Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hồ Chí Minh là hình ảnh, sự khôn ngoan của đức Phật, lòng nhân từ của Chúa, tinh thần nhiệt tình cách mạng của Lênin, sự ung dung của một người chủ gia tộc.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.14 KB, 21 trang )

Đề bài: Nhà nghiên cứu Hêlen Tuốcmerơ: “Hồ Chí Minh là hình ảnh, sự
khơn ngoan của đức Phật, lịng nhân từ của Chúa, tinh thần nhiệt tình cách
mạng của Lênin, sự ung dung của một người chủ gia tộc. Tất cả được hài hòa
trong một dáng dấp tự nhiên.”Em hãy phân tích nhận xét trên.

Bài làm
Hồ Chí Minh là một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp nhưng
ngày nay được cả thế giới biết đến và tôn vinh với tư cách là ''vị anh hùng giải
phóng dân tộc của Việt Nam và là một nhà văn hố lớn" Vì sự nghiệp chính
trị của Hồ Chí Minh là sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải
phóng con người. Đưa nhân dân lao động lên địa vị người chủ của đất nước
và làm chủ vận mệnh của mình là một tiến bộ vượt bậc về văn hóa. Cuộc đời
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người
cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc,
đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân
dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hịa
bình và cơng lý trên thế giới.Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhà
tan nhưng vốn xuất thân trong một gia đình nhà Nho u nước, từ thuở nhỏ,
Hồ Chí Minh đã được hấp thụ truyền thống yêu nước nồng nàn, nền văn hiến
của nước nhà và những tinh hoa văn hố phương Đơng. Sau mười năm theo
học Nho học, Người chuyển sang Tây học, vừa tiếp thu tư tưởng Nho giáo
vừa tiếp thu tư tưởng và văn hoá phương Tây bằng sách vở nhà trường và cả
tân thư. Người nói: ''Khi tơi độ mười ba mười bốn tuổi" lần đầu tiên tơi nghe
ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen
với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy''.
Với tư chất thông minh, sắc sảo, ý chí hồi bão lớn lao, Người khơng đi theo
con đường phong kiến, lối mòn của các bậc tiền bối mà muốn sang xem đất
nước của kẻ thù để tìm hiểu rồi về cứu giúp đồng bào, giải phóng dân tộc.
Như vậy, hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh có tri thức ban
đầu rất quan trọng về văn hố, lịng u nước nhiệt thành và chí hướng
mớiTài năng chính trị của Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng của nhân


cách nhà chính trị Hồ Chí Minh, đã góp phần vào thắng lợi của cách mạng

1


Việt Nam. Nhưng hình ảnh sống động mà Người đã để lại là tài năng đó được
kết hợp nhuần nhuyễn với đạo đức, phong cách và năng lực sáng tạo văn hố
của Người. Hồ Chí Minh là nhà chính trị, nhà hoạt động cách mạng chuyên
nghiệp nhưng đồng thời là biểu tượng của lòng khoan dung nhân ái, của việc
thực hành lối sống và nhân cách văn hoá. Nhà sử học Ba Lan Hêlen
Tuốcmêrơ đã viết về Người: Hình ảnh Hồ Chí Minh đã hồn chỉnh với sự
kết hợp đức khơn ngoan của Phật, lịng bác ái của Chúa, triết học của
Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia
tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên ''. Những nét đẹp này
được bộc lộ rõ trong phẩm chất, con người Hồ Chí Minh cũng như qua con
đường hoạt động cách mạng giải phóng dân tộc của Người.
Heelen nhận xét “Hồ Chí Minh có sự khơn ngoan của Đức Phật và lịng
bác ái của Chúa”. Mới nghe thì đây là cách so sánh tưởng chừng như hơi “quá
ưu ái” dành cho một con người bình thường với những nhân vật tơn giáo
thiêng liêng. Nhưng khi đi sâu vào tìm hiểu, ta mới thấy bên cạnh sự ưu ái của
một nhà sử học nước ngoài dành cho người lãnh đạo Việt Nam là sự tương
động thực sự giữa những cái tên này. Đối với dân tộc Việt Nam cũng như cả
thế giới, Hồ Chí Minh đã được coi là “vị thần của dân tộc”, mang trong mình
những phẩm chất của những con người hi sinh cho nhân loai như Đức phật và
Chúa Gieessu.
Phật giáo là một phương thức làm sao để đạt được lợi lạc cao nhất từ cuộc
sống. về phật giáo, HCM đã tiếp thu sự khôn ngoan của Đức Phật, coi trọng
tinh thần bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều thiện… phật giáo
là một tôn giáo của trí tuệ mà ở đấy kiến thức và thơng minh chiếm ưu thế.
Đức phật không thuyết giảng để thâu nạp tín đồ mà là để soi sáng người nghe.

Nếu đức Phật là hiện thân cho trí tuệ hơn người thì ngay từ thuở ấu thơ cho
đến khi lãnh đạo con thuyền cách mạng Viêt Nam, Hồ Chí Minh cũng làm cả
thế giới phải ngưỡng mộ bởi tài năng xuất chúng của một con người đến từ
đất nước còn lầm than. Bác có tư chất thơng minh, có khả năng tiếp thu nhanh
nhạy với cái mới, ln ln có niềm khao khát học tập, tự học từ cuộc sống.

2


Bác có hiểu biết sâu rơng, phương pháp biện chứng đầu óc thực
tiễn… chính nhờ vậy người đã khám phá sáng tạo về lí luận cách mạng
thuộc địa trong thời đại mới phù hợp với hồn cảnh dân tộc mình, xây
dựng 1 hệ thống quan điểm toàn diễn, sâu sắc về cách mạng Việt Nam đã
vượt qua mọi thử thách sóng gió trong hoạt động thực tiễn, kiên trì chân
lí, định ra các quyết sách đúng đắn và sáng tạo biến tư tưởng thành hiện
thực cách mạng. Không chỉ ở nước ta mà có nhiều chính khách nhiều nhà
hoạt động văn hố nước ngồi đã nêu nhiều ý kiến về tài năng trí tuê của Hồ
Chí Minh. Hồ Chi Minh là con người có hồi bão và chí lớn, Bác đã truyền
quyết tâm cho cả dân tộc hoàn thành sự nghiệp lớn. Như Đức phật đã răn dạy:
con người phải luôn làm chủ bản thân, bác luôn lầm chủ bản thân trong mọi
tình huống : Bác ln ln nghiêm khắc với chính bản thân mình nhưng ln
rơng rãi độ lượng với người khác như chúa. Hơn nữa bác luôn luôn cố gắng
biến quan điểm của mình thành thực tiễn. Đối với chủ nghĩa mác lê nin, Hồ
Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi linh hồn sống của nó, là phương pháp biện
chứng duy vật, học tập lập trường quan điểm, phương pháp biện chứng của
chủ nghĩa mác lê nin để giải quyết vấn đề cách mạng của Việt Nam. Tài năng
và trí tuệ hơn người của Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở cách Bác dùng
người. Có nhiều câu chuyện thực tế đã cho thấy sự khôn ngoan và nhìn
xa trơng rộng của chủ tịch Hồ Chí Minh.


