Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Biện chứng của quá trình nhận thức và thực tiễn vận dụng vào VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.28 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Khi trình bày quan niệm về nhận thức, trong lịch sử triết học đã xuất hiện
nhiều quan niệm khác nhau. Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất
phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau.
Song đây chính là con đường biện chứng của quá trình nhận thức: “ đi từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Với
việc đưa nội dung này vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mac - Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói
chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Khi đưa ra một vấn đề nào đó, mỗi người có một khả năng nhận thức khác
nhau, từ đó đưa ra những quan điểm, nhận định của riêng cá nhân mình. Để xét
xem bản thân những tri thức ấy có chân thực hay không thì nhận thức nhất thiết
phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo đánh giá,
đồng thời cải tạo thực tiễn, giúp cho nhận thức ngày càng trở nên đúng đắn hơn.
Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm giúp con
người nhận thức sáng suốt hơn, từ đó thực hiện những hành động đúng đắn, phù
hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tuân theo các quy luật khách quan nhằm
cải thiện đời sống con người ngày càng phát triển và ổn định hơn. Vấn đề này
được nghiên cứu dưới hình thức lý luận triết học có liên hệ thực tiễn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đoàn Quang Thọ đã hướng dẫn em
thực hiện đề tài này. Trong quá trình hoàn thành, em vẫn còn rất nhiều thiếu sót,
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy.

1


NỘI DUNG
I.

BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC


1.

Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác

Xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, chủ
nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác
của con người. Còn chủ nghĩa duy tâm khách quan lại coi nhận thức là sự “hồi
tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” mà nó đã từng chiêm
ngưỡng được nhưng đã bị lãng quên, hoặc cho rằng nhận thức là sự “tự ý thức về
mình của ý niệm tuyệt đối”.
Khác với chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan,
những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật
và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận
thức. Đến thời kì cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng nhận thức được
thế giới của con người hoặc hạn chế ở cảm giác bề ngoài của sự vật.
Đối lập với những quan điểm đó, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng
nhận thức được thế giới của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên, do sự hạn chế bởi tính
trực quan, siêu hình, máy móc mà chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức
là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động
của sự vật. Họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Chính vì
thế mà C.Mác đã nhận xét rằng: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa
duy vật từ trước tới nay, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là sự vật, hiện
thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình
thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người,
là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan” .
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước Mác đều quan niệm
sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận thức chưa
được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt là chưa thấy được đầy đủ vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức.


2.

Quan niệm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện
chứng

Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã tạo ra cuộc cách mạng trong
lý luận nhận thức. Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý, phát triển một cách sáng
tạo và được minh chứng bởi những thành tựu của khoa học, kỹ thuật, của thực
tiễn xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy
vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau
đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập đối với cảm
giác, tư duy và ý thức của con người.
Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Không
có cái gì là không thể nhận thức được, mà chỉ có cái con người chưa nhận thức
được nhưng sẽ nhận thức được. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách
quan bởi con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện
thực khách quan. Nhờ có nhận thức, con người mới có ý thức về thế giới, ý thức
2


về cơ bản là kết quả của quá trình nhận thức về thế giới. Thế giới vật chất tồn tại
khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức của con người, tác động vào các giác
quan sinh ra cảm giác, từ đó đi tới hình thành ý thức. Con người (cá nhân, nhóm
người, giai cấp, dân tộc và cả nhân loại) là chủ thể tích cực sáng tạo của nhận
thức. Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lí tưởng, tài năng, ý chí,
phẩm chất đạo đức,… đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ
khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức. Còn khách thể nhận thức là một
bộ phận nào đó của hiện thực khách quan mà nhận thức hướng tới, nắm bắt, phản

ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy, khách thể
nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực khách quan. Phạm vi của
khách thể được mở rộng đến đâu là tuỳ theo sự phát triển của nhận thức, của
khoa học. Như vậy, không chỉ chủ thể nhận thức mà cả khách thể nhận thức cũng
mang tính lịch sử - xã hội.
Ba là, nhận thức không phải là một hành động tức thời, giản đơn, máy
móc và thụ động, mà là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo.
Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo con đường “Từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Đó cũng chính là quá trình
nhận thức đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến
bản chất và từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Vì vậy, trong lý
luận nhận thức, cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy
luận một cách biện chứng. Nghĩa là đừng giả định nhận thức của chúng ta là bất
di bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không
hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở thành
đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào.
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Dựa trên những nguyên tắc cơ bản đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định: nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người trên cơ sở thực tiễn.
II.
BIỆN CHỨNG CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
Nhiệm vụ của nhận thức là đạt đến chân lý, nghĩa là đến tri thức có nội
dung phù hợp với hiện thực khách quan. Vì vậy, nhận thức phải dựa trên cơ sở
thực tiễn. Nhưng nhận thức diễn ra theo quá trình như thế nào, vấn đề này được
Lênin diễn tả qua luận điểm: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ
tư duy trừu tượng đến thực tiễn” - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.
Áp dụng phép biện chứng duy vật vào nhận thức, chúng ta nhận thấy rằng,

nhận thức không phải là một sự phản ánh ngưng đọng, sao chép máy móc hiện
thực, mà là một quá trình phát triển theo từng giai đoạn, những giai đoạn này liên
hệ với nhau và giai đoạn này nhất thiết phải là tiền đề của giai đoạn kia.

1.

Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng

Trực quan sinh động hay nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá
trình nhận thức. Đó là giai đoạn mà con người sử dụng các giác quan để tác động
trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Trực quan sinh động được
biểu hiện dưới ba hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Khi các sự vật trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta thì gây
3


nên trong ta những cảm giác. Mỗi cảm giác giúp ta nhận biết một thuộc tính nào
đó của sự vật. Khi tiếp xúc với sự vật, sự vật thường cùng một lúc tác động lên
nhiều giác quan của chúng ta, giúp ta cảm nhận nhiều thuộc tính của nó. Cảm
giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng
lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Chính vì thế, Lênin đã
viết: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” .
Nhưng nếu dừng lại ở cảm giác thì nhận thức mới chỉ hiểu biết được từng
thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng. Điều đó là không đủ. Bởi vì, muốn
tìm hiểu bản chất của sự vật, hiện tượng phải nắm được một cách tương đối toàn
vẹn các thuộc tính của các sự vật, hiện tượng ấy. Đây là một điều tất yếu của quá
trình nhận thức và cũng là một mâu thuẫn giữa bộ phận và toàn bộ trong nhận
thức cần phải giải quyết. Vì thế, nhận thức không dừng lại ở cảm giác mà phải
tiến lên tri giác.
Sự tổng hợp của những cảm giác phản ánh những thuộc tính trong mối

liên hệ hữu cơ với nhau về sự vật được gọi là tri giác. So với cảm giác thì tri giác
đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn, hoàn chỉnh
hơn. Tuy nhiên, nhận thức vẫn chưa thể dừng lại ở tri giác. Bởi vì đến tri giác,
con người mới chỉ có được hình ảnh trực quan và tương đối hoàn chỉnh về đối
tượng. Trong khi đó, nhận thức không phải lúc nào cũng đòi hỏi phải có các sự
vật xuất hiện trước các giác quan, mà nhiều khi nó chỉ xuất hiện một lần rồi biến
đổi, nhưng con người vẫn phải nhận thức về nó. Như vậy, ở đây xuất hiện một
mâu thuẫn giữa sự vật hiện có với thực tế sự vật không hiện có trước các giác
quan của con người. Khi giải quyết mâu thuẫn đó, nhận thức phải chuyển lên một
nấc thang cao hơn đó là biểu tượng.
Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn
trực quan sinh động. Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại
trong bộ óc con người về sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào
các giác quan. Tuy là hình ảnh cảm tính nhưng biểu tượng đã chứa đựng những
yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ sự phối hợp, bổ sung lẫn cho
nhau của các giác quan nhưng đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng
hợp và ít nhiều mang tính chất trừu tượng hoá.
Như vậy, cảm giác, tri giác và biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau
của hình thức nhận thức cảm tính. Giai đoạn nhận thức cảm tính đem lại cho ta
những hiểu biết còn dừng lại ở cái bề ngoài, cái hiện tượng, cái đơn nhất mà ít
nhiều còn mang tính chất ngẫu nhiên. Những cảm giác, tri giác và biểu tượng tự
nó không thể nào phản ánh được những thuộc tính bản chất, những quy luật vận
động của sự vật.
Do đó, dừng lại ở nhận thức cảm tính sẽ gặp phải mâu thuẫn giữa một
bên là thực trạng chưa phân biệt được đâu là cái bản chất, tất yếu, bên trong, đâu
là cái không bản chất, ngẫu nhiên bên ngoài với một nhu cầu tất yếu phải phân
biệt được những cái đó thì con người mới có thể nắm được quy luật vận động và
phát triển của sự vật. Khi giải quyết mâu thuẫn ấy, nhận thức sẽ vượt lên một
trình độ mới, cao hơn về chất. Đó là trình độ nhận thức lý tính hay còn gọi là giai
đoạn tư duy trừu tượng.

