Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng HCM để thực hiện tốt điều này, HCM và đảng cộng sản đã giải quyết trong suốt tiến trình cách mạng việt nam như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.12 KB, 21 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài:

Em hãy tìm hiểu rõ mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức

mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện tốt diều này , Hồ chủ
tịch và Đảng Cộng Sản đã giải quyết trong suốt tiến trình Cách Mạng Việt
Nam như thế nào?


Lời mở đầu

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đồng thời là sự kết tinh tinh
hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Marx-Lenin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, và trong thực tế Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản Việt Nam và của
dân tộc Việt Nam.
Thông qua tư tưởng Hồ Chí Minh , ta không những tìm hiểu được quan điểm của
Người về những vần đề chính trị xã hội mà còn có thể học hỏi và tự hoàn thiện bản
thân để trở thành 1 công dân mẫu mực , có ích cho nước nhà. Tư tưởng Hồ Chí Minh
2


dề cập đến một số vấn đề như: dân tôc, cách mạng giải phóng dân tộc., thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, cuối cùng là các vấn dề nông thôn và nông dân
Trong bài tiểu luận này em xin được trình bày 2 phàn lớn. Thứ nhất là 1 vần dề


được đề cập trong tư tưởng Hồ chí Minh : mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Phần thứ 2 là cách vận dụng mối quan hệ này trong suốt tiens trình lịhj
sử Cách mạng Việt Nam của Bác Hồ và Đảng Cộng Sản
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo –thạc sĩ Lê Thị Hoa đã hướng dần em thực
hiên tiểu luận này.
Trong quá trình thực hiện , khó tránh khỏi những sai sót ngoài ý muốn, em xin
đón nhận mọi ý kiến đóng góp từ các thầy cô trong bộ môn.

3


A. Mối quan hệ sâu sắc giữa sức mạnh thời đại và sức mạnh
dân tọc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
I. Bối cảnh thời đại
Thời đại mà Hồ Chí Minh bước vào vũ đài hoạt động chính trị là thời đại mà
thé giới đang diễn ra những phát triển nhảy vọt về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội
và công nghệ
+ Cuối thé kỷ XĨ đầu thế kỷ XX , chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh đã
chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền , Sự hình thành chủ nghĩ độc quyền và hệ
thống thuộc địa đã làm nảy sinh một mâu thuẫn cơ bản của thời đại : mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa tư bản với các dân tộc thuộc địa. Phong trào cách mạng của các
nước thuộc địa là nét nổi bật của thế giới đầu thế kỷ XX
+ Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi và sự ra đời của nhà nước
công nông đầu tiên làm phá vỡ hệ thống TBCN thế giới , mở đầu thời đại quá độ từ
CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới . Mâu thuẫn cơ bản của thời đại là
mâu thuân giữa CNXH với CNTB . Sự ra đời của nhà nước Xô Viết và xất hiện
của Quốc Tế Cộng Sản đã chuyển hướng cách mạng giải phóng dân tộc theo quỹ
đạo của cách mạng vô sản.
+ Sự phát triển không đều của CNTB làm sâu sắc them mâu thuẫn vốn có giữa
các nước đế quốc với nhau , dẫn đến các cuộc đấu tranh đòi phân chia laị thị

trường thế giới( hai cuộc chiến tranh thế giới) . Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2
làm xuất hiện một loạt các nước XHCN chỗ dựa vững chắc của phong trào giải
phóng dân tộc
+ Mâu thuẫn giữa giai cấp tư bản vói giai cấp công nhân và nhân dân lao động
ở chính quốc và thuộc địa cũng tăng lên.

4


+ Sự phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ làm thay đổi có tính cách
mạng về các lĩnh vực: năng lượng, vật liệu, giao thông vận tải, công nghệ sinh học,
thông tin liên lạc…loài người tiến một bước dài trong việc trinh phục thiên nhiên
Hồ Chí Minh đã nhận thức tất cả những đổi thay to lớn này.

Valentina Tereshkova là nữ Thiếu tướng Không quân - Anh hùng Phi công Vũ trụ, Phó
Tiến sỹ Khoa học - Kỹ thuật, Đại biểu Xô viết tối cao Liên Xô, Phó Chủ tịch Liên đoàn Phụ
nữ dân chủ thế giới. Chị là người đàn bà nổi tiếng nhất Liên Xô, thế kỷ XX.

