Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Con người và nhân cách con người trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.48 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.....................................................................................................................................1
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................1
PHẦN I. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU..................................................................................................2
I. Cơ sở lí luận...........................................................................................................................2
1. Quan điểm của triết học phương Đông về con người........................................................2
2. Quan điểm của triết học phương Tây về con người..........................................................4
3. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về con người và nhân cách con người.....................7
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN..........................................................................................................13
PHẦN II. THỰC TRẠNG CON NGƯỜI VÀ NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY................................................................................................15
I. Ưu điểm................................................................................................................................15
II. Nhược điểm........................................................................................................................17
III. Nguyên nhân của những hạn chế.......................................................................................19
PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP......................................................................................................20
KẾT LUẬN.................................................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................24

MỞ ĐẦU
Trong sự phát triển và đi lên của xã hội, con người luôn giữ vai trò trung tâm
và chi phối. Nói như chủ nghĩa Mác, con người vừa là sản phẩm của quá trình
tiến hoá lâu dài của lịch sử lại vừa là chủ thể sang tạo ra lịch sử Lê-nin cũng đã
khẳng định” Lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là người công
nhân,người lao động”. Thấy rõ vai trò to lớn đó,trong mấy thập niên gần đây vấn
đề nghiên cứu con người được đặc biệt coi trọng ở hầu hết các ngành khoa học,
bởi chính nguồn lực con người chứ không phải là bất cứ nguồn lực nào khác là
động lực quyết định thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang phát triển
như vũ bão, tạo ra những bước ngoặt lớn, một cuộc cách mạng thực sự thay đổi
căn bản thế giới hiện nay.Trong hoàn cảnh ấy, nhất là với tình hình ở nước ta
1



hiện nay, khi chúng ta đang hăm hở, khẩn trương tiên hành đổi mới đất nước mới,
đang nỗ lực thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đem lại
sự tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời đi tắt đón đầu, hoà nhập sâu rộng với
thế giới thì việc nghiên cứu, tìm hiểu về con người trong thời đại mới có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc phát phát huy tối đa nguồn lực con người cho việc
phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Em xin chọn đề tài nghiên cứu “vấn đề con người và nhân cách con người
trong thời kì đổi mới” với góc độ tiếp cận triết học với mong muốn làm sáng tỏ
bản chất của con người trong thời kì đổi mới ở nước ta, thực trạng và giải pháp
cho việc phát triển toàn diện con người trong thời kì đổi mới, không những phục
vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới đất nước mà còn nâng cao được tầm vóc của
con người Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế.

PHẦN I. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
I. Cơ sở lí luận
Con người là đối tượng nghiên cứu đặc biệt quan trọng của triết học. Các
nền triết học trước mác , từ nền triết học phương Đông đến nền triết hoc Hi Lạp
cổ đại , từ triết học Tây Âu cận đại đến triết học cổ điển Đức , cho dù theo trường
phái duy tâm hay duy vật đều coi con người là đối tượng nghiên cứu đặc biệt
quan trọng. Ta có thể tìm hiểu các quan điểm theo trình tự sau:
1. Quan điểm của triết học phương Đông về con người.
Triết học phương Đông cổ đại là một nền triết học ra đời từ rất sớm, bị chi

2


phối bởi thế giới quan duy tâm mang đậm tính tâm linh thần bí, triết học con
người phuơng Đông tập trung mối quan tâm vào lĩnh vực đời sống tinh thần , tâm
linh, tín ngưỡng (triết học Ấn Độ cổ đại) hay những luân lí , quy tắc chuẩn mực

cho con người và xã hội (triết học Trung Hoa cổ đại) Phật giáo Ấn Độ cho rằng
con người là sự kết hợp giữa danh và sắc , cuộc sống con ngưòi trên trần thế chỉ
là ảo giác hư vô. Mọi biến đổi trong cuộc đổi trong cuộc đời mỗi con người đều là
hệ quả của “kiếp trước”, hễ chúng sinh nào chưa giác ngộ thì phải luân hồi mãi
mãi trong bể khổ sống chết. Cuộc sống vĩnh cửu của con người là ở cõi Niết Bàn,
nơi tinh thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt, do vậy cần làm
nhiều điều thiện, giữ tính thiện trong nhân cách để khi chết đi sớm được siêu sinh
về nơi cực lạc.
Còn trong triết học Trung Hoa , con người đựoc lí giải và được đặt vào một
vị trí khá khiêm tốn, họ cho rằng trời là tổ của người,(trời ở đây được hiểu là một
đấng chúa tể của vũ trụ , xếp đặt mọi việc hay cũng có thể là quy luật trật tự vốn
có và không thể thay đổi được của vũ trụ) trời và người có quan hệ mật thiết với
nhau (thuyết nhân thiên cảm ứng), trời luôn đại diện cho cái mẫu mực , uy
nghiêm cái chân lí, do vậy con người cần phải lấy phép trời làm mẫu mực , coi
thiên đạo là nhân đạo , số phận con người đã được trời định trước được gọi là
“thiên mệnh” mọi biến cố trong đời đều do “thiên mệnh, vị trí của con người chỉ
được coi như như một hạt cát trong đại dương , , đời người dù có được trăm năm
thì so với vô cùng cũng không có ý nghĩa gì cả”. Đi cùng với những quan niệm ấy
là một hệ thống những chuẩn mực, sắp xếp về một trật tự xã hội, các Nho gia cho
rằng con người nên sống với một trật tự xã hội mà họ đã định sẵn ,xã hội nên lấy
chữ Nhân để cai trị . Đây là một tư tưởng tiến bộ , tốt đẹp của các Nho gia, nó
cũng tương tự như tính thiện trong Phật giáo, tuy vậy nó đã rơi vào sự duy tâm
cải lương . Con người bị kìm chặt trong những gì được gọi là tôn ti trật tự, không
dám đấu tranh bởi đó là thiên mệnh. Cả Phật giáo và Nho giáo đều để lại những
3


giá trị tích cực về việc giáo dục và tu dưỡng phẩm chất đạo đức , nhân cách con
người , tuy vậy với những hạn chế không thể khắc phục như trên thì chúng không
thể trở thành những học thuyết cải tạo đuợc xã hội , thực tế lịch sử cũng đã chứng

