và đa dạng về thành phần
nhưng vẫn phải khẳng định Mỹ vẫn là nơi mà tập trung nhiều chủ thể
VĐCS nhất và cũng nhất cả về tính chuyên nghiệp và hiệu quả vận
động. Một thực tế khác là vì cả ba quốc gia đều là những nước lớn, các
quyết định chính sách của chính phủ các nước này không chỉ có những
ảnh hưởng nội địa mà còn được rất nhiều chủ thể nước ngoài quan tâm
bao gồm cả các chính phủ của các nước khác. Tuy nhiên, không thể phủ
18
nhận, Oasinhtơn vẫn là nơi mà hoạt động VĐCS diễn ra sôi nổi và nhộn
nhịp nhất, các chủ thể nước ngoài cũng phổ biến hơn.
3.3. QUY MÔ, TÀI CHÍNH CHO VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG
Về quy mô và tài chính cho VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ, có thể
thấy, do thiếu các cơ chế báo cáo bắt buộc cả ở cấp độ Liên minh cũng
như ở hầu hết các quốc gia thuộc châu Âu, thật khó để biết được quy mô
thực sự của hoạt động VĐCS cũng như các khoản tiền chi phí cho hoạt
động này [93, tr. 18]. Chính vì vậy, thông tin về tài chính cho VĐCS ở
Anh và Pháp thiếu hụt rất nhiều khi đặt trong sự so sánh hoàn toàn
tương phản với những số liệu vô cùng phong phú ở Mỹ.
3.4. PHƯƠNG THỨC, PHƯƠNG TIỆN VẬN ĐỘNG CHÍNH
SÁCH CÔNG
Về phương thức, phương tiện VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ, có thể
thấy các phương thức và phương tiện VĐCS cả truyền thống và hiện đại
đều xuất hiện ở cả ba quốc gia nhưng các phương tiện, phương thức
VĐCS ở Mỹ là thực sự đa dạng và được khai thác triệt để hơn nhằm
nâng cao hiệu quả VĐCS.
3.5. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH Ở
ANH, PHÁP, MỸ
Những nhận xét rút ra về VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ liên quan
đến những tác động hai mặt của VĐCS công trong đơi sống chính trị,
những điểm tương đồng và khác biệt trong thực tiễn VĐCS công ở ba
nước cũng như mối liên hệ giữa tính chất thể chế, yếu tố truyền thống
lịch sử, văn hóa với những quy định và biểu hiện thực tiễn VĐCS công
ở các nước này.
Tiểu kết chương 3
Anh, Mỹ, Pháp điển hình cho ba mô hình thể chế chính trị khác
nhau lần lượt là mô hình đại nghị, mô hình tổng thống và mô hình hỗ
hợp. Mỗi quốc gia cũng có quy trình chính sách công với những đặc
19
điểm riêng xuất phát từ chính những đặc thù về thể chế chính trị và hệ
thống chính trị riêng của chúng. Có lẽ từ những khác biệt đó dẫn đến hệ
quả là thực tiễn VĐCS ở Anh, Pháp, Mỹ bên cạnh một số điểm tương
đồng mang tính khá phổ biến, thì tồn tại những khác biệt rất rõ nét phản
ánh đặc trưng trong VĐCS của từng quốc gia.
Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GỢI MỞ VỚI VIỆT NAM
4.1. QUAN NIỆM VỀ VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Về cơ bản, cho đến nay, chúng ta khá thống nhất ở quan niệm
cho rằng, VĐCS được hiểu là quá trình tác động vào những nhà hoạch
định chính sách, những người ra quyết định để tạo ra một chính sách phù
hợp hơn, minh bạch và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cũng cần quán triệt
quan điểm, VĐCS không đồng nghĩa với với việc “chạy cơ chế” đã từng
xảy ra ở nước ta trong những năm vừa qua nhưng trên thực tế, ranh giới
giữa chúng đôi khi là khá mong manh.