sau khi cuộc đàm phán hịa bình Fontainebleau thất bại, rất nhiều Việt kiều
yêu nước trên đất Pháp muốn theo Bác về nước, tham gia chiến đấu, và Người
đã nhận "mang về" mấy cái đầu "đầy chữ": Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước,
Lê Văn Thiêm... Trong nước thì Bác chú ý đến những cái "đầu" như Nguyễn
Văn Huyên, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Phan Anh, Hồng Xn Hãn... (hai
ơng sau mặc dầu trước đây là làm việc cho triều đình thân Nhật). Ngay cả đối
với Phạm Quỳnh bị coi là đầy tớ trung thành của thực dân Pháp, mà Bác Hồ
mới về thủ đơ cịn khơng qn nghĩ đến sử dụng nếu ơng ta cịn sống. Hơn
thế, ngay cả đối với Ngơ Đình Diệm, anh Vũ Đình Huỳnh, thư ký riêng của
Bác (hồi 1945-1946) kể câu chuyện lý thú rằng: Cuối tháng 8-1945, vừa ở
chiến khu về, Người bảo anh Huỳnh đi gọi Lê Giản (ông trùm công an) đến
để dẫn Bác vào nhà lao Hà Nội. Bác lướt qua các buồm giam, rồi gia lệnh mở
3


cửa tha cho mấy tù nhân mới bị bắt, trong đó có Ngơ Đình Diệm. Được tin,
Bùi Lâm (cũng ngun là thủy thủ, bạn chí thân của Bác) đùng đùng đến Bắc
Bộ phủ "xơng" vào phịng Bác đang làm việc, kêu bô bô với giọng bốc lửa:
- Anh Quốc! Anh thả Ngơ Đình Diệm à! Thế anh khơng thấy nguy hiểm
sao? Gọi là thời thế mà thay đổi, thì nó "thịt" anh trước tiên đấy!
Bác cười, mời ông Lâm ngồi xuống, thủng thẳng hỏi:
- Thế Bùi Lâm quên câu ca dao của nhân dân ở Huế à?
Bùi Lâm quên thật, nên đi tìm bạn hỏi rõ, thì được nghe nhắc lại câu ca
dao:
"Đày vua không Khả
Đào mả không Bài"
Đấy là những gia đình nhà Nho có nghĩa khí. Tơi đốn ý của bác là thế một biểu hiện của lòng Nhân cổ truyền.
Hồ Chủ tịch đánh giá cao vai trò của trí thức trong Cách mạng. Ta nhớ,
sau hội nghị Fontainebleau thất bại, phái đoàn ta trở về nước trước Bác thì
điều quan trọng nhất Bác dặn anh Tơ là phải khẩn trương giúp anh em trí thức

lập Đảng Xã hội Việt Nam. Bác tin tưởng ở trí thức... Nhưng khơng phải vì
thế Bác bỏ qua những tật xấu của chúng tôi, mà thường xuyên để ý uốn nắn
một cách nhẹ nhàng, lịch sự nữa! Được cái, họ cũng tinh ý (trí thức Parisien
mà!), hiểu nhanh nên vui vẻ nhận ra khuyết điểm, và cũng thấm thía sự lố
lăng của mình để thành thực thay đổi nếp sống văn minh rởm. Chẳng hạn
Phan Anh đấy, trong hoàn cảnh Hà Nội mới qua Tổng khởi nghĩa, mà ơng Bộ
trưởng Quốc phịng vừa được phong chức đã "diện" bộ quân phục tướng Tây
giả để ra tiếp viên tướng Tây thật Le Clerc, thì quả là khó coi thật! Được Bác
nhắc nhẹ, nhưng khá đau: "con nhà lính mà tính nhà quan". Phan Anh tỉnh ra
tức thì, và sau hàng chục năm nghĩ lại anh cịn thấy thèn thẹn.
Bác đặc biệt chăm sóc "Lớp chỉnh huấn Trung ương cho trí thức". Bài
giảng vỡ lòng vẫn là bài "Thiện Ác giao tranh" của Bác và Bác thân hành đến
4


giảng. Thời gian lớp đang tiến hành "đấu tranh tự phê, phê" Bác đến thăm,
động viên thêm, gặp gỡ hỏi han số anh em nào có vấn đề mắc mứu. Rồi đến
buổi giải đáp (thắc mắc) cuối cùng Bác cùng với tôi cũng đến thăm và sinh
hoạt một ngày với tổ anh em Dân chủ.
Bác tươi cười nói:
" Trí thức vốn thích độc lập suy nghĩ, "tự do tư tưởng", thì chính các cơ,
các chú đăng được tha hồ phê, tự phê, thoải mái, miễn là thành thực với mình,
với bạn để phấn đấu tiến lên và giúp bạn tiến lên. Thời gian qua trong quan hệ
giữa chính trị và chun mơn có nhiều trục trặc. Lỗi ở cả hai bên: anh chính
trị thì hẹp hịi hay chụp mũ, tả khuynh, tư tưởng cơng thần; anh chun mơn
thì thái độ khinh khỉnh
, cịn tư tưởng thì lại rụt rè, ngại đấu tranh, đối với địch thì đơi khi thiếu kiên
quyết".
Bác nhấn mạnh
:

- Mình đấu với mình! Có phải khơng nào? Đây có cụ Bùi (cụ Phó bảng Bùi
Kỷ), tơi nói thế này khí khơng phải, xin lỗi Cụ trước:
(Ở dưới cử tọa có tiếng cụ Bùi vang lên: - Khơng dám ạ: thưa Cụ, xin mời Cụ
cứ dạy bảo).
Hồ Chủ tịch nói tiếp:
- Hơm qua ở trong Tổ, Cụ đã tự phân tích lỗi lầm xưa rất hay, rất cảm
động, anh em phản ánh cho tôi thế: Cụ đã dạy Văn - Sử ở các trường - trung
học, đại học dưới thời Pháp thuộc, được hàng mấy chục khóa học sinh, sinh
viên. Ngay hồi đó Cụ đã cảm thấy nhục nhã khi phải nói về cơng ơn khai hóa
của Nhà nước Bảo hộ. Như thế là Cụ đã gây dựng được hàng mấy chục khóa
thanh niên nơ lệ cho thực dân Pháp. Cụ đã tự nhận thế. Đúng đó, rất hoan
nghênh lời tự phê phán đó của Cụ. Xin phép góp ý thêm: Suốt thời đó, Cụ cịn
nhát nhát q chưa nói thêm được điều gì kín đáo giúp cho học trị cụ suy
nghĩ. Vì Cụ sợ Tây nó "đá đít"! (cả Hội trường cười ồ). Thế là Cụ có tội với