minh như vậy.
2. Quan điểm của triết học phương Tây về con người.
Con người cũng là chủ đề và mối quan tâm hàng đầu của các triết gia
phương Tây. Nhưng khác với nền triết học đậm tính tâm linh huyền bí và có phần
phát triển trì trệ kể từ sau thời kì cổ đại của triết học phương Đông, triết học con
người phương Tây mang màu sắc phong phú không chỉ do sự phát triển của các
học thuyết triết học qua từng thời kì lịch sử mà còn ở sự đối lập gay gắt giữa các
quan điểm triết học ngay trong từng thời kì. Ngay từ nền triết học được coi là
khởi đầu cho triết học phương Tây, triết học Hi Lạp cổ đại chúng ta đã thấy điều
đó. Phần lớn các triết gia thời kì này đều nhận thấy và đề cao vai trò của con
người trong thế giới , vũ trụ , quan hệ giữa con người với thế giới trở thành trung
tâm của các học thuyết ,quan niệm triết học.Chẳng hạn Pitago quan niệm rằng “
con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hoá”,. Tuy vậy thì cách lí giải về con
người thì lại hoàn toàn khác biệt, nổi lên đó là sự đối lập gay gắt giữa chủ nghĩa
duy vật mộc mạc thời kì sơ khai và chủ nghĩa duy tâm khách quan . Nếu như
Đêmocrit , đại diện xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cho rằng cả thể xác và linh
hồn con người đều được cấu tạo từ những phân tử và khoảng không, linh hồn
được coi là một dạng phân tử đặc biệt, linh động hơn những phân tử khác và linh
hồn con người cũng chết cùng thể xác thì Platôn , triết gia tiêu biểu cho trường
phái duy tâm lại cho rằng linh hồn là cái vĩnh hằng, cái bất diệt , thể xác chỉ là nơi
trú ngụ tạm thời của linh hồn Giữa thể xác và linh hồn có một sự đối lập, thể xác
được cấu tạo từ lửa, nước, không khí, đất, còn linh hồn là sản phẩm của vũ trụ , số
lượng linh hồn không thay đổi bởi chúng đã được tạo ra từ thượng đế. Vấn đề
nhân cách đạo đức cũng được hai đại diện này xem xét, Đêmôcrit cho rằng trong
4


mỗi con người có một phần bản chất thiên thần và con người nên làm nhiều hơn
là nói, trong khi Platon cho rằng chỉ có những nhà thông thái , tầng lớp quý tộc
mới có nhân cách và là đỉnh cao của trí tuệ. Những quan điển về nhân cách ấy tuy

có đôi chút tiến bộ song vẫn mang nặng tính giai cấp, không lí giải được sự tác
động của đời sống xã hội và phẩm chất riêng có của từng cá nhân đến sự hình
thành nhân cách. Còn rất nhiều những triết gia, học trò hay những người theo
trường phái duy vật mộc mạc của Đêmôcrit hay duy tâm khách quan của Platôn
đưa ra những học thuyết khác về nguồn gốc con người , về linh hồn và thể xác ,về
nhân cách đạo đức nhưng có thể nói các học thuyết về con người của triết học Hi
Lạp cổ đại tuy đã có những nhận thức đúng đắn về vai trò và vị trí của con người
đối với thế giới , nhưng vẫn mang nặng tính mộc mạc thô sơ, bề ngoài trong cách
lí giải ở trường phái duy vật hay thần bí hoá , duy tâm hoá trong cách lí giải ở
trường phái duy tâm . Nhưng với những tư tưởng phong phú và rộng mở , mang
triết học con người Hi Lạp cổ đại xứng đáng là tiền đề cho các tư tưởng tiến bộ
thời sau.
Khác với sự phong phú trong triết học Hi Lạp cổ đại , nền triết học kinh
việnTây Âu thời kì trung cổ lại thể hiện một sự trì trệ và bảo thủ đến cực đoan ,
có thể coi đây là một bước thụt lùi khá xa so với triết học thời kì cổ đại , bởi
những giá trị tiến bộ bị chôn vùi trong khi những tư tưởng sai lầm lại được khai
thác triệt để phục vụ cho giáo lí nhà thờ. Nền triết học thấm nhuần tinh thần duy
tâm chủ nghĩa , coi khinh mọi tri thức phương pháp quan sát thực nghiệm chính
bởi vậy mà vấn đề con người và nhân cách dường như bị lãng quên . Con người
trong thời kì này dường như quá nhỏ bé trước đức Chúa , các triết gia-giáo sĩ thời
kì này quan niệm rằng Chúa sinh ra loài người , mọi số phận , buồn vui , sự may
rủi đều do Chúa sắp đặt , con người trở thành một sinh vật thụ động chỉ biết thờ
phụng Chúa ,nhân cách được đo bằng lòng tôn sùng Chúa , con người bằng lòng
chấp nhận cuộc sống tạm bợ trên trần thế , mong chờ được Chúa cứu rỗi ở thế
5


giới bên kia. Có thể nói đây là những tư tưởng thực sự kìm hãm sự phát triển của
con người, trở thành bước cản cho sự vận động và phát triển của xã hội cũng như
nền triết học Tây Âu. Phải đến thời kì Phục hưng và cận đại thì triết học mới thực

sự trở lại vị trí mà nó vốn phải có, với cái nền thực sự vững chắc là triết học Hi
Lạp cổ đại , triết học thời kì này đã kế thừa và phát triển hầu hết những giá trị mà
thời kì cổ đại đã sáng tạo ra, theo lẽ đó con người lại được đặt trở lại vị trí trung
tâm, không chỉ trong triết học mà còn trong thơ ca, hội hoạ. Thời kì này, những
phát minh khoa học về cơ học, về thiên văn học, sinh học đã mở ra một thế giới
quan mới cho con người, vai trò trí tuệ lí tính được đặc biệt coi trọng, con người
dần thoát khỏi những triết lí ru ngủ của nhà thờ dần đi đến nhận thức khả năng
làm chủ của cá nhân.Thời kì này, mối quan hệ giữa con người với thế giới lại trở
thành trung tâm của các quan niệm triết học. Nhờ làm chủ khoa học, con người
nhận ra thế giới là thế giới vật chất . Đặc biệt từ sau những phát minh trong ngành
sinh học, con người dần nhận ra nguồn gốc và đặc tính sinh vật của mình, không
còn con người thần thánh bí ẩn. Tuy vậy khi phát hiện ra điều đó, các triết gia lại
nhanh chóng đồng nhất bản chất sinh học thành bản chất chủ yếu của con người,
giải thích các hành vi của con người bằng các đặc tính sinh học, khiến ranh giới
giữa con người với con vật gần như bị xoá nhoà, không thấy được mặt xã hội
trong mỗi con người. Quan niệm siêu hình này bắt nguồn từ tính chất siêu hình
của khoa học thời kì đó.Tuy nhiên tư tưởng giải phóng con người khỏi những
giáo lí khắc nghiệt của nhà thờ , đưa trả con người lại vị trí trung tâm là một cống
hiến lớn lao của triết học thời kì trung cận đại.
Đến nền triết học cổ điển Đức thì nhận thức triết học về con người đã có
những bước tiến đáng kể, các trường phái duy vật và duy tâm đều đạt đến đỉnh
cao trong triết học của Hêghen (duy tâm) và Phoiơbăc(duy vật). Hêghen với thế
giới quan duy tâm cho rằng con người được sinh ra từ ý niệm bị tha hoá, tuy vậy
với hạt nhân hợp lí là phép biện chứng , ông đã trình bày một cách có quy luật hệ
6


thống về quá trình tư duy của con người , đồng thời khẳng định vai trò chủ thể
của con người đối với lịch sử đồng thời là sản phẩm của lịch sử Phoiơbăc kịch
kiệt phản bác học thuyếtcủa Hêghen, ông là người có thế giới quan duy vật triệt