4.2. BIỂU HIỆN VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở
VIỆT NAM
4.2.1. Những quy định có liên quan đến vận động chính sách ở
Việt Nam
Bàn về cơ sở pháp lý cho các tổ chức XHDS ở Việt Nam trong
VĐCS nhiều tác giả khẳng định rằng chúng ta (Nhà nước và Đảng Cộng
sản Việt Nam) cũng đã có không ít văn bản như “Sắc Luật 102/SL 1957
quy định về quyền lập Hội, Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2000, Chỉ thị
202/1990 của Chủ tịch HĐBT, Nghị định 88/2003 của Thủ tướng Chính
phủ v.v…[40, tr.24]; Điều 39 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân năm 2003 quy định đối với đại biểu Hội đồng nhân dân; ở
góc độ quan điểm, đường lối của Đảng cầm quyền, từ diễn đàn của Đại
20
hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Nhà nước ban hành và
bổ sung pháp luật để Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực
hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội” [10, tr.4]; Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm; Luật tổ chức Quốc hội năm
2014 và Luật tổ chức Chính quyên địa phương năm 2015. Đặc biệt, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW ngày
12-12-203 về việc ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; (5) Pháp
lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007.
Trên thực tế, dù chưa khẳng định có hay không VĐCS công ở
Việt Nam nhưng có thể thấy những biểu hiện của hoạt động VĐCS ở
Việt Nam ngày càng rõ rệt hoặc ít nhất cũng thấy được đang có những
nỗ lực để vận động và cho VĐCS công ở Việt Nam hiện nay.
4.2.2. Vận động chính sách công của các chủ thể trong và
ngoài nước ở Việt Nam
Hoạt động VĐCS của các chủ thê rtrong và ngoài nước ở Việt
Nam bao gồm vận động của các hiệp hội, các doanh nghiệp, các công ty,
các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ...
4.2.3. Vận động chính sách công của các chủ thể Việt Nam ở
nước ngoài
Hoạt động VĐCS của các chủ thể Việt Nam ở nước ngoài chủ yếu
liên quan đến lĩnh vực kinh tế, thương mại, cũng có thể là việc bảo vệ
lợi ích chính đáng của một nhóm người Việt Nam ở nước ngoài. Từ đó
cung cấp thêm những bài học kinh nghiệm, nhận thức và kỹ năng cơ
bản, cần thiết về VĐCS cho chủ thể Việt Nam bao gồm cả các hiệp hội
sản xuất kinh doanh và thậm chí các chính phủ Việt Nam.
21
4.2.4. Đặc điểm của vận động chính sách công ở Việt Nam
hiện nay
Thứ nhất, quan niệm và nhận thức về VĐCS ở Việt Nam hiện nay
còn rất hạn chế. Thứ hai, Việt Nam còn thiếu các quy định về VĐCS
công. Thứ ba, ở Việt Nam đã có những biểu hiện khá rõ ràng của VĐCS
với cả hai phương diện: Việt Nam chủ động sử dụng VĐCS như một
công nghệ khi tham gia vào sân chơi quốc tế; và những biểu hiện của
VĐCS trong chính các quá trình chính trị và chính sách ở nước ta. Thứ
tư, VĐCS công ở Việt Nam hiện nay còn đang đứng trước những khó
khăn và thách thức rất lớn để khẳng định sự cần thiết khách quan cũng
như đảm bảo tính tích cực của nó.
4.3. ĐIỀU KIỆN, THÁCH THỨC VÀ XU HƯỚNG PHÁT
TRIỂN VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH Ở VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
4.3.1. Những điều kiện cho vận động chính sách ở Việt Nam
Thứ nhất, có quy định để đảm bảo người dân tham gia VĐCS.
Thứ hai, sự phát triển kinh tế xã hội làm xuất hiện cơ sở kinh tế
và xã hội cho VĐCS.
Thứ ba, xu hướng phát triển ở Việt Nam trong những năm qua và
thời gian tới thúc đẩy nhu cầu VĐCS.
4.3.2. Những thách thức với vận động chính sách ở Việt Nam
Thứ nhất, nhận thức về VĐCS của người dân Việt Nam nói
chung, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp nói riêng chưa đầy đủ.
Thứ hai,sự thiếu rõ ràng của hệ thống pháp chế trong bối cảnh
năng lực quản trị của nhà nước còn hạn chế và mức độ công khai, minh
bạch của nhà nước thấp.
Thứ ba, các doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm VĐCS.
Thứ tư, chưa hình thành được đội ngũ VĐCS chuyên nghiệp.