II. Nhận thức của HCM về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
1, Hồ Chí Minh nhận thức vè sức mạnh dân tộc

5


Theo Người, sức mạnh dân tộc là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
doàn kết, ý chí đấu tranh anh dũng bất khuất cho độc lập tự do , là ý thức tự lực tự
cường của nhân dân ta
Hồ Chí Minh là 1 nhà yêu nước vĩ đại , Người đã rời Tổ quốc mang theo tinh thần
đoàn kết , ý thức và niềm tin vào sức mạnh dân tộc : đó là chủ nghĩa yêu nước ,

tinh than đonà kết , ý thức về độc lập chủ quyền quốc gia.Ngay năm 1941, vừa về
nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam , Bác đã cổ vũ sức mạnh trong nhân
dân ta:
“ Xét trong lịch sử Việt Nam
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hung
Nhiều phen đánh bắc dẹp đông
Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên
Khi kháng chiến chống thực dân Pháp , Người đề cao sức mạnh của lòng yêu
nước “dân ta có một long nồng nàn yêu nước .Đó là truyền thống quý báu của dân
tộc ta.Từ xưa đến nay ,mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi , nó
kết tinh thanh 1 làn song vô cùng mạnh mẽ, to lớn , nó lướt qua mọi sự nguy hiểm
khó khăn , nó nhấn chìm tát cả bè lũ bán nước và cướp nước “ Hồ Chí MInh cũng
đề cao ý thức của khối đại đoàn kết dân tộc để khắc phục dịch họa , thiên tai …Ba
truyền thuyết Thánh Gióng, Trăm trứng, Sơn Tinh Thủy Tinh phản anhsys thức về
chủ quyền dân tộc , chống ngoại xâm chống thiên tai . Đồng thời Người cũng lạc
quan tin tưởng vào sức mạnh dân tộc : “ sự đầu độc có hệ thống của bọn thực dân
không thể làm tê liệt sức sống, tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Đằng
sau sự phục tùng, ng Đông Dương đang giáu 1 cái gì đó sôi sục , và sẽ bùng nổ ghê
gớm khi thời cơ đến .Sức mạnh dan tộc còn gắn với yếu tố địa lý ,chính trị. Bác
nêu 3 yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa, trg đó nhân hòa đóng vai trò quan trọng
và quyết định :”Nước ta ở vào xứ nóng, khí hậu tốt, rừng vàng biển bạc, nhân dân

6


ta dũng cảm và cần kiệm. Các nước anh em lại giúp dỡ nhiều. Thế là ta được có 3
điều kiên thiên thời, địa lợi, nhân hòa
2.Hồ Chí Minh nhận thức về sức mạnh thời đại :
Nhận thức của Người hình thanh từng bước từ cảm tính đến lý tính với mục tiêu
là giải phóng dân tộc , phat triển đất nước trong dòng thác chung của thời đại

Thời đại Bác chứng kiến mở đầu bằng cách mạng tháng Mười Nga –quá độ từ
CNTB len CNXH ,hời đại của phong trào giải phóng dân tộc ,sự sụp đổ của
CNTD, thời đại độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Bác cho rawngf phải thực
hiện khối liên minh chiến đấu giữa vô sản chính quốc với lao động thuộc địa nhằm
một lúc tấn công CNĐQ từ cả 2 phía
Sức mạnh thời đại là sức mạnh của 3 dòng thác cách mạng :cách mạng XHCN,
cách mạng giải phóng dân tộc , phong trào đấu tranh cho hòa bình dân chủ .Say
chiến tranh thế giới thứ 2, sự hình thành và phát triển hệ thống XHCN là nhân tố
làm nên sức mạnh của thời đại .Phát huy sức mạnh thời đại là phải biết huy động
các phong trào cách mang tiên tiến thế giới phục vụ cho sự nghiệp của dân tộc .
Trg luận cương Lenin đã yêu cầu phải làm cho vô sản và quần chúng lao động ở tất
cả các nước gần gũi nhau
Sức mạnh thời đại mà HỒ Chí MInh nhận thức được là sức mạnh của tiến bộ
khoa học công nghệ làm thay đổ có tính cách mạng về các lĩnh vực như năng
lượng , vật liệu , công nghệ sinh học , giao thông vận tải ….loài ngguwowif đã
tiens 1 bước dài trg việc chinh phục thiên nhiên : 50 năm qua thế giới đã có những
chuyển biến lớn , đặc biệt là sức mạnh nguyên tử , nhiều hơn những thế kỷ trước
cộng lại.
Như vậy sưc mạnh thời đại mà Hồ Chí Minh nhìn nhân là sức mạnh cả về
chính trị xã hội , cả về KHCN. Hồ Chí Minh nhìn nhận sức mạnh thwoif đại trong
trạng thái động và biến đổi tương tác giữa các lực lượng trg nước và quốc tế. Hồ
7


Chí Minh nhìn thấy Thái Bình Dương là trung tâm mà đế quốc nhòm ngó , tương
lai là một lò lửa của chiến tranh thế giới. Từ đó Người dề ra khẩu hiệu hành dộng
thích hợp nhằm thay đổi tình huống. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại là kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản

III. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh

dân tộc với sức mạnh thời đại
1, Nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại , đặt cách mạng
Viêt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới
Thời đại mà Hồ Chí MInh hoạt dộng chính trị đã có nhiều thay đổi , nổi bật là 2
sự kiên quan trọng
Một là CNTB từ tự do cạnh tranh bước sang độc quyền phát triển thành hệ
thống và làm uất hiện hệ thống thuộc địa
Hai là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra kỷ nguyên mới , kỷ
nguyên quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới . Thời đại mở ra mối quan hệ
quốc tế giữa các dân tộc làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không tách rời vận
mệnh chung của thế giới. Thời đại mà 1 nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính
cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc . Bởi vậy mà công cuộc
giải phong dân tộc các nước và các dan tộc bị áp bức là bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản . Tất yếu khách quan phải liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các
nước thuộc địa với giai cấp vô sản ở các nước dế quốc để chiến thắng kẻ thù chung
“ Cách mạng An Nam là bộ phận của cách mạng thế giới . Ai làm cách mạng
trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An Nam cả” Tại đại hội Tua 1920 Bác
đã phát biểu:” Hôm nay tôi tới đay góp phần cùng các đồng chí vào cách mạng thế
giới “

8


Nguyễn Ái Quốc tại đại hội Tua năm 1920
Bác chú ý mối quan hệ giữa cách mạng phương Tây và cách mạng phương
đông , Người chỉ ra sự cách biệt của các dân tộc phương đông , do họ thiếu tin cậy
lẫn nhau , thiếu sự phối hợp hành động và cr sự cổ vũ lẫn nhau”. Bác kiến nghị ban
phương Đông của Quốc Tế cộng sản “ làm cho các dân tôc hiểu biết nhau hơn và
đoàn kết lại để dặt cơ sở cho 1 mối liên minh phương đông tương lai , khối liên
minh này chắc chắn sẽ là một trg nhũng cánh của cách mạng vô sản”. Tại đại hội V

Quốc tế cộng sản , Bác cũng đã phê bình gay gắt giai cấp công nhân và đảng cộng
sản tại chính quốc thờ ơ với cách mạng thuộc địa :” Tôi rất buồn vì điều này, giai
cấp tư sản tiến hơn một bước so với giai cấp vô sản . Có thể nói Đảng Cộng Sản
Pháp làm rất ít cho thuộc địa”. Hồ Chí MInh cho rằng nền tảng sức mạnh là ở nhân
dân thuộc địa , chủ nghĩa đế quốc tập trung nọc độc ở thuộc địa , nhân dân thuộc
địa là người thủ tiêu chủ nghĩa thực dân , Hồ Chí mInh đã phát triển và vượt xa so
với Mác, Nhờ nắm bắt đặc điểm và xu thế của thời đại , Nguyễn Ái Quốc đã xác
đinh con đườn cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước , giải phóng dân tộc
theo con đường vô sản.
9


2. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sanr, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Để kêt hợp sức mạnh daan tộc với sức mạnh thời đại , các Đảng Cộng Sản
kiên trì đầu tranh chống mọi khuynh hướng sai lầm làm suy yếu khối đại đoàn kết
để thống nhất các lực lượng cách mạng thế giới ,. Các đảng cộng sản phải giáo dục
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế cộng sản cho ND laao động nước mình ,
làm cho tinh thần yêu nước là 1 bộ phận của tinh thần quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã
kêu gọi : “Vì nền hòa nình thế giới m vì tiwj do và no ấm n những người bị bóc lột
thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”
Sau Cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập , các dân tộc thuộc địa tất
yếu đi theo cách mạng xã hội chủ nghĩa . Hồ Chí Minh viết :” Trong thời đại ngày
nay, cách mạng giải phóng dân tộc là 1 bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản
thế giới , cách mạng giải phóng dân tộc phải trở thành cachsm nagj XHCN thì mới
thành công hoàn toàn được”. Phải biến chủ nghĩa yêu nước truyenf thống thành
chủ nghĩa xã hội , nhờ đó nó mới có them sức mạnh và phát triển tahnhf chue
nghĩa anh hung trong thời đại mới
3. Giữ vững độc lập tự chủ m dựa vào sức mình là chính , tranh thủ sự giúp đỡ của
các nước XHCN , sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đông thời không quên nghĩa vụ

quốc tế cao cả của mình
Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần “ tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là
chính”., “ muốn người ta giúp đỡ cho thì trước hết phải tự giupw sminhf đã”. “ một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được hưởng độc lập”. Vơi stuw tưởng này, khi gửi lời kêu gọi tới an hem
thuộc địa, Bác viết: “ Anh em phải làm thế nào để được giải phóng ? Vận dụng