Tư duy trừu tượng bắt nguồn từ nhận thức cảm tính, nhưng phản ánh hiện
thực sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn, tức là có thể phản ánh được

4


những thuộc tính và mối quan hệ bản chất mang tính quy luật của sự vật. Sở dĩ có
được sức mạnh đó là vì tư duy trừu tượng đã sử dụng phương pháp trừu tượng
hoá và khái quát hoá những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp. Tư duy trừu
tượng được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Khái niệm
là kết quả của quá trình trừu tượng hoá và khái quát hoá những tài liệu do nhận
thức cảm tính đem lại. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính
chủ quan. Mọi khái niệm khoa học đều được hình thành, bổ sung và phát triển
trên cơ sở phản ánh những thành tựu của khoa học và thực tiễn. Có thể xem
những khái niệm đã hình thành như những vật liệu để xây dựng nền tri thức khoa
học, hệ thống lý luận.
Phán đoán là một trong những hình thức của tư duy trừu tượng, liên kết
các khái niệm đã có lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một
thuộc tính nào đó của sự vật hiện tượng. Theo trình độ phát triển của nhận thức,
phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù
và phán đoán phổ biến. Trong đó phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự bao
quát rộng lớn nhất về đối tượng. Nếu như khái niệm phản ánh những thuộc tính
chung, bản chất của sự vật, hiện tượng thì phán đoán phản ánh những mối quan
hệ, liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và các mặt giữa chúng. Như vậy phán
đoán là một hình thức biểu đạt các quy luật khách quan. Một phán đoán phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan sẽ mang lại giá trị chân thực, nếu phản ánh không
chân thực là giả dối. Như vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở phán đoán mà nhất
thiết phải có suy luận.

Suy luận là sự liên kết một số phán đoán đã biết lại với nhau để rút ra một
phán đoán mới. Trong suy luận, chúng ta nhận thức thế giới một cách gián tiếp
dựa trên việc sử dụng những tri thức đã đạt được để suy ra tri thức mới. Tuỳ theo
sự kết hợp các phán đoán theo trật tự nào (từ phán đoán đơn nhất qua phán đoán
đặc thù, rồi tới phán đoán phổ biến hoặc ngược lại) mà người ta có được hình
thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Như vậy tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực khách quan thông qua
những hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận. Những hình thức này
không tách rời nhau, chúng có mối liên hệ biện chứng, tác động và quy định lẫn
nhau. Tư duy trừu tượng là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp
mang tính trừu tượng và khái quát. Đó là sự phản ánh sâu sắc, là sự nhận thức
bằng khái niệm. Khái niệm là sản phẩm cao nhất của bộ óc con người bởi vì khái
niệm phản ánh được những thuộc tính, bản chất, tính quy luật của sự vật.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành
chu trình nhận thức. Chúng có những đặc điểm khác nhau nhưng thống nhất biện
chứng với nhau. Mỗi giai đoạn, mỗi yếu tố có vị trí và vai trò của nó trong quá
trình nhận thức. Chúng bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, đem lại cho con người những
hiểu biết sâu sắc về sự vật. Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn cảm tính thì
con người sẽ không thể nào khám phá ra được bản chất, quy luật của sự vật.
Ngược lại, nếu tư duy trừu tượng không bắt nguồn từ cảm tính thì sẽ không có cơ
sở và khả năng phản ánh đúng đắn sự vật được. Cho nên nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính là hai giai đoạn, hai yếu tố không thể tách rời nhau của một quá