22
Thứ năm, tình trạng tham nhũng phổ biến, suy thoái đạo đức của
một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa có khả năng ngăn chặn hiệu quả.
4.3.3. Xu hướng phát triển vận động chính sách công ở Việt
Nam thời gi an tới
Thứ nhất, tranh luận xung quanh việc luật hóa hay chưa luật hóa
VĐCS công ở Việt Nam đã, đang diễn ra trong thời gian vừa qua vẫn sẽ
tiếp tục trở thành đề tài được thảo luận nhiều hơn trong thời gian tới với
những nỗ lực của các bên có liên quan nhưng khả năng luật hóa VĐCS
công ở Việt Nam chưa thể thành hiện thực trong ít nhất 5 năm tới đây.
Thứ hai, dù chưa có luật VĐCS cũng, cũng chưa thừa nhận VĐCS
công như một yếu tố cần thiết để thực hiện dân chủ trong chính sách ở
Việt Nam nhưng những biểu hiện của VĐCS công bao gồm cả những
biểu hiện của vận động ngầm của các chủ thể trong và ngoài nước ở Việt
Nam cũng như nhu cầu VĐCS của các chủ thể Việt Nam trong sân chơi
quốc tế sẽ vẫn tiếp tục diễn ra, cung cấp thêm những bằng chứng hỗ trợ
cho những tranh luận về việc nên hay không thừa nhận VĐCS công ở
Việt Nam.
Thứ ba, việc giám sát các hoạt động VĐCS ngầm giữa các chủ thể
với chính quyền ở Việt Nam trong thời gian tới sẽ được kiểm soát chặt
chẽ hơn trước áp lực từ xã hội.
4.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC NHẰM
ỨNG XỬ HỢP LÝ VỚI VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH CÔNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.4.1. Nâng cao nhận thức về vận động chính sách trong toàn
hệ thống chính trị và cả xã hội
Muốn có một môi trường hoàn thiện cho VĐCS công hình thành
và phát triển thì phải bắt đầu từ nhận thức, bao gồm nhận thức của chính
23
quyền, của các chủ thể, của mọi người dân về VĐCS. Nâng cao nhận
thức về VĐCS để giúp chúng ta hiểu thống nhất, hiểu đúng và đầy đủ về
VĐCS, về tính khách quan của nó, từ đó có những thái độ và ứng xử
phù hợp với hoạt động này.
4.4.2. Đẩy mạnh cải cách quy trình chính sách theo hướng
khoa học, công khai, minh bạch và hiệu quả
Bài học từ nghiên cứu VĐCS công ở Anh, Pháp, Mỹ đã chỉ ra mối
liên hệ giữa thể chế chính trị, quy trình chính sách với VĐCS công.
Trong đó, một trong những điều kiện để VĐCS công phát triển theo
hướng phát huy mặt tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó là một
quy trình chính sách khoa học, chặt chẽ, công khai, minh bạch và hiệu
quả. Đây tất nhiên sẽ là điều mà Việt Nam phải hướng tới không chỉ để
tạo ra môi trường cho VĐCS tích cực mà còn để nâng cao chất lượng,
hiệu quả của chính sách công nói chung.
4.4.3. Xây dựng và hoàn thiện quy định pháp lý về vận động
chính sách
Dù mức độ luật hóa hay tính cụ thể, chặt chẽ trong những quy định
về VĐCS ở Anh, Pháp, Mỹ khác nhau nhưng một giá trị phổ biến là
VĐCS chỉ có thể phát triển mạnh mẽ, đầy đủ và phát huy mặt tích cực,
hạn chế tiêu cực của nó khi mức độ chặt chẽ của những quy định về
VĐCS cao. Đây chính là điều mà chúng ta phải nghiêm túc quan tâm,
nghiên cứu để đưa ra quyết định đúng đắn nhằm ứng xử hợp lý hơn với
VĐCS.
4.4.4. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế và nâng cao hiệu quả gi ám
sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể chính trị - xã hội
24
Trong những phân tích về điều kiện và những biểu hiện của VĐCS
công ở Việt Nam, có thể thấy chúng ta còn thiếu nhiều điều kiện để
VĐCS có thể phát triển đầy đủ. Tuy nhiên, không phải chưa có những
cơ chế để giám sát quy trình chính sách, trong đó có hoạt động VĐCS.