10


công thức của Mác ,chúng tôi xin nói với an hem rằng , công cuộc giải phóng, an
hem chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”
Muốn tranh thủ sức mạnh thời đại cần phải có 1 đường lối độc lập tự chủ
dung đắn . Kết hợp chặt chẽ mục tiêu đâu tranh cho độc lập dân tộc mình với 4
mục tiêu của thời dại : hòa bình,độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế , tranh thủ sự ủng hộ của
nhân loại tiens bộ m nhân dân ta không quên nghãi vụ quóc tế cao cả . Bác thường
nói “ Phải coi cuộc đâu tranh cảu bạn như cuộc đấu tranh của ta”
4. Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị , hợp tác , sẵn sàng làm bạn với tất cả các
nước dân chủ
Trong quá trinh tìm đường cứu nước , Bác là người đầu tiên đặt nền móng
cho tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thé giới .
Bác nói: “ Chính sách ngoại giao của chính phủ Việt Nam thì chỉ có một điều tức
là thân thiện với tất cả các nước dân chủ treen thế giới để giữ gìn hòa bình “, “ Thái
độ của Việt Nam đối với những nước Á châu là thái độ anh em , đối với ngũ cường
là thái độ bạn bè”. Bác sớm có thưu tưởng đa phương hóa , đa dạng hóa các quan
hệ đoi ngoại “ tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và
văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quóc tế được mở rộng và tăng cường
Đối với Pháp : Hồ Chí Minh nêu:” Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với
nhân dân Pháp. Những người Pháp , tư bản hay công nhân , thương gia hay trí thức

, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan
nghênh họ như những người an hem bầu bạn”
Hồ Chí Minh dành ưu tiên cho quan hệ với các nước láng giềng châu Á:
Trung Quốc , Lào, Campuchia….
Với trí tuệ thiên tài tinh thần quốc tế trong sáng và với đức độ khiêm nhường
và thái độ thiện trí , Hồ Chí Minh vượt qua mọi trở ngại , từ trong mối quan hệ
11


chồng chéo phức tạp cua thời đại đề ra đường lối cách mạng đúng đắn . phương
pháp ững xử sang tạo phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng, phát huy tối đa
sưc mạnh thời đại và sức mạnh dân tộc đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi trọn
vẹn

B Cách vận dụng mối quan hệ giữa sức mạnh xã hội và sức
mạnh thời đại của Bác và Đảng ta trong suốt tiến trình Cách
mạng
I. Tính tất yếu khách quan của sự kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại
Về mặt lý luận cho thấy :
+ Lịch sử phát triển của nhân loại chỉ ra rằng quá trình phát triển của mình, các
cộng đồng, các dân tộc, các nhóm có cùng lợi ích bao giờ cũng có sự kết hợp lại
với nhau. Sự kết hợp này ngày càng tăng,
+ Chủ nghĩa Mác Lenin ra đời đã chỉ rõ cách mạng vô sản ra đời muốn thắng lợi
thì phải tạo ra được sức mạnh của bình hành lực. Tức phải biết kết hợp các yếu tố
khách quan và chủ quan m trong nước và thế giới , dân tộc và thời đại. Chính vì
vậy Mác đã đề xuất vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức hãy đoàn kết
lại. Trong thời đại giải phóng dân tộc , Nguyễn Ái Quốc chủ trương :” Lao động tất
cả các nước đoàn kết lại”