để, do vậy ông khẳng định nguồn gốc và bản chất tự nhiên của con người, khi đề
cập đến vấn đề thượng đế, ông đã khẳng định không phải Thượng đế tạo ra con
người mà chính con người đã tạo ra Thượng đế của mình.Do vậy ông phủ nhận
mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị thượng đế siêu nhiên, đứng ngoài , sáng
tạo ra con người, chi phối cuộc sống của con người. Tuy vậy Phoiơbăc vẫn mắc
phải hạn chế khi tuyệt đối hoá thuộc tính sinh học, tách con người ra khỏi hoàn
cảnh lịch sử, con người trong triết học Phoiơbăc là con người chung chung, phi
giai cấp. Tất cả những nhược điểm trên sẽ được khắc phục ở triết học Mác-Lênin
3. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về con người và nhân cách con người
a. Đặc điểm và vai trò của con người
 Con người là thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội
Đã có ý kiến cho rằng toàn bộ học thuyết Mác là học thuyết đấu tranh
cho sự giải phóng và phát triển con người. Quả đúng vậy, có thể nói con người là
trung tâm của học thuyết Mác, tất cả những tư tưởng lập luận về thế giới vật chất
hay về xã hội đều với mục đích cao nhất là đặt con người vào đúng vị trí và vai
trò lịch sử của mình. Kế thừa có chọn lọc những tinh hoa trong tìm hiểu nghiên
cứu về con người của các nền triết học thời kì trước, cùng với sự tư duy sáng
tạo , thiên tài, các nhà kinh điển của triết học Mác đã khắc phục được những
nhược điểm trong các học thuyết nói về con người trước đây. Đứng trên lập
trường duy vật triệt để, cùng với phép biện chứng kế thừa từ triết học Hêghen,
triết học Mác xem con người không chỉ là một bộ phận của tự nhiên, không chỉ là
kết quả của sự tiến hoá cao nhất của tự nhiên và của sự phát triển xã hội, mà hơn
thế nữa con người chính là chủ thể tích cực của mọi hoạt động , là chủ thể thực sự
7


của các quá trình xã hội và là chủ thể sáng tạo duy nhất. Ở triết học Mác , con
người hiện lên đầy đủ với cả hai mặt sinh học và mặt xã hội cùng thống nhất và
có sự tác động qua lại , con người trước hết phải là một “ thực thể tự nhiên”, là
con người sinh học với tư cách là một bộ phận của giới tự nhiên, được sinh ra và

là kết quả cao nhất của quá trình tiến hoá tự nhiên , do vậy nó gắn bó chặt chẽ với
tự nhiên và chịu sự quy định của những quy luật của tự nhiên. Nói như Mác “ tự
nhiên là thân thể vô cơ của con người”, quan điểm đó bác bỏ hoàn toàn luận điểm
của chủ nghĩa duy tâm khi thần thánh hóa nguồn gốc của con người. Coi trọng
mặt sinh học của con người, coi nó như một tính tất yếu trong quá trình phát triển
loài người, nhưng Mac không quá tuyệt đối hoá mặt sinh học như chủ nghĩa duy
vật siêu hình. Chủ nghĩa Mác kịch liệt phê phán tư tưởng cho rằng cái giá trị nhất
ở con người là cái sinh vật , bản chất con người là bản chất sinh vật, còn những
thứ như tư tưởng tình cảm , ước mơ hoài bão …chỉ là thứ trừu tượng, mơ hồ,
không có ý nghĩa hiện sinh, bởi những tư tưởng như vậy sẽ đẩy tới việc giải quyết
vấn đề con người chỉ là sự thoả mãn về nhu cầu vật chất, bản chất của con người
đến gần với bản chất con vật, không thấy được vị trí chủ thể của con người đối
với thế giới. Con người sống, trước hết phải thoả mãn những nhu cầu về ăn ở, đi
lại, các điều kiện sinh hoạt diễn ra hàng ngày và phải đấu tranh để sinh tồn như
mọi động vật khác nhưng đó không phải là tất cả những điều làm nên bản chất,
nhân cách con người.C ái để phân biệt con người với con vật phải là ý thức, phải
là cái xã hội trong mỗi con người . Trước Mác, các nhà triết học cũng đã phân
biệt con người với con vật dưới nhiều góc độ có sức thuyết phục , Phranhklin cho
rằng con người khác con vật ở chỗ biết sử dụng công cụ lao động , Arixtot đã gọi
con người là một động vật có tính xã hội, Pascal nhấn mạnh đặc điểm và sức
mạnh của con người là con người biết suy nghĩ, các quan niệm trên đều đúng
nhưng chưa đủ vì chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của
con người chỉ đến khi có quan niệm của Mác, bản chất con người mới được
8


phản ánh đầy đủ và toàn diện, Mác nói “ có thể phân biệt con người với súc vật
bằng ý thức, tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì. Bản thân con người bắt đầu
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình , như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất

của mình”. Con người trong quan niệm của chủ nghĩa Mác được nhấn mạnh đến
tính xã hội, đến vai trò lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên, “con vật chỉ tái sản
xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ xã hội”. Có nhiều ý
kiến cho rằng xã hội cũng xuất hiện ở các loài vật bởi chúng cũng có cuộc sống
bầy đàn tinh vi phức tạp, nhưng cần phải hiểu con vật thì chỉ hành động theo bản
năng, theo nhu cầu của riêng chúng, đảm bảo sự sinh tồn cho giống nòi, nó khác
xa xã hội con người bởi xã hội con người không chỉ là môi trường tồn tại của
từng thành viên, mà hơn thế nữa nó còn được liên tục phát triển bởi tác động của
từng cá nhân vào chính nó một cách có ý thức, như Mác nói “ xã hội sản xuất ra
con người với tính cách như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội với tính cách
như thế ấy”. Có thể nói , chỉ khi tồn tại trong xã hội, con người mới thể hiện bản
chất của mình, bởi con người cần đến xã hội ban đầu là do nhu cầu sản xuất vật
chất, nhưng trong quá trình sản xuất ấy con người sáng tạo ra đời sống tinh thần,
ngôn ngữ, tư duy và nhân cách thông qua giao tiếp với các thành viên khác , nói
cách khác con người hình thành bản chất người trong qúa trình giao tiếp với xã
hội , nếu không có quá trình này , con người không thể trở thành một con người
xã hội. Ngay cả bản chất sinh học của con người cũng không phải tồn tại bên
cạnh bản chất xã hội mà hoà vào quyện vào và tồn tại bên trong yếu tố xã hội.
Việc ăn ngủ, sinh hoạt hàng ngày của con người không đơn thuần chỉ là những
nhu cầu sinh học không hề bị ảnh hưởng, mà trái lại, nó thường xuyên bị tác động
từ yếu tố xã hội của con người đó như công việc hay các mối quan hệ. Do vậy có
thể nói yếu tố xã hội là thứ chi phối hàng đầu bản chất của một con người. Trước
Mác, triết gia duy vật xuất sắc của nền triết học cổ điển Đức Phoiơbăc cũng đã đề
9