5


nhân dân, có tội với dân cày ngay ở quê Cụ. Họ đã nai lưng nộp thóc, nộp
thuế để ni Cụ! Có phải thế khơng ạ?
Cụ Bùi đứng dậy, vui vẻ, khiêm tốn trả lời:
- Quả đúng như thế ạ. Cịn "hèn" nữa cơ ạ, vì đã khơng dám nói thẳng ra như
thế ngay trong lớp học này!
- Vâng (Bác nói), để khẳng định sâu sắc quyết tâm phản đế, phản phong
trong cuộc giao tranh nay mai. Mục đích của chỉnh huấn lần này, chính là để
trong tư tưởng ta phải dứt khoát đoạn tuyệt với cái Ác, làm cho cái Thiện
hồn tồn thắng.
Hội trường hoan hơ, mừng rỡ, hoan hô cả hai Cụ - Đại Nho, mà rất giàu tư
tưởng Dân chủ Mới, hừng hực nhiệt tình chiến đấu như thanh niên.
Bác Hồ của chúng ta đi nhiều, hiểu rộng. Mọi công ước quốc tế liên

quan đến chiến tranh, hịa bình, quyền con người, quyền tự quyết dân
tộc… Bác nắm rất vững và minh họa rất đẹp bằng truyền thống dân tộc “lấy
nhân nghĩa thắng hung tàn”. Còn nhớ, năm 1966, nhiều phi công Mỹ bị giải
trên đường phố Hà Nội làm chấn động dư luận thế giới. Lúc ấy, Bác Hồ đang
nghỉ ở nước ngoài đã điện về bắt phải dừng ngay, Bác bảo: “Họ là tù binh
nhưng trước hết là con người”. Bác còn gọi điện cho ông Hoàng Tùng (tổng
biên tập báo Nhân Dân) nhắc phải viết bài “chữa cháy”
Hồ Chí Minh khơng chỉ có sự khơn ngoan và trí tuệ của Đức Phật mà cịn
có lòng nhân từ của Chúa. Đức Chúa Gieessu trong lòng tin của người Công
giáo sinh ra trên đời là để chịu tội thay cho loài người. Đức Chúa làm nhiệm
vụ cứu rỗi những linh hồn lầm lạc, bao dung cà cưu mang những con người
nhỏ bé, bất hạnh. Bác Hồ cũng mang trong lòng sự khoan dung và thương
cảm cho số phận dân tộc như thế. Khoan dung có nghĩa là mỗi người được tự
do chọn lựa những niềm tin của mình và chấp nhận những người khác cũng
có quyền tự do như vậy. Nó… chấp nhận thực tế con người, đương nhiên
khác nhau về vẻ ngồi, hình thể, ngơn ngữ, tập tính và các giá trị, đều có
quyền sống trong hồ bình và tồn tại đúng bản chất của mình (1). Khoan dung
do đó là một kích thích tố của phát triển và ổn định.

6


Khoan dung hẳn không phải là nét riêng của dân tộc này hay dân tộc khác,
mà được hình thành từ lịch sử của nhiều dân tộc trong cuộc mưu sinh và bảo
vệ phẩm giá của mình. Dân tộc ta từ xưa đã làm cho yếu tố này trở thành phổ
biến trong hệ thống ứng xử và đánh giá đối với quan hệ bên trong lẫn quan hệ
đối ngoại. Điều này bộc lộ rõ trong việc tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân
tộc đi trước, thực hiện sự sàng lọc nghiêm túc, dần dân biến thành cái của
chính mình (2). Có thể tìm thấy bằng chứng sinh động của thái độ khoan dung
này trong quá trình tiếp cận với Nho giáo và Phật giáo. Nho giáo du nhập vào

Việt Nam thoạt đầu theo chân quân xâm lược phương Bắc, nhưng với thời
gian, chịu sự thẩm định của sinh hoạt cộng đồng, nó một mặt được tầng lớp trí
thức nước ta sử dụng ở bình diện đạo đức, lối sống, đúc kết thành những bài
học phổ biến về rèn luyện nhân cách và tri thức, mặt kháđược các triều đại
phong kiến Việt Nam vận dụng vào việc củng cố các định chế pháp luật, bảo
đảm ổn định xã hội. Cùng với Nho giáo, các thành tựu khác của văn hoá
Trung Quốc cũng để lại dấu ấn đậm nét trong phong cách sáng tác, tư duy, bổ
sung vào hệ thống ứng xử của người Việt Nam trong suốt nhiều thế kỷ. Phật
giáo với hệ lý luận khá chặt chẽ và một triết lý nhân sinh giàu tính khoan
dung đã được các tầng lớp nhân dân đón nhận, làm phong phú thêm văn hố
tâm linh của mình. Sự hội nhập những giá trị bên ngoài vào đời sống xã hội
Việt Nam được cắt nghĩa bởi đạo lý “Việt Nam mong muốn làm bạn với tất
cả”, và học hỏi nghiêm túc các giá trị nhân loại chung. Đạo lý ấy đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trong suốt cuộc đời hoạt động khơng mệt mỏi vì độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội kế thừa và làm sâu sắc thêm trong các quan điểm,
chủ trương, chính sách cụ thể. Triết lý tơn giáo của Người, nếu có thể gọi như
vậy, khơng thể hiện trong những bài diễn văn hùng hồn, trong những chuyên
khảo tự biên, hàn lâm, mà đi vào lòng người bằng lời nói và hành động thiết
thực, qua đó tốt lên chính sách đại đồn kết và tấm lịng nhân đạo, truyền tải
được ý nghĩ thầm kín của các tầng lớp nhân dân. Hơn thế nữa, tư tưởng khoan
dung Hồ Chí Minh gắn với chủ nghĩa yêu nước, lấy chủ nghĩa yêu nước làm
cơ sở xác định tính chất của khoan dung. Truyền thống khoan dung đã được
hiện thực hoá một cách sinh động trong điều kiện lịch sử cụ thể, cho thấy
nguồn mạch xuyên suốt của tính cách Việt Nam, minh chứng một sức mạnh
tổng hợp mà không thế lực ngoại bang, phản động nào có thể phá hoại nổi.

