Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Hình ảnh HCM là sự khôn ngoan của đức phật, lòng nhân từ của chúa, tinh thần nhiệt tình cách mạng của lênin, sự ung dung của 1 người chủ gia tộc tất cả được hài hoà trong một dáng dấp tự nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.33 KB, 16 trang )

Đề tài:
Nhà nghiên cứu Hêlen Tuốcmêrơ đánh giá: "Hồ Chí Minh là hình ảnh sự
khôn ngoan của Đức Phật, lòng nhân từ của Chúa, tinh thần nhiệt tình cách
mạng của Lênin, sự ung dung của người chủ gia tộc tất cả được hài hoà
trong một dáng dấp tự nhiên". Anh (chị) hãy bình luận nhận xét trên
I. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
(1890-1969)
1.THỜI THƠ ẤU VÀ THANH NIÊN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
(1890-1911)
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 nǎm 1890 tại quê ngoại làng
Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình
nhà nho.
2.CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TIẾP NHẬN CHỦ NGHĨA MÁC
LÊNIN VÀ KHẲNG ĐỊNH CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
(1911-1920)
Ngày 5 tháng 6 nǎm 1911, với bí danh Vǎn Ba, Nguyễn Tất Thành nhận làm
phụ bếp cho tàu Amiran Latusơ Tơrêvi rời Sài Gòn đi Mác-xây (Marseille)
Pháp, bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Từ nǎm 1911 đến nǎm 1920,
Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều nước ở châu Âu, châu Phi , châu Mỹ, nghiên
cứu và học hỏi để quyết định con đường Cứu nước.
Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L'Humanité) Pháp, Nguyễn Ái Quốc
được đọc Luận cương của V.I Lê nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Sau
này nhớ lại niềm sung sướng khi đọc Luận cương của V. I Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: "Luận cương của V. I Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn
khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình
trong buồng mà tôi nói to lên nhu đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ.! Đây là cÁi cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta.

1



Nguyễn Ái Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông Dương tham dự
Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua. Người đề nghị:
"Đảng xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người
bản xứ bị áp bức ... Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các
nước thuộc địa. Chúng tôi thấyrằng việc Đảng xã hội gia nhập Quốc tế thứ ba
có nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể là từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng tầm
quan trọng của vấn đề thuộc địa". Cũng tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán
thành Quốc tế cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng
sản Pháp.
3.CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐẤU TRANH BẢO VỆ VÀ VẬN DỤNG
SÁNG TẠO ĐƯỜNG LỐI CỦA V.I LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ
THUỘC ĐỊA (1920-1924)
Nǎm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước của các thuộc
địa Pháp thành lập Hội liên hiệp thuộc địa nhằm tổ chức và lãnh đạo phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc Điều lệ của Hội nêu rõ: "Mục đích của Hội là tập
hợp và hướng dẫn cho mọi người dân các xử thuộc địa hiện sống trên đất Pháp
để soi sáng cho những người dân ở thuộc địa về tình hình mọi mặt ở nước Pháp
nhằm mục đích đoàn kết họ; thảo luận và nghiên cứu tất cả những vấn đề chính
trị và kinh tế của thuộc địa". Tuyên ngôn của Hội kêu gọi nhân dân thuộc địa
đoàn kết đấu tranh tự giải phóng và nhấn mạnh "Vận dụng công thức của Các
Mác chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể
thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em. Hội liên hiệp thuộc địa thành
lập chính là để giúp đỡ anh em trong công cuộc ấy".
Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền và vận động cách mạng ở các thuộc địa,
Hội liên hiệp thuộc địa đã xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ). Tác phẩm
của Nguyễn Ái Quốc "Bản án chế độ thực dân Pháp" được xuất bản vào cuối
nǎm 1925. Nhiều bài trong tác phẩm đã được đǎng báo Le Paria và một số báo,
tạp chí ở Pháp và Liên Xô. Bằng những chứng cớ và số liệu cụ thể, những người
thật việc thật Nguyễn Ái Quốc đã thức tỉnh nhân dân các thuộc địa, đồng thời