Sự giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội sẽ là một kênh quan trọng và hiệu quả để giám sát quá
trình chính sách, để đảm bảo VĐCS tích cực phát triển.
Tiểu kết chương 4
VĐCS công dù đã được nghiên cứu nhiều cả về mặt thuật ngữ cũng
như thực tiễn trên thế giới nhưng rõ ràng nó còn rất mới mẻ ở Việt Nam.
Điều đáng nói hơn, trong cách quan niệm, cách hiểu và kể cả những biểu
hiện của VĐCS ở Việt Nam dưới góc độ nào đó có nhiều điểm ngược lại
với thế giới. Dù vậy, dùng quan niệm và cách tiếp cận về VĐCS như ở
chương 2 để soi vào thực tiễn chính sách Việt Nam, chúng ta thấy những
nỗ lực rất đáng kể trong việc tìm hiểu và nghiên cứu cũng như thực hành
VĐCS ở nước ta hiện nay, nhất là những nỗ lực từ phía các hiệp hội, các
doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và các thể chế khác. Tất nhiên,
chúng ta cũng biết, để VĐCS hình thành và phát triển một cách đầy đủ
cần rất nhiều yếu tố mà thực tiễn Việt Nam hiện nay chưa thể đáp ứng
ngay được. Đó là lí do giải thích tại sao nhu cầu vận động được xem là
tất yếu nhưng ở Việt Nam, VĐCS ít nhiều vẫn thường bị gán cho cái
mác tiêu cực với những biểu hiện xấu của nó.
KẾT LUẬN
Dù còn là vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng VĐCS công đã được
áp dụng và luật hóa ở nhiều quốc gia trên thế giới từ lâu. Với tư cách là một
hoạt động, cao hơn nữa là một công nghệ trong đời sống chính trị, VĐCS
công được hình thành và phát triển gắn với những điều kiện nhất định về
25
kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và có chủ thể, đối tượng, mục đích,
phương thức và phương tiện thực hiện riêng theo những bước tiến hành
mang tính chất cơ bản. Tùy vào mục đích, động cơ và cách thức chủ thể tiến
hành vận động mà VĐCS biểu hiện ra ở những khía cạnh tích cực hay tiêu
cực của nó. Chính vì vậy, cần hiểu về VĐCS, đặt nó vào trong những môi
trường chính trị - xã hội nhất định để tạo ra những điều kiện giúp phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của VĐCS hoặc ít nhất là có những ứng
xử phù hợp với hoạt động này.
Anh, Pháp, Mỹ không chỉ điển hình cho ba mô hình thể chế chính trị
với những đặc điểm riêng trong quy trình chính sách mà còn cho thấy ba
mô hình với ba bối cảnh thực tiễn VĐCS không giống nhau xuất phát từ
sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, về quan điểm và thái
độ của nhà nước với VĐCS dẫn đến những biểu hiện và sự phát triển
của VĐCS trong đời sống chính trị mỗi quốc gia đều có những đặc thù,
chứa đựng những bài học có thể tham khảo cho Việt Nam. Là quốc gia
mà VĐCS được đánh giá là diễn ra phổ biến và mạnh mẽ cũng là quốc
gia sớm quy định và chủ động hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật về
VĐCS, Mỹ được coi là quốc gia VĐCS được thực hiện một cách chuyên
nghiệp và hiệu quả nhất. Tính chuyên nghiệp và hiệu quả của VĐCS
công ở Mỹ thể hiện từ chính hoạt động của các chủ thể VĐCS ở đây. Sự
phong phú, đa dạng của các chủ thể, đối tượng VĐCS cùng với những
phương thức, phương tiện vận động và sự duy trì ở mức cao chi phí cho
VĐCS cũng như sự gia tăng quy mô và số vụ việc vận động là những
bằng chứng cho thấy bức tranh sinh động về VĐCS công ở Mỹ. Trong
khi đó, Anh và Pháp là hai đại diện của châu Âu với những quy định về
VĐCS khác nhau, bối cảnh thể chế và đặc điểm quy trình chính sách có
những đặc thù, hoạt động VĐCS diễn ra kém sôi nổi, ít hiệu quả và tính