7


Rất tự nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra rằng lý tưởng của chúng ta, và

vì thế chỉ khi nào sự nghiệp chính nghĩa của tồn dân tộc đạt được thắng lợi
thì đồng bào lương cũng như giáo mới được sống bình yên, tự do bày tỏ niềm
tin của mình. Những dẫn chứng vừa nêu cho thấy tư tưởng khoan dung của
chúa của Hồ Chí Minh đã thể hiện quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử
cụ thể. Hồ Chủ tịch xem xét tôn giáo không chỉ từ bình diện chính trị - xã hội,
mà cịn từ bình diện giá trị đạo đức, nhân sinh - những nhận hình thức sinh
hoạt tinh thần này như phương thức cần thiết bộc lộ “nhân tính”, đồng thời
xác định vị trí của nó trong lịch sử phát triển đất nước. Trong công cuộc đổi
mới hiện nay, tư tưởng khoan dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự chỉ dẫn
vơ giá đối với các tầng lớp nhân dân đang phấn đấu, bằng tất cả sức lực và trí
tuệ của mình, xây dựng một nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, thực hiện đối thoại cởi mở và học hỏi kinh nghiệm của các
dân tộc khác, hội nhập vào đời sống văn hoá của nhân loại.
Sự nhân ái là một nét nổi bật tạo nên phong cách văn hố của danh nhân
Hồ Chí Minh. những phẩm chất đạo đức của Bác tự toả sáng để chúng ta soi
vào đó để hồn thiện phẩm cách của mình. Cả cuộc đời Bác là một sự hy sinh
lợi ích cá nhân vì dân tộc và đồng bào mình, điều làm nên sự vỹ đại chính là ở
tình cảm “nâng niu tất cả chỉ quên mình” ấy. Những người lao động cần lao,
các phụ lão, nhi đồng, chiến sỹ, các gia đình thương binh liệt sỹ… là những
người Bác dành trọn tình thương, một tình thương thực sự xuất phát từ tấm
lịng nhân ái của mình. Và ở đâu có tình u thương con người chân chính thì
ở đó những tình cảm ấy sẽ được trân trọng, lưu giữ và truyền tụng như một
giá trị nhân văn bất biến. Và giá trị ấy càng lớn lao và bền bỉ hơn khi tình
thương ấy được chắp cảnh bởi trí tuệ để biến những khát vọng, ước ao của
dân chúng thành hiện thực. Chính trí tuệ Hồ Chí Minh cộng với đạo đức của
Người là nguyên nhân để đất nước này thoát khỏi đêm trường nô lệ, để mọi
người dân Việt Nam ai cũng có cơm ăn áo mặc, được học hành như khát khao
tột bậc của người…
Đặc biệt, Bác còn dành tình thương cảm, lịng vị tha, nhân từ ngay cả đối
với kẻ thù. Bác luôn đổi xử với kẻ thù bại trận, những tù binh Pháp bằng long

khoan dung đầy tính nhân đạo với quan điểm “Với lịng khoan dung, chúng
ta sẽ nhanh chóng giác ngộ cho tù hàng binh địch”. Trong chiến dịch Biên

8


giới 1950. Bác đã chỉ thị phải cứu chữa tận tình cho thương binh địch, khơng
được để tù binh thiếu ăn trong lúc thuốc men lương thực ta không hề dư dật.
Bác chỉ thị cho Bộ chỉ huy chiến dịch thơng báo cho phía Pháp rằng tựa sẽ
trao trả tất cả số tù binh bị thương tại Thất Khê.
Bác Hồ - Đức Phật – hay Chúa Giê su giống nhau ở điểm cơ bản, đều là
những con người sống của cuộc sống vì chúng sinh. Bác Hồ đã lựa chọn con
đường hi sinh hạnh phúc cá nhân vì vận mệnh của dân tộc. Đức hi sinh ấy
xuất phát từ lòng nhân từ của một con người cao cả. Quê hương nghĩa nặng
tình sâu, nhưng cả một đời vì nước vì non, cho đến khi luống tuổi, Bác mới
chỉ kịp về thăm quê đôi lần. Trong dịp đi thăm quê Bác năm ngối, người viết
có được nghe hướng dẫn viên khu di tích kể lại rằng khi nhà nước có ý định
trùng tu lại khu di tích này có đặt cổng ở phía vườn; lúc Bác về thăm mới chỉ
rằng xưa kia cổng nhà Bác nằm ở phía này, khung cửi cũ của mẹ Bác – bà
Hoàng Thị Loan – đặt ở phía kia. Vậy là suốt mấy chục năm bơn ba, cậu bé
Cung vẫn nhớ như in những hình ảnh ngơi nhà nhỏ của ơng Phó bảng đã ni
dưỡng tâm hồn Người ngày nào. Trong thư gửi anh cả Nguyễn Sinh Khiêm,
Bác viết:
“Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc Anh đau yếu tôi không
thể trông nom, lúc Anh tạ thế, tôi không thể lo việc. Than ôi! Tôi chịu tội bất
đễ trước linh hồn Anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy
sinh tình nhà vì phải lo việc nước.”
Thân sinh Bác, cụ Nguyễn Sinh Sắc, mất tại miền Nam, Bác còn chưa đến
thăm được.
Hồ Chí Minh ln mang trong mình nhiệt huyết cách mạng của Lê Nin.

Như đã nói ở trên, bằng trí tuệ và khả năng tiếp thu cái mới nhanh nhạy, Bác
Hồ đã tiếp nhận quan điểm triết học Mac- Leenin từ rất sớm. Tuy nhiên chỉ
học tập và kế thừa thơi là chưa đủ, điều cốt lõi là chính trong con người nhà
cách mạng này cũng có nhiệt huyết cao độ, mà đến khi gặp được tư tưởng soi
sáng thì bùng cháy mạnh mẽ. Nhiệt huyết cách mạng đã dẫn Người đi hết từ
quyết định táo bạo này đến kế hoạch lớn lao khác. Đầu tiên là quyết định làm
thay đổi làm thay đổi vận mệnh của một con người và sau này làm thay đổi cả
9