2


chỉ ra con đường đấu tranh của cách mạng thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ:
"Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cÁi vòi bám vào giai cấp vô sản ở
chính quốc và một cÁi vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn
giết con vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một
vòi thôi thì cÁi vòi còn lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật
vẫn tiếp tục sống và cÁi vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra".
Tháng 6 nǎm 1923, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng
sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô. Được thực tiễn cách
mạng Nga lúc đó cổ vũ, Nguyễn Ái Quốc kiên trì đấu tranh bảo vệ và phát triển
sáng tạo tư tưởng của V.I Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự chú ý
của Quốc tế Cộng sản tới phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa.
Trong các bài phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (nǎm 1924) Nguyễn
Ái Quốc đã đề cập vấn đề về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách
mạng chính quốc, kêu gọi sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới với cách
mạng thuộc địa.
Cuối nǎm 1924 Nguyễn Ái Quốc yêu cầu được trở về châu Á để thực hiện
hoài bão giải phóng nhân dân các dân tộc thuộc địa, trong đó có nhân dân Việt
Nam .
4.CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH SÁNG LẬP CHÍNH ĐẢNG CỦA GIAI
CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM (1924-1930)
Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924 Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung
Quốc). Trong báo cáo gửi Chủ tịch Đoàn quốc tế cộng sản ngày 18 tháng 12
nǎm 1924, Nguyễn Ái quốc đã thông báo về việc đã tiếp xúc với nhóm những
người Việt Nam yêu nước ở Quảng Châu để huấn luyện về phương pháp hoạt
động tổ chức và sau ba tháng học xong sẽ trở về Đông Dương, và có một đoàn
khác sang. Người nhấn mạnh: "Trong lúc này, đây là biện pháp duy nhất".
Nguyễn Ái Quốc đã cùng một số đồng chí trực tiếp giảng bài cho các lớp

huấn luyện. Những bài giảng của Người được tập hợp in thành sách mang tên
"Đường Cách mệnh" xuất bản nǎm 1927. Một trong những vấn đề đầu tiên
3


Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm là đào tạo những người tự nguyện hy sinh
phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người; hiểu lý luận Mác - Lênin; biết đoàn kết và tổ chức nhân dân
cùng phấn đấu vì sự nghiệp chung. Phân tích những bài học kinh nghiệm của
nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ cách mạng Việt
Nam phải theo gương cách mạng Nga đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc,
đánh đổ phong kiến tay sai đem lại ruộng đất cho nông dân.
Tháng 6 nǎm 1925, trên cơ sở số cán bộ được huấn luyện, Nguyễn Ái Quốc
thành lập Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng", tổ chức tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Ngày 21 tháng 6 nǎm 1925, báo "Thanh niên" ra đời. Đây
là tờ báo cách mạng làm nhiệm vụ tuyên truyền giới thiệu về chủ nghĩa Lênin và
cách mạng Tháng Mười Nga; giải thích đường lối chiến lược và sách lược của
cách mạng Việt Nam . Báo là người tuyên truyền tập thể, người cổ động và tổ
chức tập thể, góp phần quan trọng vào việc xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam .
Cuối nǎm 1929 Người triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào cầu nǎm 1930.
5.CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - NGƯỜI TỔ CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THẮNG LỢI VÀ SÁNG LẬP NƯỚC VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ (1930-1945)
Sau cao trào 1930-1931, sự khủng bố của thực dân Pháp càng gắt gao hơn,
nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắt bớ, tù đày, giết hại. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1931,
Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam trÁi phép tại Hồng Kông (Trung
Quốc).
Cuối nǎm 1933, Nguyễn Ái Quốc rời Hồng Kông. Đầu nǎm 1934 Người trở

lại Liên Xô. Tại đây Người vào học trường Quốc tế Lênin, nghiên cứu ở Viện
nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời tiếp tục theo dõi, chỉ đạo
phong trào cách mạng trong nước trong hnh hình chủ nghĩa phát xít đã công
khai đàn áp mọi phong trào dân chủ và hoà bình. Trong nhiều tài liệu Nguyễn Ái
4