cập đến bản chất xã hội của con người tuy vậy con người trong triết học của
Phoiơbăc bị tách rời hoàn toàn yếu tố xã hội, là con người chung chung, phi giai
cấp , không chỉ ra được quá trình phát triển liên tục của xã hội và con người, đánh
mất đi vai trò sang tạo to lớn đối với lịch sử cuả nhân loại. Thấy rõ hạn chế đó,

triết học Mác đã đưa con người vào trong chính hiện thực xã hội, vào trong chính
thực tiễn cuộc sống, kinh nghiệm của họ để tìm hiểu bản chất của con người, do
đó con người trong chủ nghĩa Mác là con người của hiện thực , của lịch sử cụ thể,
tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng, lịch sử. Trong bức thư gửi
Ăngghen phê phán quan niệm siêu giai cấp của Phoiơbăc về con người, Mác đã
viết “ Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt . Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan
hệ xã hội”. Với câu nói bất hủ này, Mác đã đưa bản chất con người trở lại đúng vị
trí lịch sử vốn có của nó, đồng thời khẳng định bản chất con người không phải là
tổng số đơn giản các mối quan hệ, mà là “tổng hoà” các mối quan hệ xã hội , điều
đó có nghĩa bản chất con người được hình thành từ muôn vàn các mối quan hệ
đan xen, phức tạp, do vậy bản chất con người cũng là một phạm trù thực sự phức
tạp.
 Vai trò chủ thể của con người đối với lịc sử
Khi khẳng định con người với tư cách là một thực thể tự nhiên đặc thù, tồn
tại trong mối liên hệ và tác động qua lại khăng khít với các vật thể tự nhiên khác,
chủ nghĩa Mác cũng đồng thời khẳng định sức mạnh và khát vọng chinh phục là
đặc trưng tích cực về mặt tự nhiên của con người. Ăngghen khẳng định nhờ có
lao động mà con người từ vượn có thể tiến hoá được thành người, nhưng có thể
chính khát vọng chinh phục thế giới đã đưa con người trở thành chủ thể sáng tạo
không ngừng của thế giới. Con người vẫn là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu
dài của tự nhiên, lịch sử song quan trọng hơn tất cả, con người lại luôn luôn là
chủ thể của chính lịch sử - xã hội, Ăngghen nói “Thú vật cũng có một lịch sử
10


phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử
ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc
làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng ta không thể biết và không phải do
ý muốn của chúng. Ngược lại, con người ngày càng cách xa con vật, hiểu theo

nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của
mình một cách có ý thức bấy nhiêu”, Lenin cũng khẳng định “Lực lượng sản
xuất hàng đầu của thế giới là người công nhân, người lao động”. Như vậy, với tư
cách là một thực thể xã hội có ý thức, con người lao động tác động vaò thế giới tự
nhiên , cải biến thế giới tự nhiên, điều này khác con vật ở chỗ con vật chỉ dựa vào
những điều kiện những điều kiện có sẵn của tự nhiên, phụ thuộc hoàn toàn vào tự
nhiên để sinh tồn trong khi con người thông qua hoạt động phong phú của mình
làm chuyển biến thế giới tự nhiên, sinh động thế gới tự nhiên , bắt tự nhiên phục
vụ lợi ích của mình , tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Với
một bộ óc thông minh cùng khát khao chinh phục,con người từng bước làm chủ
tự nhiên , thông qua đó thúc đẩy xã hội của mình phát triển. Mác nói “ Toàn bộ
cái gọi là lịch sử thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo con người kinh qua lao
động của con người, sự sinh thành của tự nhiên cho con người”. Trong khi cải
tạo tự nhiên phục vụ lợi ích của mình, con người cũng đồng thời làm ra lịch sử
của chính mình, chúng ta đều biết mỗi cá nhân đều chịu tác động của xã hội, cuả
hoàn cảnh lịch sử, tuy vậy con người không phải là vật bị động đối với những tác
động ấy, trái lại từng cá nhân cũng tác động trở lại lịch sử xã hội, lịch sử xã hội là
lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều
kiện cho sự tồn tai con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ
mặt xã hội, thông qua hoạt động vật chất và tinh thần con người thúc đẩy xã hội
phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.
Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do
đó không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.Tất cả những điều
11


trên thể hiện một cách nhìn mới, cách nhìn biện chứng, khoa học về con người,
tạo nên một bước ngoặt mang tính cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng về con
người. Quan niệm của chủ nghĩa Mac đã xoá tan một cách triệt để lớp màn huyền
ảo , thần bí bấy lâu bao quanh con người, vạch ra bản chất đích thực, đầy sức

thuyết phục về con người .
b. Nhân cách và vai trò của nó trong đời sống con người
Nhân cách là một phần quan trọng trong mỗi cá nhân con người. Nó là bộ
mặt tâm lí , tổ hợp thái độ riêng, thuộc tính riêng biểu hiện bản sắc và giá trị xã
hội của cá nhân với tư cách là chủ thể của hoạt động, giao tiếp. Người ta sinh ra là
người nhưng nhân cách chỉ hình thành trong hoạt động giao tiếp, về thực chất, đó
là quá trình xã hội hoá cá nhân, tiếp thụ các giá trị văn hoá của gia đình, cộng
đồng, xã hội. Nhân cách có tính chất xã hội , đồng thời cũng mang tính cá biệt,
với những kinh nghiệm , nếp suy nghĩ tình cảm, hoài bão, niềm tin, định hướng
giá trị, tính cách riêng, tạo ra tính đa dạng của các cá nhân. Nhân cách biểu hiện
cái tôi của mỗi cá nhân. Mỗi hành vi của cá nhân đều in dấu ấn của nhân cách,
bởi suy nghĩ có ảnh hưởng trực tiếp đến hành động, một nhân cách tốt sẽ có
những hành động phù hợp giữa lợi ích cá nhân và cộng đồng, trái lại một nhân
cách xấu sẽ dẫn đến những hành vi đi ngược lại lợi ích và sự phát triển chung.
Với vai trò quan trọng như vậy, nhân cách đã rất được các triết gia từ cổ chí kim
chú ý. Triết học Mác khẳng định nhân cách không phải do bấm sinh mà có, nó
được hình thành và phát triển dựa vào các yếu tố sinh học, tư chất di truyền học,
sự tác động qua lại biện chứng của gia đình, nhà trường, xã hội và thế giới quan
cá nhân. Nhân cách là thế giới quan bên trong của từng cá nhân, tuy vậy nó cũng
mang tính lịch sử bởi thế giới quan của cá nhân cũng bị ảnh hưởng của tính chất
thời đại như vị trí lợi ích của cá nhân trong xã hội , khả năng thẩm định đạo đứcnhân văn và kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Một xã hội tiến bộ chỉ có thể được xây
12


dựng bởi những con người có nhân cách tích cực và ngược lại, chỉ khi có một xã
hội tiến bộ thì những cá nhân mới có cơ hội bồi dưỡng và phát huy hết nhân cách
theo hướng tích cực, nâng cao vai trò chủ thể sáng tạo đối với tự nhiên và xã hội.
Do vậy trong sự nghiệp phát triển con người không thể xem nhẹ cả việc phát triển
xã hội lẫn giáo dục nhân cách.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN

 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
vấn đề con người và nhân cách con người
Thấm nhuần những tư tưởng cách mạng về con người của chủ nghĩa MacLênin, đồng thời cũng xuất phát từ truyền thống lấy dân làm gốc của dân tộc ta,
Đảng cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định và nhất
quán với quan điểm con người là vốn quý báu và giữ vai trò quyết định trong sự
thành bại của mọi hoạt động, là sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Đặc
biệt ở chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy một sự quan tâm lớn lao của Bác dành
cho con người. Trong tư tưởng của Người, con người luôn chiếm một vị trí chủ
chốt. Nhìn thấy vai trò và sức mạnh to lớn của con người, khi sinh thời Người rất
quan tâm đến chăm lo và bồi dưỡng thế hệ trẻ đặc biệt về tư tưởng đạo đức, kết
quả của sự bồi dưỡng ấy là một thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh anh dũng
kiên cường, quả cảm, chính họ đã làm nên một trong những chiến thắng oanh liệt
nhất trong lịch sử, “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” chiến thắng 30-4.
Người dành sự quan tâm đến con người bằng cả cuộc đời cách mạng của mình,
trong di chúc, Người cũng dặn lại “Đầu tiên là việc đối với con người”. Vậy là
“Khái niệm con người tựa hồ như đã mở ra và khép lại quá trình tư duy và hoạt
động của Hồ Chí Minh. Suốt quá trình ấy, vấn đề giải phóng dân tộc đem lại tự
do, hạnh phúc cho con người và xây dựng rèn luyện con người bao giờ cũng là
mục tiêu của hoạt động yêu nước và cách mạng Hồ Chí Minh”.Cũng nhờ quan
tâm đến lợi ích của nhân dân, đặt nhân dân làm mục tiêu phụng sự hàng đầu,
13


Đảng và Bác đã phát huy được sức mạnh to lớn của con người Việt Nam để
vượt qua muôn vàn khó khăn của những năm tháng bị đô hộ, của những thiếu
thốn và thử thách cam go trong cuộc chiến tranh lâu dài vô cùng khốc liệt đem lại
tự do cho dân tộc, đưa đất nước sang một trang mới , thời kì của hoà bình, độc
lập, tự do và phát triển.
Trong suốt thời kì đổi mới, Đảng ta đã hết sức coi trọng vấn đề con người
và chiến lược con người, đặt con người ở trung tâm của mọi sự phát triển. Đó là

tư tưởng tất cả vì con người, tất cả do con người – tư tưởng xuyên suốt thời kỳ
đổi mới và là một trong những nhân tố quan trọng làm nên thành tựu to lớn của
công cuộc đổi mới. Không lúc nào quên lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, liên
tiếp các kì đại hội từ đại hội VI đến đại hội X, Đảng liên tục đề ra các chủ trương
chính sách lớn cho sự nghiệp phát triển con người, không những phục vụ đắc lực
cho việc phát triển đất nước mà còn nâng cao tầm vóc của người Việt Nam trong
thời đại toàn cầu hiện nay. Tại đại hội VI, Đảng đặt con người vào vị trí trung tâm
của chiến lược kinh tế xã hội , xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Trong văn kiện đại hội lần thứ VII của Đảng có viết: “Đẩy mạnh
hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, coi đó là quốc sách
hàng đầu để phát huy nhân tố con người – động lực trực tiếp của sự phát triển” .
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khoá VII, Đảng ta nhấn mạnh: “Con người là
vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất
của chế độ ta”…Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tại đại hội VIII, Đảng
ta đã đúc kết và khẳng định “ lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, Khẳng định này được cụ thể hoá thành
những quốc sách lớn sao cho phù hợp với quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
Khi công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu, phải giải quyết những nhiệm vụ hết
sức to lớn và phức tạp thì Đảng ta chủ trương bằng mọi giá phải “khơi dậy trong
nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam,
14


quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và công
nghệ”. Tiếp tục một cách nhất quán tư tưởng chiến lược con người của thời kỳ
đổi mới, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: xã hội ta là
xã hội vì con người và coi con người luôn luôn giữ vị trí trung tâm của phát triển
kinh tế, văn hoá và xã hội. Con người, trước hết là tiềm năng và sức mạnh trí tuệ,
tinh thần đạo đức là nhân tố quyết định và là vốn quý nhất của chúng ta trên con
đường xây dựng CNXH. Chính vì vậy đại hội IX chủ trương: chiến lược con

người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Các chủ trương của Đảng trong suốt thời kì qua đã được hiện thực hoá qua
các chính sách cụ thể về y tế, văn hoá , giáo dục …Với những nỗ lực không
ngừng, Đảng ta đã tạo ra một bước tiến dài trong quá trình phát triển con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiến bộ, dân chủ , toàn diện.

PHẦN II. THỰC TRẠNG CON NGƯỜI VÀ NHÂN CÁCH
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI HIỆN
NAY
I. Ưu điểm
So với các dân tộc khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam có nhiều điều kiện
địa lí tự nhiên thuận lợi nhưng cũng chịu nhiều đau thương mất mát do quá trình
đấu tranh với thiên tai, địch hoạ , lịch sử dân tộc Việt Nam là một chuỗi dài các
cuộc kháng chiến giành và giữ độc lập tự do cho dân tộc. Điều kiện hoàn cảnh
như vậy đã tôi luyện cho con người Việt Nam sớm có tinh thần yêu nước nồng
nàn, ý thức đoàn kết dân tộc, bản lĩnh kiên cường trước mọi khó khăn thử thách,
đức tính cần cù chịu thương chịu khó, sáng tạo và dũng cảm . Tinh thần đó đã ăn
sâu vào tiềm thức và trở thành truyền thống quý báu của con người Việt Nam
15