5


trình nhận thức thống nhất. Từ nhận thức cảm tính đến lý tính là sự chuyển hoá
biện chứng, là sự nhảy vọt từ sự hiểu biết cụ thể cảm tính đến sự hiểu biết khái
quát về bản chất sự vật.


2.

Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn

Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng cơ bản của triết
học Mác - Lênin nói chung và của lý luận nhận thức macxit nói riêng. Trong lịch
sử triết học không phải mọi trào lưu đều đã đưa ra quan niệm một cách đúng đắn
về phạm trù này. Theo chủ nghĩa duy tâm, thực tiễn như là hoạt động tinh thần
sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất.
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác mặc dù đã hiểu thực tiễn là một hành
động vật chất của con người, nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện,
bẩn thỉu. Nó không có vai trò gì đối với nhận thức của con người.
Khắc phục những yếu tố sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu
tố hợp lí trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn
và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người. Hai ông cho rằng: thực tiễn là toàn bộ những hoat động vật
chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự
nhiên và xã hội. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng
trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng
những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi
chúng theo những mục đích của mình. Những hoạt động ấy là những hoạt động
đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách
quan và không ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kì lịch sử.
Chính vì vậy mà thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và
mang tính lịch sử - xã hội.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú,
song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã

hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức
hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con
người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của
cải và những điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại của mình và xã hội. Còn
hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác
nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội
phát triển. Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn , được
tiến hành nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên
cứu.
Mỗi hình thức hoạt động có một chức năng quan trọng khác nhau, song
giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt
động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với
các hoạt động khác. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các
hình thức hoạt động khác. Ngược lại, các hình thức hoạt động chính trị và thực
nghiệm khoa học cũng không hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào hoạt
động sản xuất vật chất. Chúng cũng có tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt
6


động sản xuất phát triển.
Như vậy, chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động
cơ bản đó làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có
vai trò quan trọng đối với nhận thức.
Mặt khác, quá trình nhận thức, mục đích của nó không phải chỉ là để nhận
thức. Hơn nữa, tư duy trừu tượng là sự phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan,
muốn biết kết quả của nhận thức đúng hay sai lầm buộc phải trở về thực tiễn để
kiểm nghiệm, đồng thời áp dụng vào thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có
hiệu quả.
Do đó, thực tiễn chính là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Bởi vì, thực tiễn là những hoạt động vật chất có

tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức. Nó luôn luôn vận
động và phát triển trong lịch sử, nhờ đó mà thúc đẩy nhận thức cùng vận động,
phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài
sự kiểm tra của thực tiễn. C.Mác đã viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn
đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý” .
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý mà thực tiễn là điểm
bắt đầu và cũng là điểm kết thúc của một quá trình. Như thế, sự kết thúc này lại
là sự bắt đầu của một quá trình mới và cứ thế vận động mãi mãi, làm cho nhận
thức của con người ngày càng sâu sắc hơn, nắm bắt được bản chất và các quy
luật của thế giới khách quan, phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người
III. THỰC TIỄN VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM

1.