Quốc nêu lên sách lược của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kỳ 19361939, nhấn mạnh vấn đề tập hợp mọi tầng lớp nhân dân và thành lập một mặt
trận dân tộc thống nhất rộng rãi đấu tranh đòi tự do, dân chủ và hoà bình.
Ngày 28 tháng 1 nǎm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, Người chọn Cao
Bằng làm cǎn cứ địa xây dựng tổ chức, phát động phong trào cách mạng. Vùng
Khuổi Nậm Pác Bó là nơi họp Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương (tháng 5
nǎm 1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, nơi ra báo Việt Nam độc lập, mở các lớp
huấn luyện xây dựng lực lượng cách mạng. Pác Bó có hang Cốc Bó, nơi Nguyễn
Ái Quốc chọn làm chỗ ở và làm việc của mình.
Ngày 6 tháng 6 nǎm 1941, Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả
nước "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta
phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra
khỏi nước sôi lửa nóng... Việc cứu quốc là việc chung, ai là ngườiViệt Nam đều
phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có
của góp của, người có sức góp sức, người có tài nǎng góp tài nǎng. Riêng phần
tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập,
dẫu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề".
Tháng 8 nǎm 1942, lấy tên là Hồ Chí Minh và với tư cách là đại diện Mặt
trậnViệt Minh và phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược,
Người sang Trung Quốc. Ngày 29-8-1942 Người bị chính quyền địa phương của
Tưởng Giới Thạch bắt giam, sau đó bị giải qua gần 30 nhà lao của 13 huyện
thuộc tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian ở tù, Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm thơ
nổi tiếng "Nhật ký trong tù".
Tháng 9 nǎm 1943, Hồ Chí Minh được trả lại tự do. Tháng 3 nǎm 1944,

Người tham dự Hội nghị các lực lượng cách mạng Việt Nam ở Liễu Châu
(Trung Quốc). Tại Hội nghị này Người đã đọc báo cáo về hoạt động của Mặt
trận Việt Minh và Đảng Cộng sản, nêu rõ tiền đồ của sự nghiệp giải phóng dân
tộc ở Việt Nam, mối quan hệ mật thiết và lâu đời giữa hai nước Việt Nam và
Trung Quốc. Tháng 9 nǎm 1944, Hồ Chí Minh trở lại Cao Bằng. Người gửi thư
5


cho đồng bào toàn quốc kêu gọi chuẩn bị triệu tập Quốc dân đại hội. Tháng 12
nǎm 1944, Người quyết định thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân, tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam .
Ngày 9 tháng 3 nǎm 1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp độc chiếm
Đông Dương. Cuộc chiến tranh thế giới thứ I cũng bước vào giai đoạn cuối với
những thắng lợi của Liên Xô các nước Đồng minh.Ngày 10 tháng 8 phe Đồng
minh đã gửi công hàm yêu cầu Nhật Bản đầu hàng không điều kiện. Chớp thời
cơ ấy, ngày 12 tháng 8 nǎm 1945, Hồ Chí Minh cùng Ban thường vụ Trung
ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Theo đề nghị
của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp tại Tân Trào ngày 13 tháng 8
nǎm 1945. Hội nghị thông qua quyết định Tổng khởi nghĩa, thành lập ủy ban
khởi nghĩa toàn quốc. Ngày 16 tháng 8 nǎm 1945 Quốc dân đại hội Tân Trào đã
hoàn toàn nhất trí với chủ trương phát động khởi nghĩa của Đảng
Ngày 19-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, ngày 23-8 thắng lợi ở Huế, ngày
25 tháng 8 thắng lợi ở Sài Gòn
Ngày 2 tháng 9 nǎm 1945, tại Quảng trường Ba Đình Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Người tuyên bố: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã
thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
6.CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, NGƯỜI TỔ CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO
CUỘC ĐẤU TRANH GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ

KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946-1954)
Sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo toàn dân đấu tranh xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền non trẻ.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời 3-9-1945, Người đề ra
những nhiệm vụ cấp bách lúc đó là động viên toàn dân chống giặc đói, giặc dốt
và giặc ngoại xâm.

6


Trước dã tâm của thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc
kháng chiến trên phạm vi cả nước. Sáng ngày 20 tháng 12nǎm 1946, trên làn
sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam , lời kêu gọi cứu nước của Người đã
truyền đi khắp nước:
"Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ... Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phÁi , dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm
dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước".
Một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi là sự
lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể về
xây dựng Đảng nhằm nâng cao vai trò tập hợp, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân.
Trong tác phẩm: "Sửa đổi lối làm việc" viết nǎm 1947, Người nêu lên những
kinh nghiệm, những bài học thực tiễn có tính lý luận, bồi dưỡng tác phong lãnh
đạo của người đảng viên cộng sản. Người đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao
tư cách và đạo đức cách mạng của đảng viên và khẳng định: "Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân".