hiện nay. Với cái nền truyền thống vững vàng đó, cùng với sự lãnh đạo tài tình và
sang suốt của Đảng , trong giai đoạn đổi mới hiện nay, con người Việt Nam đã có
những bước phát triển vượt bậc Tình trạng nghèo đói giảm rõ rệt, chỉ còn xấp xỉ
12% theo chuẩn cũ và 20% theo chuẩn mới.Về thể lực và sức khoẻ, chiều cao
trung bình tăng trong lứa tuổi từ 6-17 tăng so với thập kỉ 80 là 4,68cm đối với
nam và 2,24cm đối với nữ. Tuổi thọ trung bình tăng gần 10 tuổi lên mức 71 tuổi.
Về giáo dục, 94% dân số(từ 15 tuổi trở lên) biết chữ, vượt xa tỉ lệ của các nước
đang phát triển cùng điều kiện , 100% trẻ em trong độ tuổi đến trường được đi

học, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, cơ sở vật chất cho giáo dục càng
luôn được đổi mới đáp ứng yêu cầu của xã hội . Về y tế , chính 100% trẻ em được
tiêm chủng, Việt Nam đã thanh toán xong các bệnh bại liệt , ho gà , sởi ở trẻ em ,
đây là một thành tựu to lớn được thế giới đánh giá cao , các cơ sở y tế đã về đến
tận xã đảm bảo công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân , đi cùng là
hiện đại hoá các cơ sở y tế tuyến trên, bắt kịp nền y học tiên tiến của khu vực và
thế giới Nhờ những thành tựu liên tục trong suốt 20 năm đó, chỉ số phát triển con
người của Việt Nam liên tục gia tăng , từ vị trí 120/177 năm 1995 lên 108 năm
2005 , Việt Nam trở thành điểm sáng về phát triển con người. Trong lĩnh vực đời
sống tinh thần , kể từ khi đất nước mở cửa và hội nhập , nhiều trào lưu của các
nền văn hoá bên ngoài, đặc biệt là văn hoá phương Tây du nhập vào nước ta ,
song hành cùng nền văn hoá truyền thống, bởi vậy nền văn hoá hiện tại cởi mở
hơn , hiện đại hơn và gần gũi hơn với các nền văn hoá phương Tây, con người
mới được xã hội bồi đắp thêm những phẩm chất mới , đó là tinh thần sáng tạo,
năng động, khát vọng làm giàu , là tinh thần quyết đoán , là sự tin , sự nhanh nhạy
trước những biến đổi của xã hội, nhu cầu hưởng thụ cũng cao hơn và phức tạp
hơn . Con người mới theo mục tiêu xây xựng của Đảng “phát triển cao về trí tuệ ,
cường tráng về thể chất , phong phú về tinh thần , trong sang về đạo đức” dần
được hoàn thiện.
16


II. Nhược điểm
Thành tựu chúng ta đạt được là rất lớn, tuy vậy khi nhìn thẳng vào thực tế
thì vấn đề con người vẫn còn nhiều điều đáng suy nghĩ, bởi so với trình độ phát
triển chung của thế giới, Việt Nam vẫn là một nước đi sau, do vậy trình độ giáo
dục y tế tuy có nhiều tiến bộ song vẫn ở tình trạng lạc hậu, công tác quản lí của
nhà nước có nhiều hạn chế làm cho các chủ trương của Đảng chưa thực sự đi vào
thực tiễn. Nền kinh tế thị trường tạo ra bước nhảy cho kinh tế nhưng cũng khoét
sâu hố ngăn cách giàu nghèo, tình trạng bất bình đẳng là khó tránh khỏi. Dấu vết

cuả nền kinh tế tiểu nông vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến một bộ phận dân cư,
đặc biệt là vùng nông thôn , đó là tư tưởng tiểu nông , cục bộ , bảo thủ trì trệ, làm
ăn tản mạn, thiếu đầu óc tổ chức,thói quen tuỳ tiện bừa bãi,cùng tư tưởng “trọng
nông khinh thương”, bất hợp tác đã bám rễ sâu vào trong đời sống nhân dân, điều
này đã và đang trở thành một bước cản lớn đối với quá trình đổi mới của nước ta
bởi 70% dân số sống ở nông thôn .Các tư tưởng này còn len lỏi vào đời sống dân
cư thành thị, làm bộ mặt đời sống đô thị méo mó, mất đi sự thanh lịch bởi sự
thiếu ý thức , không tôn trọng các luật lệ chung.Chúng ta đã gia nhập hầu hết các
sân chơi chung của thế giới, do đó những tư tưởng của một nền sản xuất nhỏ lẻ
sẽ trở thành một bước cản vô hình cho quá trình tiến lên sản xuất lớn, kinh doanh
lớn đòi hỏi sự tôn trọng và hiểu biết, khả năng nhạy bén, tinh thần hợp tác ... .
Nền kinh tế thị trường phát triển mới 20 năm nhưng đã chi phối đời sống vật chất
và tinh thần của các tầng lớp dân cư, đặc biệt ở khu vực đô thị. Các nền văn hoá
phương Tây du nhập làm văn hoá truyền thống bị mờ nhạt, các giá trị đạo đức,
truyền thống đấu tranh của dân tộc bị lu mờ trước lối sống gấp gáp ,vô tâm,thờ ơ
ham hưởng thụ đến từ bên ngoài. Thêm vào đó, tư tưởng đồng tiền đang chi phối
cả cuộc sống trong gia đình và ngoài xã hội, vì đồng tiền mà các quan chức nhà
nước sẵn sàng tham nhũng của dân, làm xói mòn lòng tin của dân vào Đảng , vì
đồng tiền mà các quan hệ thân thiết gần gũi như anh em , vợ chồng, bạn bè…sẵn
17


sàng bị đổ vỡ nhanh chóng.Sự biến đổi to lớn, sâu sắc của đời sống kinh tế đã tác
động mạnh mẽ đến nhận thức và hành động của con người Việt Nam , đến lí
tưởng và đạo đức của họ, các chuẩn mực đạo đức dần thay đổi, theo một cuộc
điều tra xã hội học, con người Việt Nam từ chỗ coi trọng các giá trị chính trị -xã
hội chung sang coi trọng các giá trị vật chất , từ chỗ lấy con người xã hội tập thể
làm mẫu mực chuyển sang chỗ quá nặng nề về con người cá nhân, thậm chí cá
nhân chủ nghĩa.Từ chỗ coi đức làm gốc trong quan hệ nhân cách chuyển sang coi
nhẹ đạo đức. Thanh niên ngày nay năng động song lại không có lí tưởng vững