dân tộc – quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Tuổi thơ của cậu bé Cung đã
chứng kiến kiếp sống nô lệ lầm than của dân tộc dưới nhiều tầng áp bức.
Ngày vua Thành Thái bị thực dân Pháp bắt đi đầy, vua đã khẳng khái: “Muôn
dân nô lệ từng đàn. Vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta”. Khi đó Nguyễn Sinh
Cung đang ở Huế cùng cha, trước cảnh đó, cậu đã cúi mặt xuống để khơng rơi
lệ; nhưng cha cậu – nhà Nho yêu nước Nguyễn Sinh Sắc đã nhắc cậu ngẩng
mặt lên nhìn để khơng qn thù nhà nợ nước vẫn còn chưa trả xong. Từ đó
cho đến mấy chục năm về sau, người thanh niên u nước đó khơng bao giờ
cúi mặt nữa, khơng bao giờ chịu khuất phục trước bất kỳ sức mạnh nào; kể cả
sau này là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Văn Ba, Lý Thuỵ, Hồ
Quang, Bác Hồ, hay Hồ Chí Minh. Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước từ bến cảng Nhà Rồng với đôi bàn tay trắng. Năm 1920,
Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Rồi anh sang Liên
Xô để hoạt động cách mạng Quốc tế. Năm 1924, Lý Thụy sang Trung Quốc,
thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội ở Quảng Châu, đồng
thời viết cuốn Đường cách mệnh.
Sau 30 năm bôn ba, đến năm 1941, Người trở về Việt Nam, thành lập Mặt
trận Việt Minh, từ đây Người là Hồ Chí Minh, trực tiếp lãnh đạo Đảng Cộng
Sản Đông Dương và phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ngày 2
tháng 9 năm 1945, Người đọc bản Tun ngơn độc lập tại quảng trường Ba

Đình, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ, Bác viết:
“Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài, nhưng ngắn dài đều hợp lại
nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế
này hay thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta.”
Năm 1946, trong lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, Người khẳng định:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ quyết không chịu mất nước, quyết không
chịu làm nô lệ.”

10


Bằng niềm tin sắt đá và nhiệt huyết của mình, Người đã nêu gương sáng
của 1 người Việt Nam sống có lý tưởng:
Tồn dân kháng chiến, tồn diện kháng chiến
Trí ta đã quyết, lòng ta đã đồng.
Tiến lên chiến sĩ, tiến lên đồng bào
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông.
Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi
Thống nhất độc lập, nhất định thành công.
Trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tùng, Bác đã tự nhận là người khơng có gia
đình và khơng có con nhưng “gia đình tơi là Việt Nam, con cái tôi là các
thanh niên Việt Nam”. Hiếm có vị lãnh tụ nào nếm mật nằm gai chịu khổ
cùng quân dân trong những năm kháng chiến, rồi lại sát cánh cùng cả nước
dựng xây trong những năm hịa bình như Hồ Chí Minh đã làm. Cho dù không
phải tất cả đều diễn ra như mong muốn Trước những sai lầm nặng nề trong
cải cách ruộng đất bởi tính giáo điều bảo thủ và áp đặt cộng sản, Bác đã khóc
nhận trách nhiệm và tự phê bình trước toàn dân:
Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm là một đảng hỏng. Một đảng có gan
thừa nhận những khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có,

và tìm mọi cách sửa chữa những khuyết điểm đó, như thế mới là một đảng
mạnh dạn, chắc chắn, và chân chính.
Những năm sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ bị phá vỡ, đất nước bị chia cắt,
lại phải lo thù trong giặc ngoài; một mặt là sự đánh phá khốc liệt của đế quốc
Mỹ tại miền Bắc Việt Nam, một mặt là sự chống Cộng điên cuồng của chính
quyền tay sai miền Nam Việt Nam; dân tộc ta vẫn kiên cường đi theo con
đường đã vạch ra, đấu tranh không mệt mỏi giữa một bên là sức mạnh vật
chất kinh khủng và mù quáng với một bên là sự lựa chọn trí tuệ và tình
thương của từng con người. Trong những lúc cam go khó khăn nhất đó,
Người vẫn vững một niềm tin, bởi đến ngày thống nhất, chúng ta sẽ xây dựng
lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Một con người đã từng tun bố
“Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
11


áo mặc, ai cũng được học hành.” Thì trong suốt cuộc đời mình con người ấy
sẽ cịn theo đuổi điều gì ngồi nhiệt huyết cách mạng lớn lao?
Nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh rất nhiều người thường nói về vẻ ung dung
tự tại đáng nể phục ngay cả trong những tình huống khó khăn mà Helen tuốcmơ-rơ gọi là “sự ung dung tự tại của người chủ gia tộc”. Người Việt Nam gọi
Hồ Chí Minh là vị cha già dân tộc – người chủ gia đình Việt Nam. Ngồi
nguồn gốc tư tưởng, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
cịn chịu sự tác động sâu sắc của thực tiễn dân tộc và thời đại mà Người đã
sống và hoạt động. Chính q trình hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh ở
trong nước và khi cịn bơn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu và hoạt
động đã làm cho Người có một hiểu biết sâu sắc về dân tộc và thời đại, nhất là
thực tiễn phương Đông để xem xét, đánh giá và bổ sung cơ sở triết lý phương
Đông cho học thuyết Mác - LêNin. Nhưng vượt trên những hạn chế lúc bấy
giờ trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa: Cách
mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là "hậu bị quân" của

cách mạng vơ sản chính quốc; cách mạng chính quốc thắng lợi thì các thuộc
địa mới được giải phóng, Hồ Chí Minh vốn là người dân thuộc địa, hiểu sâu
sắc khát vọng và tiềm năng, sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã
nêu lên luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan
hệ chặt chẽ với cách mạng chính quốc, nhưng khơng hồn tồn phụ thuộc vào
cách mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể
"chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta", giành thắng lợi trước
cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc. Khi phân
tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng quan
điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách sáng
tạo, chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của các nước thuộc địa, đó là mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân thống trị và bè lũ tay sai với tồn thể
nhân dân, dân tộc, khơng phân biệt giai cấp, tôn giáo... Theo Người, ở Việt
Nam cũng như ở các nước phương Đơng, do trình độ sản xuất kém phát triển
nên sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước
phương Tây. Từ đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa
dân tộc chân chính với chủ nghĩa quốc tế, và nêu lên luận điểm: "Chủ nghĩa
dân tộc là động lực lớn của đất nước". Người còn cho rằng, chủ nghĩa dân tộc
12


nhân danh Quốc tế Cộng sản là "một chính sách mang tính hiện thực tuyệt
vời". Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh ln
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người khẳng định,
phải đi từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc khơng thốt
khỏi kiếp ngựa trâu thì ngàn năm giai cấp cũng khơng được giải phóng.
Đường lối của cách mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng
đó là đại đồn kết tồn dân trên nền tảng liên minh cơng nhân, nơng dân, trí

thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ
Chí Minh đã có những phát hiện sáng tạo về Đảng Cộng sản ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân cư; xác định quy luật
hình thành của Đảng là kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước". Đảng vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp,
vừa đại diện cho lợi ích của dân tộc. Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu
của Cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành chính quyền
về tay nhân dân, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã xác định: phải giành chính
quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng nếu
kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí. Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân
sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt động quân sự của thế giới và của
các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách
mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh đã
sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt Nam. Trong đó, nổi bật là
quan điểm về chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường
kỳ; về xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân với ba thứ quân chủ lực, địa
phương, dân qn tự vệ; về nền quốc phịng tồn dân, toàn diện, hiện đại...
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sau khi cách mạng vô sản thắng
lợi, giai cấp vơ sản sẽ thiết lập nên nền chun chính vơ sản. Vận dụng sáng
tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ
giải phóng dân tộc mà phát triển lên, Hồ Chí Minh cho rằng, "mục đích của
Quốc tế Cộng sản là làm thế giới vô sản cách mạng, thiết lập vô sản chun
chính", nhưng chúng ta phải căn cứ vào trình độ chính trị, kinh tế, xã hội của
đất nước mà đề ra đường lối, chiến lược cách mạng phù hợp, "chứ không phải

13


nước nào cũng phải làm cách mạng vô sản, lập chun chính như nhau". Vì
vậy, ngay từ Chánh cương vắn tắt (1930), Người đã nêu: Thiết lập Chính phủ

cơng nơng binh; tổ chức ra quân đội công nông. Tại Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5-1941), Người đề ra chủ trương thành lập "một nước Việt Nam dân
chủ mới theo tinh thần Tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân
chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng một giai cấp nào, mà của chung
toàn thể dân tộc". Từ hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã khám phá quy luật
vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong
hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia và thời đại mới để khái quát thành lý luận,
đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn, qua kiểm nghiệm của thực tiễn để
hoàn thiện, làm cho lý luận có giá trị khách quan, tính cách mạng và khoa
học. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm hoạt động tinh thần của cá nhân, do
Người sáng tạo trên cơ sở những nhân tố khách quan. Do đó, tư tưởng Hồ Chí
Minh phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố nhân cách, phẩm chất và năng lực tư
duy của chính người sáng tạo ra nó.Khơng chỉ ở nước ta mà có nhiều chính
khách, nhiều nhà hoạt động văn hóa-xã hội ở nước ngồi đã nêu nhiều ý kiến
sâu sắc về nhân cách, phẩm chất, về tài năng trí tuệ của Hồ Chí Minh. Ngay
từ năm 1923, lúc Hồ Chí Minh vào trạc tuổi 33, nhà báo Liên Xơ Ơ.
Manđenxtam khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh đã sớm nhận biết: "Từ Nguyễn ái
Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, khơng phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một
nền văn hóa tương lai". Văn hóa Nguyễn ái Quốc - Hồ ChíMinh ngày càng
tỏa sáng theo dòng thời gian của dân tộc và thời đại. Nhân cách, phẩm chất,
tài năng của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển
tư tưởng của Người. Đó là một con người sống có hồi bão, có lý tưởng, u
nước, thương dân, có bản lĩnh kiên định, có lịng tin vào nhân dân, khiêm tốn,
bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, thơngminh , có hiểu biết sâu rộng,
có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn, v.v.. Chính nhờ vậy, Người
đã khám phá sáng tạo về lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới, xây
dựng được một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách
mạng Việt Nam , đã vượt qua mọi thử thách, sóng gió trong hoạt động thực
tiễn, kiên trì chân lý, định ra các quyết sách đúng đắn và sáng tạo, biến tư
tưởng thành hiện thực cách mạng. Từ đó thể hiện được sư ung dung của một

người chủ gia tộc. Cuộc sống và cương vị của một người lãnh đạo đất nước

14


khơng hề làm ảnh hưởng tới lịng u thiên nhiên của người. Người ln mở
rộng lịng mình đón nhận thiên nhiên như một người bạn tri kỉ, một vị khách
tiên thong dong tự tại.. Người tự xưng là nhà thơ ,u thiên nhiên đẹp mà đến
nỗi khơng cầm lịng được vậy ,không thể hờ hững trước bức tranh thiên nhiên
trữ tình này đc,Bác đã cùng thiên nhiên làm bạn tâm giao tri kỉ ,ngắm trăng
như ngắm bạn tình ,yêu cảnh vật coi như hồn của sông núi vậy khi về làm
cách mạng ở chiến khu Việt Bắc,Người cũng đã viết nên thơ :“bàn đá chênh
vênh dịch sử đảng” cái cảnh thiên nhiên tưởng chừng vô hồn ấy vào tầm
ngắm của Người thì lại nên thơ : “cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”cái tinh
thần sẵn sàng ấy là nghe tiếng nứơc suối rừng Pắc Pó, nghe chim kêu vựon
hót ,ngắm cảnh thiên nhiên đẹp mệ hồn mà tức cảnh sinh tình ,tức cảnh làm
thơ ,mà làm cơng việc cao cả ,đó là phác thảo ra đường lối chính trị của
Đảng ,thiên nhiên cũng là nguồn cảm xúc vô tận đưa nhà thơ trở thành nhà
chiến sỹ cách mạng tài ba ,thiên tài của nhân loại. Người luôn tin tưởng vào
thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến cho dù còn nhiều gian khổ và hi sinh.
Người không hề nao núng trước bất cứ hoàn cảnh nào, ẩn đằng sau cái "thân
hình yếu đuối ấy là một tâm hồn " rắn như thép"...............
Thời đại ngày nay, đặc biệt là giai đoạn hiện nay đang diễn ra một cuộc đấu
tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng cũng như về hoạt động thực tiễn mà chúng ta
cần nhận thức đúng đắn để tiến hành những hoạt động quốc tế phù hợp phục vụ sự
nghiệp xây dựng đất nước vững mạnh và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta cần phải vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Về phía Đảng và Nhà nước: Cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với trí thức: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm,

nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng
ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Triệt để vận dụng tư tưởng đó vào trong
cơng tác nhân sự dùng người một cách có hiệu quả nhất và đúng đắn nhất. Có chế
độ, chính sách (gọi chung là cơ chế) đối với trí thức là các nhà khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội thật sự có năng lực quản lý và năng lực chun mơn, trong đó có
chính sách dùng người, chính sách tiền lương, chính sách khen thưởng, chính sách
nhà cửa, chính sách đối với những phát minh của họ. Xây dựng đội ngũ những