12


+ Các nhà kinh điển Mac Lenin phân tích thời dại cho thấy CNTB nhất là nó ở
trong giai đoạn CNĐQ đã tạo ra những mâu thuẫn và những cơ sở cho sự liên kết
quốc tế
Về mặt thực tiễn :
+ Hồ Chí Minh khảo sát thực tiễn của chế độ thuộc địa của Pháp tại Việt Nam , tại
Đông Dương. Sự thống trị của chính sách tàn bạo của thực dan làm cho nhiều
người nghĩ rằng “ dân Đông Dương chết rồi ”. Nhưng hiểu rõ truyền thống yeu
nước , ý chí đấu tranh giành độc lập không bao giờ mất đi ở nhân dân Việt Nam
mà Hồ Chí Minh có cái nhìn khác hẳn. Người cho rằng ở người dân Đông Dương
tiềm ẩn 1ý chí sục sôi , đang gào thét và sẽ bùng nổ khi thời cơ đến.
+ Trên bình diện thế gưới , Hồ Chí Minh đã thực hiện cuộc khảo sát ở cả 4 châu
lục , Người ra dù có khác nhau màu da thì trên thế giới chỉ tồn tai 2 nhóm nhười:
nhóm bị bóc lột và nhom bóc lột. Vi vậy muốn giải phóng dân tộc mình thì cần
phải đoàn kết các dân tộc khắc lại vì chúng ta cùng chung cảnh ngộ.
+ Nghiên cứu các nước nước dế quốc , Bác nhận thấy chúng liên kết chặt chẽ với
nhau để đàn áp thuộc địa. Chúng thực hiên chính sách “chia để trị”.. Từ đó Hồ Chí
Minh phân tích: Công nhân và lao động ở chính quốc cùng binh lính và lao động ở
thuộc địa cần hiểu rằng :” họ đề là anh em cùng giai cấp và khi tới lúc phải chiến
đấu thì cả 2 hai cùng đánh cho bọn chủ chung của mình, chứ không phải anh hem
đánh lẫn nhau”
+ Sự hình thành hệ thống XHCN thé giới sau chiến tranh TG lần 2 đã thành 1 nhân
tố làm nên sức mạnh của thời đại chi phối sự phát triển xã hội loài người cuối TK
XX
+ Sau chiến ranh thế giới , cuộc cách mạng KHCN phát triển mạnh mẽ. Khoa học
tụ nhiên cũng như khoa học xã hội mở ra những chân trời mới , côn người ngày
càng làm chủ thiên nhien , cũng như làm chủ được vận mệnh của xã hội và bản
thân . Đó là yếu tố sức mạnh thời dại cần tận dụng

13


Từ những lý luận và thực tiễn trên , Hồ Chí mInh đã đi đến kết luận Cách
mang Việt Nam cần phải kết hợp chặt chẽ với cách mạng thế giới – phải thực hiện
kết hợp sức mạnh thời đại và sức mạng dân tộc . Bởi vậy tiến tới cách mạng tháng
8 18945, Hồ Chí MInh đã xác đinh: Không có sức mạng thống nhát của cả nước,
không có sự giúp đỡ mạnh mẽ của nước ngoài , công cuộc giải phóng khó mà
thánh công
Như vậy , kết hợp sức mạnh dân tộc và sức manh thời đại trong tiến trình
Cách Mạng Viêt Nam là 1 tất yếu khách quan
II.

Cách vận dụng mối quan hệ giữa sức mạnh xã hội và sức

mạnh thời đại của Bác và Đảng ta trong suốt tiến trình Cách
mạng
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng thể
để đánh thắng kẻ địch có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn ta gấp
nhiều lần, là bài học lớn, vô cùng quý báu, mà chúng ta rút ra được trong tổng
kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đó cũng chính là một quyết sách vô cùng đúng đắn của Đảng ta khi vạch ra đường
lối quốc tế lúc bấy giờ, góp phần quan trọng dẫn đến thắng lợi hoàn toàn cho công
cuộc giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
Đảng ta đã nhận định, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta mang
tính thời đại sâu sắc và ý nghĩa quốc tế to lớn. Tính chất thời đại thể hiện qua mục tiêu
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta hoàn toàn phù hợp với xu thế chung
của thời đại: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội (CNXH). Do đó,
khi Đảng ta giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, CNXH, chúng ta
đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ từ khắp nơi trên thế giới. Đối thủ của chúng ta là một

đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn nhất thế giới, nhưng cũng là đối thủ
14


của tất cả những ai yêu hoà bình, dân chủ, thiết tha với độc lập dân tộc, với CNXH.
Mỹ xâm lược Việt Nam nhằm ý đồ chiến lược toàn cầu, bao vây, ngăn chặn CNXH và
đánh đòn phủ đầu phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai, mà Việt Nam với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là lá cờ đầu. Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mạng tính thời đại còn vì phong
trào cách mạng thế giới lúc bấy giờ đang khủng hoảng về đường lối cách mạng. Giữa
hai nước đồng minh chiến lược của ta có tranh luận gay gắt ngay về những vấn đề cơ
bản của thời đại, mà cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam thực tế
đang đề cập trực tiếp đến.
Từ tính chất thời đại sâu sắc và ý nghĩa quốc tế to lớn của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta xác định rõ tầm quan trọng to lớn của những nhân tố
bên ngoài đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta và ta có khả
nàng tranh thủ được các nhân tố đó để gia tăng sức mạnh của dân tộc lớn gấp bội.
Không tận dụng được các nhân tố bên ngoài, không vận dụng được sức mạnh của các
lực lương cách mạng và tiến bộ trên thế giới ủng hộ ta thì có thể nói, kháng chiến khó
giành được thắng lợi, hoặc phải đấu tranh rất trầy trật và không thể thắng lợi hoàn
toàn. Tất nhiên, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta giành được thắng lơi
hay không chủ yếu là do quyết tâm của nhân dân ta, do sức mạnh của quân đội ta, của
dân tộc ta, nhưng yếu tố quốc tế cũng quyết định một phần lớn. Đảng ta đã đề ra
đường lối đối ngoại đúng đắn và hết sức sáng tạo, nên đã vận dụng được tối đa các
nhân tố quốc tế, phát huy được sức mạnh thời đại ủng hộ nhân dân ta chống Mỹ thắng
lợi.
Mặc dù bối cảnh thế giới lúc bấy giờ vô cùng phức tạp, Hồ Chủ tịch và Đảng ta
đã sáng suốt phân tích những nhân tố bên ngoài, bình tinh xem xét cách xử lý thích
hợp những nhân tố thuận lợi cũng như những nhân tố khó khăn, phức tạp, để vạch ra
đường lối quốc tế có khả năng tận dụng sức mạnh thời đại. Phương châm trong đường