Kinh tế Việt Nam thời kì 10 năm đầu sau khi đất nước được thống
nhất (1976 – 1985)

Ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1975), dưới
sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta bắt đầu tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi cả nước. Giữa thập niên 70, với nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ, lại bị chiến tranh kéo dài tàn phá nặng nề, Việt Nam đặt mục tiêu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa trong
hoàn cảnh đất nước vừa mới hoà bình thống nhất. Các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển, Liên Xô xây dựng cơ
sở vật chất ban đầu của chủ nghĩa cộng sản. Hoàn cảnh đó tạo nhiều thuận lợi
cho Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tại đại hội IV (12/1976) của Đảng đã
xác định đường lối chung và đường lối xây dựng nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa

trong thời kì mới ở nước ta.
Đường lối xây dựng nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa do đại hội IV đề ra như
sau: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên
cơ sở phát triển công nghiệp và nông nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp
và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng
kinh tế Trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn
7


thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng” .
Đường lối đó được cụ thể hoá bằng việc xác định miền Bắc trên cơ sở đẩy
mạnh công nhiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tiép tục củng cố và hoàn thiện quan hệ
sản xuất mới, xây dựng và cải tiến chế độ quản lý, mở rộng và củng cố thành
phần kinh tế quốc doanh về mọi mặt. Việc các hợp tác xã nhanh chóng mở rộng
quy mô, tổ chức lại thành quy mô lớn trên địa bàn cấp huyện đã trở thành một
phong trào rầm rộ và rộng khắp. Ở miền Nam, phấn đấu đến năm 1980 về cơ bản
đã hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa. Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các
tư bản tư doanh thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và tiểu thương được tiến hành
mạnh mẽ, ồ ạt trong hai năm 1977 và 1978. Mô hình hợp tác xã quy mô lớn ở
miền Bắc được áp dụng rộng rãi vào các tỉnh miền Nam, nên đến năm 1980, việc
đưa nông dân vào hợp tác xã đã trở nên phổ biến.
Tuy nhiên với một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lại bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, chủ yếu bằng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tổ chức lại sản xuất
và mở rộng quy mô hợp tác xã, áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với
hy vọng có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn, chúng ta đã bộc lộ tư tưởng chủ quan,
nóng vội, duy ý chí cả trong lý luận lẫn chỉ đạo thực tiễn. Điều đó đã dẫn đến kết
quả thực tế trái với ý định và dự kiến tốt đẹp ban đầu. Các mục tiêu đại hội IV đề

ra đều không đạt được. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất chậm chạp, thậm
chí đến cuối những năm 70 đã bước vào khủng hoảng, sản xuất trì trệ, giá cả tăng
nhanh, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Trước tình hình đó, Hội nghị
Trung ương 6 khoá IV năm 1979 đã đánh giá lại tình hình, chỉ ra những sai lầm
trong lãnh đạo kinh tế, chủ yếu là trong viêc xây dựng kế hoạch mang tính tập
trung quan liêu, chưa kết hợp kế hoạch với thị trường, chưa sử dụng đúng đắn
các thành phần kinh tế cá thể và tư sản dân tộc ở miền Nam, chậm khắc phục sự
trì trệ, bảo thủ trong việc xây dựng các chính sách cụ thể về kinh tế, tài chính để
khuyến khích sản xuất, có biểu hiện giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền Nam.
Vì vậy, tháng 3 năm 1982, tại đại hội lần V của Đảng đã xác định những
chủ trương lớn, đề ra đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt bao gồm
thời kì 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài đến năm 1990: “trong 5 năm 1981 - 1985
và những năm 80, cần tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,
ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số nghành
công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng
và công nghiệp nặng trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Quyết tâm đẩy
mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, hoàn thành về cơ bản hợp tác hoá nông nghiệp ở
các tỉnh phía Nam với hình thức phổ biến là tập đoàn sản xuất. Phấn đấu hoàn
thành về cơ bản cải tạo thương nghiệp, vận tải công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp ở các tỉnh phía Nam bằng cách làm và hình thức thích hợp trong một thời
gian nhất định, ở miền Nam vẫn còn 5 thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể,
công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư nhân)” .
Trong thời kì này, tuy có nhiều khó khăn trở ngại, nhưng nước ta cũng đã
đạt được một số thành tựu quan trọng, một số chỉ báo có mức tăng trưởng khá
hơn so với thời kì 1976 - 1980. So với năm 1976, tổng sản phẩm xã hội năm
1980 chỉ tăng 4,2% thì trong giai đoạn 1981 - 1985 tổng sản phẩm xã hội đã tăng