vàng, cao đẹp như thế hệ cha anh, tinh thần cách mạng dần bị lãng quên trong
giới trẻ, họ chưa ý thức được trách nhiệm xây dựng đất nước của mình để xứng
đáng với máu xương mà lớp lớp cha anh đã ngã xuống vì tự do cho dân tộc, tinh
thần dân tộc nhường chỗ cho tư tưởng cá nhân, lí tưởng xã hội chủ nghĩa mà
Đảng ta đang xây đắp gần như bị bỏ ngỏ, kết quả là sự chảy máu chất xám ra bên
ngoài luôn ở trong tình trạng đáng báo động bởi họ đã chọn nơi tốt hơn để cống
hiến, đất nước mất đi “tài nguyên” vô giá.Thanh niên ngày nay, họ tự tin với thế
hệ đi trước rằng mình là những con người của thời đại mới luôn nhanh nhạy và
năng động nhưng khi đứng trước bạn bè quốc tế, họ lại thể hiện “một sự tự ti vĩ
đại” họ thiếu niềm tin vào sự trỗi dậy của dân tộc, thậm chí còn có một bộ phận
thanh niên sa vào các tệ nạn xã hội , làm thoái hoá nghiêm trọng cả thể chất và
tinh thần, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Dân tộc ta có truyền thống
hiếu học nhưng nền giáo dục phong kiến đang để lại những “di chứng” nặng nề
cho thế hệ thanh niên ngày nay nay, đó là việc học mang nặng tính lí thuyết, xa
rời thực tế, là tư tưởng bằng cấp, khiến thanh niên rơi vào tình trạng học tủ, học
để có bằng mà không có tinh thần sáng tạo vươn lên ,thụ động chấp nhận cuộc
sống hưởng thụ an phận, ngại va chạm thử thách. Điều này trở nên đặc biệt nguy
hiểm bởi thanh niên chính là những người chủ tương lai của đất nứơc , quyết định
vận mệnh dân tộc, nếu không có một lí tưởng cộng sản vững vàng , một thể chất,
18


tinh thần và trí tuệ khoẻ mạnh thì sự nghiệp phát triển đất nước đi lên con đường
xã hội chủ nghĩa khó thành hiện thực.

III. Nguyên nhân của những hạn chế
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, có thể kể đến các
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nền kinh tế nước ta tuy có những bước phát triển trong vài
năm gần đây nhưng vẫn đang là một trong những nền kinh tế kém phát triển, đại

bộ phận dân cư còn nghèo trong khi nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự cạnh tranh
khốc liệt, do đó mối lo kinh tế làm con người bất chấp thủ đoạn gây ra những tiêu
cực trong xã hội và sự đi xuống của nhân cách.Bên cạnh đó, người lao động chưa
thực sự được gắn với tư liệu sản xuất làm cho tinh thần lao động cùng ý thức
tránh nhiệm chưa cao, nó làm giảm đi không những năng suất lao động mà còn
mai một cả phẩm chất cần cù chăm chỉ vốn có của nhân dân ta.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường thay thế nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp trước đây đã làm cho nền kinh tế phát triển sôi động, đất nước mở cửa hội
nhập và sự du nhập các nền văn hoá ngoại lai là điều khó tránh khỏi ,bên cạnh
những tích cực,có cả những mặt tiêu cực. Những mặt tiêu cực ấy bằng hình thức
này hay hình thức khác, chúng xâm nhập và tuyên truyền cho lối sống thực dụng
tư sản, chúng trực tiếp gặm nhấm ăn mòn những nguyên tắc đạo đức xã hội chủ
nghĩa, giá trị truyền thống của dân tộc , làm tha hoá con người.
Thứ ba, do công tác tuyên truyền giáo dục của Đảng còn có nhiều hạn chế,
và đi theo lối mòn, thời đại ngày nay khác hẳn so với thời đại kháng chiến 30 năm
trước, do vậy những phương pháp tuyên truyền không còn phù hợp với giới trẻ
giàu sự năng động, luôn khát khao những điều mới lạ. Đã có những lúc chúng ta
quá chú trọng đến vấn đề phát triển kinh tế mà sao nhãng vấn đề giáo dục tư
tưởng đạo đức, lí tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ, hậu quả là thế hệ trẻ ngày nay
thiếu hẳn một bầu nhiệt huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với con đường
19


đi lên của dân tộc.
Thứ tư , chúng ta bước ra từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu để hoà mình
vào sân chơi chung của thế giới, do đó những lề thói làm ăn , tư tưởng nông
nghiệp lạc hậu cũ kĩ len lỏi vào trong đời sống xã hội là điều không thể tránh khỏi
.
Thứ năm, đó là do ý thức của mỗi cá nhân trong xã hội, có thể nói người
Việt Nam rất anh dũng quả cảm khi đất nước có biến nhưng khi thời bình lại rất

an phận không dám đấu tranh với cái xấu của xã hội cũng như của chính bản thân
mình, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi đất nước mới phát triển chưa được bao
nhiêu đã vội tự mãn với những thành quả đạt được, không trau dồi cố gắng.
Đó là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới những mặt chưa tốt của con
người Việt Nam hiện nay

PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP
Đứng trước tình hình đó, chúng ta cần phải có những biện pháp thực sự
quyết liệt và hiệu quả, có thể nêu ra một số biện pháp sau:
Thứ nhất, cần đẩy mạnh và đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế, đi đôi
với thực hiện các công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Trong sản
xuất cần lấy người lao động làm trung tâm, gắn người lao động với tư liệu sản
xuất, phát huy tinh thần dân chủ, sáng kiến của người lao động, qua đó rèn rũa
cho người lao động phẩm chất của giai cấp công nhân và của con người Việt Nam
hiện đại, năng động sáng tạo, cần cù thông minh, có tinh thần hợp tác và chia sẻ.
20


Thứ hai,cần quán triệt hơn nữa chủ trương của Đảng về con người, tuy vậy
cũng không nên quá xem trọng nhân tố con người mà bỏ qua các nhân tố khác
dẫn đến tình trạng chủ quan duy ý chí như trước đây. Hoàn thiện các điều kiện
cho phát triển nguồn lực con người, từ pháp luật đến các chính sách xã hội, y tế ,
giáo dục, văn hoá, tôn giáo, đảm bảo quyền lợi tự do, công bằng cho mọi công
dân. Trong đó giáo dục cần được coi là quốc sách hàng đầu bởi giáo dục chính là
tiền đề trực tiếp để xây dựng con người Việt Nam với đầy đủ phẩm chất trí tuệ và
nhân cách sống, trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ đắc lực
cho công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi mà khoa
học công nghệ và con người đang trở thành hai nhân tố quyết định. Giáo dục hiện
nay còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết nhưng quan trọng lúc này là cần giáo dục
tư tưởng và đạo đức lối sống con người Việt Nam ngay từ khi còn ngồi trên ghế