lối quốc tế của Đảng ta là đoàn kết quốc tế và độc lập tự chủ. Có độc lập tự chủ mới
15


đoàn kết quốc tế được. Nếu không độc lập tự chủ, vững vàng đường lối của ta, quan
điểm của ta thì sẽ thành “nhất biên đảo”, ngả theo phía này, đối lập với phía kia đoàn
kết dược bộ phận này thì lại mất đoàn kết với bộ phận kia, không có được sức mạnh
tổng thể để giúp ta chiến thắng. Bởi vì, trên thế giới lúc đó tồn tại những quan điểm
khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau. Riêng việc đánh giá sức mạnh của đế quốc
Mỹ, đối xử với đế quốc Mỹ xâm lược như thế nào cũng có xung đột về quan điểm, về
cách xử lý: hoặc quá xem thường, hoặc quá đề cao, sợ hãi. Nhưng Đảng ta vẫn giữ
vững quan điểm của mình. Hồ Chủ tịch trong Hội nghị Chính trị đặc biệt ngày 6-11966, đã nêu rõ: “Ta thấy chỗ mạnh của nó, vũ khí nó mới, tiền của nó nhiều. Nhưng
ta cũng thấy những khuyết điểm của nó là khuyết điểm lớn, cơ bản. Bây giờ tất cả đều
chống nó, nhân dân Mỹ cũng chống nó, mà chống mạnh. Bây giờ khác chiến tranh
Triều Tiên. Phong trào phản đối chiến tranh xâm lược ở Mỹ cũng khác trước...”.
Có đường lối đúng lại phải tổ chức tốt để vận dụng, thực hiện đường lối đó một cách
có hiệu quả. Từ trước đến nay, ngoại giao luôn đóng góp vào cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, song lần này, ngoại giao phải gánh vác một nhiệm vụ cực kỳ nặng nề
là làm sao kết hợp được sức mạnh của thời đại với sức mạnh của dân tộc, thành sức
mạnh tổng hợp để đánh thắng địch. Vì vậy, Đảng ta đã quyết định nâng ngoại giao lên
thành nuột mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, ngang tầm với mặt trận quân sự và
chính trị; phối hợp với quân sự và chính trị trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ngoại giao đã hoàn thành được nhiệm vụ đó, đã tranh thủ được các nước ủng hộ ta,
chi viện cho ta về vật chất cũng như tinh thần, tăng cường và củng cố hậu phương
quốc tế của ta, đồng thời làm xói mòn hậu phương địch, cô lập địch về chính trị trên
trường quốc tế. Willlam Duiker, một học giả, chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam, đã
phải tự hỏi: “Làm thế nào mà người Việt Nam chiến thắng bằng cách duy trì một cuộc
tiến công ngoại giao vượt trội hơn hẳn một quốc gia vốn được coi là hùng mạnh nhất
thế giới”. Và, ông ta cho rằng: “Một trong những yếu tố dẫn đến chiến thắng đó là do
các nhà lãnh đạo cộng sản có khả năng thao túng môi trường quốc tế theo hướng có