15


người làm công tác cấp uỷ, những người làm công tác tổ chức nhân sự thật giỏi, bảo
đảm phải nhìn cho ra được những con người tài thật, đức thật và những con người
tài giả, đức giả để gạt bỏ và trọng dụng. Phương thức “gạt bỏ và trọng dụng” là
phương thức cần được áp dụng trong công tác nhân sự đối với trí thức. Hiện nay,
chúng ta đang ở trong tình trạng dùng người lẫn lộn, giả, thật, thật, giả khơng phân
miêng, dẫn đến nghĩa tình khơng trọn vẹn, ảnh hưởng rất nhiều đến tâm tư, tình cảm
của trí thức. Phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực của đất nước. Đây là vấn đề vừa nổi cộm, vừa nóng bỏng nhất hiện nay. Người
nước ngoài họ kêu ca rất nhiều về chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam. Đào
tạo và giáo dục là vấn đề liên quan trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực. Theo
“Báo cáo giám sát toàn cầu về giáo dục cho mọi người – mục tiêu có đạt được vào
năm 2015 hay không?” đã được UNESCO công bố ngày 3-11-2008, thì Việt Nam
đang đứng thứ 79/129 nước được điều tra về chỉ số phát triển giáo dục (EDI). Dư
luận báo chí nước ngồi cho rằng, hệ thống giáo dục của Việt Nam dường như
khơng có khả năng cung cấp những lao động có tay nghề cao cần thiết cho một nền
kinh tế hiện đại. “Diễn đàn kinh tế thế giới” xếp giáo dục đại học của Việt Nam
đứng thứ 93/131 nước được điều tra, sau cả Bôlivia, Xrilanca, thua xa Thái Lan
(44/131), Philíppin (66/131), Inđơnêxia (65/131). Xây dựng chất lượng nguồn nhân
lực Việt Nam theo các tiêu chí nào cần phải bàn luận cho thấu đáo. Vấn đề ở chỗ

phải xác định rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước rất ít tài nguyên thiên nhiên như
ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên
nguồn nhân lực, hoặc tài nguyên con người. Phải có nhiều trường đào tạo nguồn
nhân lực, đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn với chất lượng cao. Phải nâng cao
hơn nữa đến chất lượng con người và chất lượng cuộc sống. Phải khơng ngừng nâng
cao trình độ học vấn của cả nước lên, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập
quốc tế.
Về phía người trí thức: Phải thường xuyên rèn luyện nhân cách của người
trí thức trong chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần yêu nước theo quan điểm
mới, gắn bó với dân tộc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân trong mọi hồn
cảnh. Phải xác định quan điểm mình đã làm gì cho dân tộc, cho đất nước
trước khi đưa ra địi hỏi đất nước, dân tộc phải cho mình những gì. Ra sức học
tập tấm gương của các bậc trí thức đàn anh thật sự tài năng, tiêu biểu như Tôn
16


Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Lương Đình Của, Trần Đức
Thảo, Vũ Đình Cự, Nguyễn Văn Hiệu, Phạm Minh Hạc,... Đi sâu nghiên cứu
khoa học, phấn đấu quyết liệt để có những cơng trình sáng giá, phục vụ thiết
thực đời sống xã hội và phát triển kinh tế; nâng cao trình độ nghiệp vụ chun
mơn, thành thục cơng việc; nâng cao trình độ lãnh đạo, trình độ quản lý, biết
vạch phương hướng, chiến lược, dự báo khoa học để giúp cho Đảng và Nhà
nước đề ra được những chính sách tốt. Thực hiện tốt: cần, kiệm, liêm chính,
chí công vô tư là những khái niệm đạo đức truyền thống của phương Đông,
được ông cha ta đặc biệt coi trọng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
dùng những khái niệm đạo đức truyền thống, nhưng lược bỏ đi những nội
dung đã lạc hậu, giữ lại những gì tốt đẹp và thêm vào những nội dung mới
phù hợp với thời đại.
Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính, là bốn đức cơ bản của con người.

Bác nói: Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng; Đất có bốn phương: Đơng,
Tây, Nam, Bắc; Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính; Thiếu một mùa,
khơng thành trời; Thiếu một phương, khơng thành đất; Thiếu một đức, không
thành người. Như vậy đạo đức là một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với con
người. Người giải thích nội dung cần, kiệm, liêm, chính rõ ràng, dễ hiểu, dễ
nhớ. Mặc dù bận trăm cơng nghìn việc, song Người đã dành thời gian viết hẳn
một cuốn sách giải thích 4 chữ "Cần, kiệm, liêm, chính", với bút danh Lê
Quyết Thắng vào năm 1949. Cần: Người phân tích cả nghĩa rộng, nghĩa hẹp.
Chỉ ra rằng cần không chỉ là cần cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai, mà cịn là
phải biết làm việc có kế hoạch, có sự phân cơng, tính tốn một cách khoa học,
là phải biết lao động có năng suất cao, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất
nhằm tăng năng suất lao động. Vì xét cho đến cùng, như Lênin nói, cái quyết
định thắng lợi của chế độ mới đối với chế độ cũ là ở chỗ nó đưa ra được năng
suất lao động mới cao hơn.Đối với cán bộ công nhân viên chức, Người cho
rằng: Cần là làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến muộn, về sớm, làm việc
mau chóng, chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để đến ngày
mai. Phải nhớ rằng dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta, trong
những thời giờ đó, ai lười biếng tức là lừa gạt dân.Nhìn trên tầm vĩ mơ, cả
nước cần cù siêng năng có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế
xã hội. Mỗi người siêng năng thì ắt sẽ tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc

17


chắn ấm no. Cả làng siêng năng thì làm phồn thịnh. Cả nước cần cù siêng
năng thì dân giàu nước mạnh.Theo Hồ Chí Minh, cần cù, siêng năng phải đi
liền với kế hoạch thì cần cù, siêng năng mới có tác dụng to lớn. Công việc bất
kỳ to nhỏ đều có điều nên làm trước, điều nên làm sau. Nếu khơng có kế
hoạch, thì sẽ hao tổn thì giờ, mất cơng nhiều mà kết quả ít.
Cần và chun phải đi đôi với nhau. Chuyên nghĩa là dẻo dai bền bỉ. Nếu