7.CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ XÂM LƯỢC,
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1954-1969)
Trở lại Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn cách mạng mới, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam là thi hành đúng Hiệp nghị Giơ
ne vơ nǎm 1954 về Đông Dương; củng cố hoà bình, đấu tranh để thực hiện
thống nhất đất nước bằng Tổng tuyển cử tự do; củng cố miền Bắc về mọi mặt;
mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất trong cả nước. Đặc biệt chú
trọng công tác xây dựng Đảng, Người nhắc nhở đảng viên phải phấn đấu, chú
7


trọng nâng cao đạo đức cách mạng, coi đó là nền tảng của mỗi đảng viên để
hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình. Nǎm 1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
tác phẩm "Đạo đức cách mạng", trong đó Người nêu lên tư cách của một người
đảng viên là: Phải trung thành tuyệt đối với Đảng, quyết tâm suốt đời phấn đấu
cho Đảng, cho cách mạng; ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng
đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên lợi ích của cá nhân, hết lòng
hết sức phục vụ nhân dân, vì Đảng vì dân mà đấu tranh; gương mẫu trong mọi
việc, ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng phê bình và tự phê
bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và đồng chí mình tiến
bộ.
Về phần mình, lời nói đi đôi với việc làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là
gương sáng về thực hành đạo đức cách mạng. Những kỷ vật của Người để lại
được giới thiệu trong bảo tàng (như bộ quần áo gụ, đôi dép cao su v.v...) không
chỉ nói về cuộc sống giản dị, đức khiêm tốn của một con người mà còn nói lên
nhân cách của một vị lãnh tụ của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Một ngày Tổ quốc chưa thống nhất, miền Nam
chưa được giải phóng là một ngày tôi ǎn không ngon, ngủ không yên". cao quý
đó. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng".

Tháng 8 nǎm 1964 đế quốc Mỹ gây ra sự kiện "Vịnh Bắc Bộ", và từ tháng 2
nǎm 1965 đã mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc
và ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam : "Lúc này chống
Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước".
Tháng 7 nǎm 1966 Mỹ đã dùng máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố
Hải Phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên nhân dân Việt Nam vượt qua hy
sinh gian khổ và kêu gọi: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 nǎm, 10 nǎm, 20 nǎm,
hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị
tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập,

8


tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn!".
Từ nǎm 1965, khi tròn 75 tuổi, chuẩn bị cho cuộc "ra đi" của mình, Bác Hồ
bắt đầu viết Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta. Trong những nǎm còn lại,
cứ đến tháng 5, Bác Hồ lại sửa chữa và viết thêm vào vǎn kiện "tuyệt đối bí
mật" này. Trong Di chúc Người viết: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng
cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, vǎn hoá, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân...".
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Sau khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân ta, Hồ
Chí Minh đã xúc tiến thành lập một chính Đảng cách mạng chân chính ở Việt

Nam và Người đã cùng Trung ương Đảng ta trực tiếp lãnh đạo cách mạng, đưa
sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam vượt qua mọi gian khổ,
khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát
khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng
chính vì vậy mà vần đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng
Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu suốt cả đời. Đề cập đến tư tưởng
của Người về vấn đề nêu trên, chúng tôi xin trình bày khái quát một số quan
điểm lớn sau đây:
Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa
phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh

9


đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước.
Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ
nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi
người, mọi dân tộc.
Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta
khồng hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ
(dân tộc ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ anh em, ruột
thịt. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay
Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết

có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói giúp nhau.”
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
(CNXH) bao gồm:Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước
phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và
sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.Hai là, CNXH có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.Ba là, CNXH là một xã
hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là
đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc
sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi
khả năng sẵn có của mình.Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý,
làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc
10


bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi.Năm là, CNXH là một công trình tập thể
của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.Quan
niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin và từ tình hình thực tiễn của Việt Nam:Trước hết, Hồ Chí Minh đã
lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể
của mỗi nước để nhận rõ đặc trưng tính chất của thời kỳ quá độ của Việt Nam đi
lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, trong
đó đặc điểm bao trùm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này thâu
tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình
quá độ lên CNXH ở nước ta, từ đó phải tìm ra con đường với những hình thức,

bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm Việt Nam.Về nhiệm vụ lịch sử của
thời kỳ quá độ, Người nói "Chúng ta phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật
của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây
dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài".Về những nhân tố bảo đảm thực hiện
thắng lợi CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải: Giữ vững và tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; Phát huy tính
tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị- xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ
đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Nhật chống phá, trong nước thì việt quốc, việt cách nổi dậy. Một chính phủ
mới thành lập mà đã vấp phải nhiều khó khăn và đặc biệt là không được sự thừa
nhận của thế giới., tình hình nước ta đang rơi vào tình cảnh ngàn cân treo sợi
tóc. Trước hoàn cảnh đó Hồ Chí Minh đã ký 2 hiệp ước quan trọng 14-9 và 6-3,
với 2 hiệp ước này thì dân tộc việt nam đã có được điều kiện để chuẩn bị lực
lượng, đồng thời loại được bớt được kẻ thù là Mỹ, Anh và Tưởng. Độc lập dân
tộc là bất biến và tất cả những hiệp ước hay tạm ước chỉ là những sách lược để
11


phục vụ cho một tư tưỏng cơ bản xuyên suốt đó là độc lập dân tộc và đại đoàn
kết toàn dân.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh cứ khi nào dân tộc Việt Nam đoàn kết thì
ta dành độc lập và khi nào nước ta đánh mất sự đoàn kết thì sẽ bị mất chủ quyền.
Hồ Quý Ly là một trong những ông vua giỏi nhất trong lịch sử Việt Nam nhưng
cũng là người lãnh đạo cuộc kháng chiến thất bại nhanh nhất trong lịch sử Việt
Nam khi quân Minh xâm lược, bởi ông đã không đoàn kết được toàn dân.
- Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược tập hợp lực lượng dân tộc. Tập hợp mọi
lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành sức mạnh to lớn của dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù.

- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn của cách mạng. Tuy nhiên trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp
với những đối tượng khác nhau.
Tức là đại đoàn kết dân tộc là chiến lược nhưng trong từng giai đoạn thì phải
có cách thức đoàn kết khác nhau. Ví dụ như trứớc năm 1945 chúng ta có khẩu
hiệu: “Đánh đổ thực dân, phong kiến dành độc lập dân tộc chia ruộng đất cho
dân cày”, nhưng đến năm 1945 khi Bác Hồ đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến : “Đánh đuổi thực dân dành độc lập cho dân tộc” ,vốn dĩ có sự khác biệt
đó là vì khi này ta cần phải lôi kéo thêm tầng lớp phong kiến ủng hộ cho cách
mạng để vừa bớt kẻ thù đồng thời thu hút được của cải để có tiền để làm cách
mạng.
- Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chất chân lý về đoàn kết.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
b) Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng.
+ Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được quán triệt trong mọi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao
động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước
toàn thể dân tộc :”Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là :
12


“Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền
núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ : Trước cách mạng Tháng Tám
và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân
tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến
để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi . Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn
luyện là : “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh
thống nhất nước nhà
+ Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân

dân. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập
hợp, hướng dẫn quần chúng đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức thành sức
mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân,
hạnh phúc cho con người .
c) Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân. “đoàn kết toàn
dân tộc”. Không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo. Không phân biệt dân tộc
thiểu số với dân tộc đa số, người theo tín ngưỡng với người không theo tín
ngưỡng…. “ ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân
dân thì ta đoàn kết với họ”. Liên minh công nông lao động trí thức làm nền tảng
cho khối đại đoàn kết toàn dân.
d) Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là
mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cả dân tộc, toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, sức mạnh vô địch khi
được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, và được tổ chức thành một khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không thế
thì quần chúng dù đông nhưng cũng chỉ là số đông không có sức mạnh.Thất bại
của các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh rất rõ vấn đề này.
4. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về Xây dựng một Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân

13


Một Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải là một Nhà nước có Đức,
dưới sự lãnh đạo của một Đảng là đạo đức, là văn minh. Nói Nhà nước có Đức
là nói đến một nhà nước hướng tới bảo vệ và phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của
nhân dân, đồng thời với việc trừng trị một cách nghiêm khắc những hành vi xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của dân tộc, của nhân dân.
Tư tưởng về xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân

dân của Bác Hồ được hình thành rất sớm. Nhà nước của dân, do dân và vì dân
được xây dựng trên cơ sở của một hiến pháp, một hệ thống pháp luật. Nhà nước
ấy quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với đạo đức. Bản thân nhà nước, các bộ
phận cấu thành nhà nước, công chức và cán bộ của nhà nước cũng được hình
thành và hành động theo pháp luật và đạo đức.
Một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân theo tư tưởng Hồ
Chí Minh không phải là nhà nước chung chung phi giai cấp. Bởi vì, đã là nhà
nước, bao giờ nhà nước cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Cho
nên Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam do nhân dân Việt Nam không phân
biệt trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, đảng phái, dân tộc xây dựng nên, theo cơ chế
đại biểu, đại diện, rồi từ đó cử ra các cơ quan, hình thành bộ máy nhà nước. Nhà
nước dân chủ nhân dân được xây dựng trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Đảng của giai cấp công nhân và của toàn thể dân tộc Việt Nam.
III. KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh và những cống hiến của Người đã đi vào lịch sử thế giới hiện
đại. Tên tuổi, sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức cách mạng vẹn toàn của Người
luôn được trân trọng trong ký ức của mỗi người, dù Hồ Chí Minh đã rời xa
chúng ta để trở về với cõi vĩnh hằng gần 40 năm. Cuộc đời của Người thực sự là
một tấm gương sáng chói của những phẩm chất đạo đức cách mạng cao cả và
nhân đạo nhất.
1. Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi nhân dân Việt Nam đang rên xiết dưới
ách thống trị tàn bạo, hà khắc của thực dân Pháp. Lựa chọn một con đường đi
14


đúng, Người đã giành cả cuộc đời mình để kiên trì thực hiện hoài bão: Độc lập,
tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Mang trong mình chủ nghĩa nhân
đạo sâu sắc, Người còn khởi xướng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các
nước thuộc địa trong thế kỷ XX, hết lòng, hết sức đóng góp cho một tình đoàn

kết quốc tế trong sáng, cho nền hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc trên thế
giới.
2. Cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khó, không mệt mỏi của Hồ Chí
Minh tượng trưng cho khí phách cách mạng ngoan cường, cho ý chí bất khuất,
tính kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh, thái độ ứng xử điêu luyện về chính trị, bình
tĩnh nhưng đầy quyết đoán trong những tình thế gay go, quyết liệt, đã trở thành
niềm hy vọng của tất cả các dân tộc yêu chuộng tự do, công lý, hoà bình trên
toàn thế giới. Đồng thời, đức hy sinh, lòng tận tụy và sự bao dung, khoan hoà
của Người thể hiện trong tư tưởng, trong hành động, trong từng mối quan hệ với
đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế “đã làm cho ngay cả quân thù cũng phải
khâm phục” .
Kiên trì những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, sẵn sàng xả thân vì sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản (CNCS), kiên cường trong đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân, đế quốc, không chỉ đấu tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã
hội (CNXH) ở Việt Nam, Người còn đồng thời cổ vũ các dân tộc”
3. Hồ Chí Minh và con đường Người lựa chọn, sự nghiệp Người tiến hành
đã trở thành một nhân tố quan trọng, đưa đất nước Việt Nam thoát ra khỏi những
năm dài là thuộc địa, đem tên Việt Nam trở lại với bản đồ thế giới.
Hồ Chí Minh và ánh sáng Người đem lại cho nhân loại cần lao qua hơn nửa
thế kỷ đấu tranh bền bỉ, không một chút lợi riêng tư, thật là vĩ đại. Người trở
thành vĩ đại không chỉ bởi tài lãnh đạo, đức hy sinh, tình yêu thương vô bờ bến
với nhân dân, sự kiên định và lòng dũng cảm, kiên trung trong cuộc đấu tranh
lâu dài, vì một nước Việt Nam độc lập, hoà bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, Người còn vĩ đại ở trí tuệ mẫn tiệp, sự lựa chọn chính xác và quyết đoán,
chủ nghĩa nhân văn mang đậm cốt cách tâm hồn Việt của một bậc đại trí, đại
15


nhân, đại dũng. “Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức
khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, Triết học Mác, thiên tài cách mạng

của Lênin và tình cảm của người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp
rất tự nhiên” bình dị.

16



×