16


lợi cho họ. Việc họ giành được sự hỗ trợ về ngoại giao và về quân sự đáng kể của cả
Mát-xcơ-va lẫn Bắc Kinh, ngay cả trong những lúc xung đột Trung-Xô gay gắt nhất,
đã góp phần ngắn không cho Hoa Kỳ sử dụng công nghệ vượt trội của mình để giành
thắng lơi hoàn toàn trong chiến tranh ở Đông Dương. Đồng thời việc Hà Nội xử lý
khéo léo vấn đề đàm phán hoà bình đã cô lập Hoa Kỳ trước dư luận và đạt được hậu
thuẫn to lớn trên toàn thế giới đối với phong trào khởi nghĩa ở miền Nam Việt Nam”.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Bác Hồ, hoạt động đối ngoại, đấu tranh
ngoại giao đã phát huy vai trò xung kích, cùng với toàn dân hình thành một mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, chống Mỹ xâm lược rộng lớn chưa từng có trên
phạm vi toàn cầu và được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị,
hình thành thế trận kết hợp vô cùng lợi hại tiến công quân thù. Kết hợp chặt chẽ đấu
tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị là đường lối chiến lược của
Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ, được đúc kết từ kinh nghiệm hàng ngàn đời đấu
tranh dựng nước và giữ nước của cha ông, từ cuộc kháng chiến chứng thực dân Pháp
và nghệ thuật kết hợp đó trong kháng chiến chống Mỹ đã đạt tới trình độ đỉnh cao,
đánh bại từng bước tiến tới đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.
Cuộc đàm phán Pa-ri mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”, phản ánh giai đoạn chiến
đấu cực kỳ gay go, quyết liệt có tính quyết định giữa ta và Mỹ và với đường lối kháng
chiến đúng đắn, kết hợp tài tình trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kết
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường với
cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán và trên trường quốc tế, phát huy cao nhất sức mạnh
tổng hợp của đân tộc và thời đại, chúng ta đã giành thắng lợi trong cuộc đọ trí và lực
quyết định này với quân thù. Chiến thắng của quân và dân ta đánh bại cuộc tập kích
đường không chiến lược của đế quốc Mỹ (l2-1972) vào miền Bắc nước ta là đòn quyết
định buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri, chấp nhận rút quân vô điều kiện khỏi Việt
Nam. Chúng ta đã thực hiện thành công quyết tâm mà Đảng, Bác Hồ đã chỉ ra là
“đánh cho Mỹ cút” vào năm 1973; và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm

17


1975 đã “đánh cho nguỵ nhào”, hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH.

Chiến thắng mùa xuân năm 1975
Tình hình chính trị thế giới ngày nay đã đổi thay so với thời kỳ nhân dân ta
chống Mỹ, cứu nước. Tuy nhiên, bài học quý giá rút ra được từ cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vẫn giữ
nguyên giá trị của nó. Sức mạnh thời đại ngày nay thể hiện qua các xu thế lớn sau:
- Tất cả các nước phát triển hay đang phát triển đều dành ưu tiên cho phát triển
kinh tế, coi kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp
của quốc gia. Vị thế quốc tế của mỗi nước ngày càng tuỳ thuộc vào sức mạnh kinh tế
hơn là sức mạnh quân sự. Các nước đều ý thức được rằng, muốn có điều kiện để giữ
vững an ninh, ổn định thì trước hết tiềm lực kinh tế phải mạnh. Từ đó, lợi ích kinh tế
trở thành động lực chính trong quan hệ đối ngoại cả về song phương và đa phương.
Chính nhu cầu phát triển kinh tế vừa có động lực thúc đẩy các nước cải thiện và phát
triển quan hệ hợp tác, vừa là nhân tố làm gia tăng sự cạnh tranh kinh tế giữa các nước

18


trên thế giới. Trật tự thế giới mới và các tập hợp lực lượng trong trật tự đó sẽ được tạo
dựng không phải do chiến tranh, mà trên cơ sở kinh tế-chính trị là chính.
- Đẩy mạnh đa dạng hoá quan hệ quốc tế trở thành xu thế phổ biến của các quốc
gia. Tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng, đo đời sống kinh tế
đã và đang được quốc tế hoá cao độ. Kinh tế thị trường trở thành phổ biến.
- Xu thế liên kết khu vực và quốc tế về kinh tế ngày càng phát triển và là xu thế
phổ biến, khách quan. Xu thế này mang lại những cơ hội mới cũng như những thách