nhà trường. Thêm vào đó là đổi mới cách dạy và cách học trong các trường phổ
thông và đại học sao cho phù hợp với sự phát triển chung của thời đại và thế giới,
cần có phương pháp để người học năng động hơn, sáng tạo hơn và kiến thức cũng
cần sát với tình hình thực tại, học phải đi đôi với hành. Có chính sách đào tạo và
thu hút nguồn nhân tài, hạt nhân của sự phát triển trong các lĩnh vực hợp lí, phải
coi “nhân tài là nguyên khí của quốc gia”. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia
đình nhà trường và xã hội để hiệu quả giáo dục đạt cao nhất.
Thứ ba, cần khơi dậy trong giới trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân
tộc,tinh thần cách mạng xã hội chủ nghĩa, không những làm cho họ biết tự hào về
truyền thống cha anh mà còn phải biết tự xấu hổ với cha anh, với bạn bè thế giới
và với chính bản thân mình vì tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của đất nước và quyết
tâm chấn hưng đất nước.Lịch sử đã có một Nhật Bản , Trung Quốc nhờ tinh thần
dân tộc của mình mà vượt mọi khó khăn vươn lên trở thành những con rồng châu
Á, hay ngay trong chính lịch sử của dân tộc ta nhờ có tinh thần yêu nước nồng
nàn mà chúng ta lập nên bao chiến công hiển hách, buộc những đế quốc hùng
21


cường phải nể phục, đó là những lí do khiến chúng ta tin tưởng một khi mỗi con
người Việt Nam đều mang trong mình một tinh thần dân tộc cháy bỏng nồng nàn
thì sẽ có sức mạnh, có quyết tâm hành động vì vinh quang của dân tộc.Chúng ta
nên tận dụng sự xâm nhập của văn hoá phương Tây để tuyên truyền lối sống văn
minh cùng những phẩm chất của họ phù hợp với quá trình hội nhập của dân tộc
ta, làm sao để thế hệ trẻ ngày nay tự tin hội nhập với thế giới nhưng vẫn không
quên mình là ai và mình từ đâu đến. Đi đôi với tuyên truyền là cần đẩy mạnh hơn
nữa công cuộc chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng lãng phí trong bộ máy nhà
nước, tăng cường vai trò giám sát kiểm tra của nhân dân trong mọi hoạt động của
bộ máy nhà nước, thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội, khôi phục lại lòng tin
của quần chúng nhân dân đối với Đảng, đảng viên phải là những người có trình
độ nhận thức chính trị(chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm

của Đảng ta), về nhà nước, pháp luật, gương mẫu tiên phong trong phong trào xây
dựng con người mới “có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung
thực nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng ; có ý
thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái”, có như vậy tuyên truyền mới
không trở thành những lời nói sáo rỗng, thiếu sức thuyết phục và độ tin cậy. Bên
cạnh đó cần đổi mới nội dung cũng như hình thức tuyên truyền sao cho phù hợp
với giới trẻ, tránh tuyên truyền chung chung gây nhàm chán.
Thứ tư, cần đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng cuộc sống văn
hoá ở khu dân cư, đưa các phong trào đi vào thực tế tiến tới từng bước khắc phục
loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu,những tư tưởng không còn phù hợp với
thời đại, những quan hệ bất bình đẳng cùng những lối sống thiếu lành mạnh.Bên
cạnh đó cần chăm lo đời sống văn hoá giải trí tinh thần cho nhân dân, hướng tới
giải trí lành mạnh, có bản sắc truyền thống.
Thứ năm, cần trấn áp có hiệu quả các hành vi phạm tội trong các hoạt
động liên quan đến việc huỷ hoại con người và các giá trị văn hoá truyền thống
22


của dân tộc , đặc biệt là ma tuý và mại dâm. Một khi đã trấn áp hiệu quả các loại
hình tội phạm này thì đời sống của nhân dân, đặc biệt là thanh niên mới trở nên
trong sạch và lành mạnh.Bên cạnh đó cần đề cao cảnh giác trước những chiêu
thức “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ tinh thần đoàn kết
của dân tộc ta, đưa những tư tưởng lệch lạc về dân chủ đầu độc nhân dân, xúi giục
kích động nhân dân chống lại chính quyền chế độ.Có như vậy chúng ta mới có
một môi trường lành mạnh và ổn định để mọi người có điều kiện và cơ hội phát
triển toàn diện và cống hiến cho xã hội.
Những giải pháp trên đây đều là những giải pháp chung,cần phải có thời
gian để từng bước hoàn thiện và tuỳ từng hoàn cảnh mà chúng ta có những giải
pháp cụ thể .Cuối cùng, để sự nghiệp phát triển con người thành công được như
những mục tiêu mà chúng ta đã đề ra đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu không ngừng

của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Với sự quyết tâm đoàn kết nhất trí cao
trong Đảng và trong nhân dân, chắc chắn sự nghiệp con người của Đảng sẽ thắng
lợi.

KẾT LUẬN
Có thể nói vấn đề “con người và nhân cách con người trong thời kì đổi
mới” đã, đang và vẫn sẽ là chủ đề nóng hổi và bức thiết trong thời kì đổi mới-thời
kì hội nhập, thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá của chúng ta, hơn lúc nào hết
chúng ta hiểu rằng chỉ có hiểu đúng đắn bản chất của con người, qua đó xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần,
năng lực mới là chìa khoá của sự phát triển bền vững và đưa sự nghiệp xã hội chủ
nghĩa mà Đảng và chủ tịch Hộ Chí Minh dày công xây đắp đến bến bờ thành
công.Khi nghiên cứu tìm hiểu vấn đề, bản thân em cảm thấy hiểu sâu sắc hơn về
bản chất và nhân cách con người Việt Nam trong thời đại mới, cũng như quan
23


điểm tư tưởng cùng những chủ trương, đường lối của Đảng ta về phát triển con
người. Không chủ riêng em mà cả xã hội rất đồng tình và tin tưởng vào con
đường phát triển con người của Đảng, cả xã hội đang dành một sự quan tâm rất
lớn đến vấn đề con người, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những cuộc tranh luận
trên báo chí hay hội nghị hội thảo ở bất cứ đâu bàn về con đường phát triển con
người Việt Nam. Ý thức được trách nhiệm của một công dân và của một sinh viên
với vấn đề này, em thấy mình cần trau dồi thêm kiến thức, hoàn thiện hơn nữa
phẩm chất và nhân cách của một con người trong thời đại mới theo những mục
tiêu mà Đảng đề ra để sau này có thể phục vụ tốt nhất công cuộc phát triển chấn
hưng đất nước, đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới
như Bác Hồ kính yêu hằng mong.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình triết học Mác-Lênin, nhà xuất chính trị quốc gia 2005
2. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà xuất bản chính trị quốc gia
2006
3. Vũ Thiện Vương, triết học Mac-Lênin về con người và việc xây dựng
con người Việt Nam trong thời đại công nghiệp hoá- hiện đại hoá, NXB
chính trị quốc gia.
4. Nguyễn Hữu Vui, lịch sử triết học, NXB chính trị quốc gia.
5.Nước Việt Nam nhỏ hay không nhỏ?, NXB Thông tấn, 2006
6. Tạp chí lí luận chính trị, tháng 4/2007
7. Tạp chí nghiên cứu con người, tháng 11/2006
24


8. website www.dangcongsan.vn
9. website www.vnn.vn

25


×