không chuyên, nếu một ngày cần mà 10 ngày không cần thì cũng vơ ích... cần
là ln ln cố gắng, chăm chỉ, cả năm, cả đời. Nhưng không làm quá trớn.
Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình để làm việc cho lâu dài.
Kiệm: được hiểu, đó chính là sự tiết kiệm: Tức là tiết kiệm sức lao động; tiết
kiệm thì giờ; tiết kiệm tiền của dân, của đất nước, của ngay cả chính mình;
phải biết tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to.
Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, khi khơng nên tiêu xài thì một đồng xu cũng
khơng nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc,
thì dù bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của, cũng vui lịng. Như thế mới đúng là
kiệm. Tiết kiệm thì phải kiên quyết chống xa xỉ, ăn chơi, ăn không ngồi rồi,
mà hãy tự mình lo chính cuộc sống của mình và xã hội v.v... Liêm: Tức là
trong sạch; không tham lam, không tham tiền của, địa vị, lợi danh, không
tham ăn ngon, mặc đẹp, sống n, khơng ham người tâng bốc mình... những
cán bộ ở các công sở, từ xã, phường cho đến Trung ương phải ln lấy chữ
Liêm làm đầu. Bác nói: "Liêm là thước đo có tình người hay khơng"; "Nếu
tham tiền của, địa vị, danh tiếng là bất liêm". Cán bộ phải thực hành - chữ
liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân "Quan tham vì dân dại" bởi lẽ nếu dân
hiểu biết khơng chịu đút lót, thì quan dù khơng liêm cũng phải hố liêm.
Chính vì thế dân phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ
liêm. Mỗi người phải nhận thấy rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ
tham lam là có tội với nước với dân. Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì
sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm,
chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn
minh tiến bộ. Thực tiễn trong cuộc sống hôm nay chúng ta đã mất những cán
bộ cách mạng đã từng vào sinh ra tử, chỉ vì một chốc lát họ khơng làm chủ
bản thân đã đánh mất chữ liêm trong lịng mình. Chính: là khơng tà, thẳng
thắn, đúng đắn v.v... đều là những đức tính cần thiết cho con người, mỗi gia

18



đình, mỗi tập thể, mỗi cơ quan, địa phương cũng như của cả dân tộc. Là người
làm việc công, phải có cơng tâm, cơng đức. Chớ đem của cơng dùng vào việc
tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải cơng bình, chính trực,
khơng nên tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư ốn. Mình có quyền dùng người thì
phải dùng những người có tài năng làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn, mà
kéo vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng
hơn mình. Phải trung thành với chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm
"quan cách mệnh".Theo Hồ Chí Minh mỗi người cần thực hiện đạo đức trên 3
mặt: Đối với mình: Khơng tự cao tự đại, vì tự cao tự đại thì thất bại. Thất bại
vì kiêu ngạo vừa cạn lại bé như đĩa như chén, cịn người khiêm tốn thì rộng
lại sâu như biển như sông.Đối với người: Không nịnh trên nạt dưới, vì nịnh
hót là đánh mất mình, mà đánh mất mình là sai lầm lớn nhất của đời người; vì
đối với loài người, lễ vật lớn nhất là sự bao dung. Đối với cơng việc: Khơng
dối trá lọc lừa, vì dối trá lọc lừa cũng như "tiền giả", "thuốc độc" nó vơ cùng
nguy hiểm. Việc cơng đặt trên việc tư. Việc thiện việc đúng dù nhỏ mấy cũng
làm, khó mấy cũng làm, việc ác việc sai trái dù nhỏ mấy cũng tránh, lợi mấy
cũng khơng làm. Chí cơng vơ tư: Có nghĩa là hết sức lo cho việc chung khơng
màng tư lợi. Hết sức về sự công bằng, đặt lợi ích của tập thể, của Đảng, của
cách mạng, của nhân dân, của Tổ quốc lên trên các lợi ích riêng tư. Thực hiện
chí cơng vơ tư cũng có nghĩa như thực hiện đạo đức, mình vì mọi người, mọi
người vì mình, theo tinh thần của chủ nghĩa tập thể. Hồ Chí Minh đã nêu ra
một quan điểm cơ bản là: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân, bởi vì, theo người: Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ thù nguy hiểm của
đạo đức cách mạng XHCN. "Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc
xây dựng CNXH. Cho nên thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi
của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ
gian ngoan, xảo quyệt, nó khéo léo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là
nguyên nhân sinh ra căn bệnh tham ơ, hủ hố, lãng phí, xa hoa, tham danh,
trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự kiêu, tự đại, coi thường tập thể, xem

khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, mệnh lệnh v.v... Một
người mà cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư thì đó là một con người đáng
kính. Vì đó là những người: "Giàu sang khơng thể quyến rũ; nghèo khó khơng
thể chuyển lay; uy vũ khơng thể khuất phục". Đó là những con người trọng

19


đạo lý, vì đạo lý, tơn thờ đạo lý, vì lẽ công bằng, không khuất phục quyền uy.
"Trợn mắt coi khinh ngàn lực sĩ; cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng". Khi nghiên
cứu Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư chúng ta thấy lung linh chữ
Nhân của Hồ Chí Minh. Chữ Nhân theo Hồ Chí Minh được hiểu:"Trung với
nước hiếu với dân là Nhân; cần, kiệm, liêm, chính là Nhân; yêu Tổ quốc yêu
đồng bào là Nhân; Nhân là phải đồng cam cộng khổ; Nhân là phải yêu quí săn
sóc bộ đội và nhân dân; Nhân với cả kẻ thù v.v...Trong sự nghiệp đổi mới đất
nước, cơ bản kinh tế - xã hội đất nước trong những năm qua được ổn định,
giữ vững và phát triển. Tuy nhiên do tác động tiêu cực trong quá trình mở
cửa, hội nhập đổi mới đất nước, nên thực tiễn xã hội nước ta vẫn đang tồn tại
một số hạn chế khuyết điểm. Nếu soi trong góc độ đạo đức xã hội thì chúng ta
có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức - Đây là cơ
hội cho kẻ thù khoét sâu để chống phá hòng làm giảm uy tín của Đảng, Nhà
nước ta với nhân dân. Bởi vậy, việc nâng cao giáo dục đạo đức cách mạng
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
tình hình hiện nay là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Vì vậy cần phải tăng
cường cơng tác giáo dục tư tưởng, chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên;
đồng thời xây dựng chỉnh đốn Đảng cốt nhằm cho Đảng ln vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong thời kỳ mới. Đặc biệt nâng
cao bản lĩnh chính trị, khả năng trí tuệ, năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức

cách mạng cho đội ngũ đảng viên. Đồng thời nắm vững và có khả năng vận
dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối của Đảng và xây dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân
dân. Hiểu rõ những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội. Đồng thời xây
dựng ý chí cách mạng cao, rèn luyện đạo đức cách mạng theo Di chúc và
gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh. Xây dựng lối sống lành mạnh; đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
các biểu hiện tiêu cực khác; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Cổ
nhân thường nói: "Danh chính thì ngơn thuận" xem xét từ chức trách, nhiệm
vụ của cá nhân mỗi người. Đối với mỗi chúng ta, thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư là xử lý mối quan hệ hằng ngày "mình đối với mình",

20



×