thức lớn cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển và chậm phát triển.
Trước làn sóng khu vực hoá và toàn cầu hoá, các nước vừa và nhỏ một mặt nâng cao ý
thức độc lập tự chủ, giữ vững bản sắc dân tộc; mặt khác, tìm cách thích ứng với tình
hình mới, tạo thế thuận lợi nhất cho mình để tham gia tích cực và chủ động vào quá
trình phân công lao động quốc tế và quan hệ chính trị quốc tế.
- Xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo trên thế giới. Nguy cơ
chiến tranh thế giới tiếp tục giảm đi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ do
mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa bá
quyền, can thiệp từ bên ngoài, đang làm mất ổn định và tiềm ẩn những hậu quả khôn
lường.
Những năm đầu thế kỷ 21, trên thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá kinh
tế với những tác động sâu sắc tới các lĩnh vực khác của đời sống quốc tế. Trào lưu
nhất thể hoá khu vực và toàn cầu hoá kinh tế không chỉ cuốn hút các nước công
nghiệp phát triển, mà cũng là mối quan tâm của các rước đang phát triển và chậm phát
triển. Các nước đang phát triển và chậm phát triển đứng trước sự lựa chọn hết sức khó
khăn, không hội nhập với khu vực và thế giới sẽ dẫn dện hệ quả tất yếu là bị loại ra
khỏi cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu, với tất cả hậu quả của nói mà hội nhập tức là
chấp nhận cuộc cạnh tranh không cân sức. Tuy nhiên, vì lợi ích phát triển, tuyệt đại đa
số các nước đang phát triển và chậm phát triển đều chấp nhận sự cạnh tranh này.
Thực tế trên thế giới và ở nước ta cho thấy, nếu nắm vững những xu thế mới của thời
19


đại và biết điều chỉnh chính sách phù hợp với xu thế thời đại thì sẽ có thêm thuận lơi
về mặt khách quan; trái lại, nếu đi ngược lại hoặc tự tách mình khỏi xu thế chung,
không coi trọng, tuân thủ những luật lệ nghiêm ngặt của nền kinh tế thế giới, thì sẽ rất
nguy hại cho an ninh và phát triển của dân tộc. Nói cách khác, đây là sự vận dụng bài
học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tình hình mới. Việc Đảng
ta nêu cao ngọn cờ độc lập tự chủ, hoà bình và hợp tác để phát triển là thuận chiều với
xu thế của thời đại, phù hợp với mục tiêu chung của nhân dân thế giới.

Trong tình hình mới, chuẩn mực cao nhất trong vấn đề tập hợp lực lương trên thế giới
không còn chủ yếu trên cơ sở ý thức hệ như trước nửa, mà xuất phát từ lợi ích quốc
gia. Việc tập hợp này diễn ra một cách cơ động, linh hoạt, theo từng thời điểm, từng
vấn đề cụ thể, theo sự trùng hợp lợi ích với từng nước hoặc nhóm nước, không phân
biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau, không câu nề đối tượng. Kết bạn với tất cả đối
tượng có khả năng hợp tác cùng có lợi.
Những xu thế trên tác động qua lại lẫn nhau tạo nên động lực cộng hưởng làm
thay đổi sâu sắc nền chính trị và kinh tế thế giới. Một quốc gia biết lợi dụng những xu
thế dó sẽ tạo thêm được sức mạnh và vị thế quốc tế cho mình, nếu tự tách mình ra
hoặc đi ngược lại những xu thế đó thì sẽ gây nguy hiểm cho tiền đồ dân tộc mình.
Thực tiễn đời sống chính trị quốc tế cho thấy, yếu tố chính trị và yếu tố kinh tế đối
ngoại có tác động qua lại lẫn nhau mật thiết. Công tác chính trị đối ngoại có hiệu quả
sẽ tạo môi trường chính trị thuận lợi cho việc mở rộng kinh tế đối ngoại. Đồng thời,
kinh tế đối ngoại phát triển sẽ tác động trở lại, tạo thế và lực mới cho đất nước. Với
từng khu vực, từng đối tượng, yếu tố này hoặc yếu tố kia nổi trội lên hơn, song yếu tố
kinh tế ngày càng quan trọng trong quan hệ của nước ta với các nước lớn và các nước
trong khu vực.
Những năm đổi mới vừa qua, với chính sách đối ngoại thể hiện tính khoa học và
cách mạng, nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, vị thế và uy tín
quốc tế của Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới. Ta đã tạo được sự chuyển
20


biến căn bản trong quan hệ đối ngoại, phù hợp với lợi ích an ninh và phát triển đất
nước. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy, thế của ta chưa thật vững chắc và lực của ta nói
chung còn yếu. Nước ta vẫn là một nước đang phát triển, trình độ phát triển kinh tế,
khoa học, kỹ thuật còn thấp, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại và diễn biến
phức tạp, không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Để biến những vấn đề có tính nguyên lý trên đây thành hiện thực, để có thể kết
hợp sức mạnh thời đại với sức mạnh dân tộc, thành sức mạnh tổng thể có lợi cho sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vấn đề đầu tiên là sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải được tăng trưởng không ngừng. Phải làm sao
chuyển nhanh thành hiện thực những khẩu hiệu chống tệ nạn tham thũng, tham ô lãng
phí, chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống hằng ngày. Sức mạnh dân tộc chính
là tổng hợp các nhân tố kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại giao và ý chí. Nói cách khác
là chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước luôn phù hợp với lòng dân

21



×