8



42,3%, bình quân tăng 7,3%/ năm, riêng năm 1985 tăng 50,5%. Hàng trăm công
trình xây dựng tương đối lớn trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao
thông vận tải, văn hoá xã hội… đã được xây dựng trên khắp các miền của đất
nước, góp phần phát triển thêm một bước lực lượng sản xuất. Tài sản cố định của
nền kinh tế quốc dân cũng đã được tăng lên đáng kể, so với năm 1976 thì năm
1980 là 129,2% nhưng đến năm 1985 đã tăng 205,3% (tính theo giá năm 1982).
Sau khi thực hiện chủ trương tập trung cao độ cho sản xuất nông nghiệp,
coi “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” do Đại hội lần V đề ra cùng với chế độ
“khoán 100”, chúng ta đã ngăn chặn được tình hình giảm sút của những năm
trước. Nông dân nhiệt tình và đầu tư nhiều hơn cho sản xuất. Đầu tư của Nhà
nước cho ngành nông nghiệp cũng được tăng cao. Trong thời kì này, Nhà nước
đã thực hiện chủ trương khai hoang, phục hoá, tăng vụ, diện tích gieo trồng đã
được tăng thêm 1,5 triệu ha, đã cung ứng thêm cho nông nghiệp gần 10.000 máy
kéo các loại, đưa tỉ lệ cơ giới hoá làm đất lên 25% diện tích gieo trồng. Do vậy,
sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn 1981 - 1985 đã đạt một bước phát triển
quan trọng. Năm 1985, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 126,9% so với
năm 1980, bình quân hàng năm tăng 4,9%. Sản lượng lương thực tăng 27%, đạt
18,2 triện tấn, bình quân đầu người đạt 304 kg (so với mức 268 kg năm 1980).
Nhờ những cố gắng trên mặt trận nông nghiệp mà lương thực, thực phẩm và
những yêu cầu bức thiết của đời sống nhân dân cơ bản đã được đảm bảo.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng rất quan tâm đến vấn đề phát triển
công nghiệp, tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Để
tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước trong những năm qua, Nhà nước đã
đầu tư vào các ngành công nghiệp gần 65 tỉ đồng (tính theo giá năm 1982),
chiếm trên 40% tổng số vốn đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất, có tốc độ tăng
cao hơn mức tăng bình quân của toàn bộ khu vực vật chất. Trong đó chúng ta đã
đầu tư vào nhóm A trên 70% và nhóm B dưới 30%. Trong giai đoạn này, nhiều
công trình tương đối lớn đã được xây dựng như nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thuỷ

điện Hoà Bình, khu dầu khí Vũng Tàu… Do đó, giá trị tài sản cố định của toàn
ngành công nghiệp đã tăng lên đáng kể, đạt 18,6 tỉ đồng, bằng 40% tổng giá trị
tài sản cố định mới tăng thuộc khu vực này. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp
tăng 57,4%, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 9,5%. Kết quả một mặt là do
những cải tiến quản lí trong công nghiệp quốc doanh theo tinh thần quyết định
25/CP, làm cho các xí nghiệp quốc doanh trở nên năng động, sản xuất công
nghiệp được “bung ra”, cơ cấu công nghiệp điều chỉnh theo hướng đẩy mạnh hơn
các ngành công nghiệp nhẹ, nên năm 1985 tỷ trọng của công nghiệp nhẹ trong
giá trị tổng sản lượng công nghiệp chiếm 67,3% (so với 56,9% năm 1980).
Mặc dù có những tiến bộ đáng kể trong giai đoạn này, nhưng nhìn chung
công nghiệp Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé, năm 1985 mới thu hút được 10,7%
tổng số lao động xã hội, chủ yếu là lao động thủ công với năng suất thấp. Tuy
chiếm 41% giá trị tài sản cố định của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhưng công
nghiệp chỉ tạo ra được 28,2% thu nhập quốc dân, hiệu quả sản xuất trên một
đồng vốn đầu tư rất thấp. Công nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, nền kinh tế nước ta trong thời kì
này cũng bộc lộ nhiều yếu kém, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần

9


thứ hai và thứ ba không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra thì chỉ có 7
chỉ tiêu đạt 50 - 80% so với kế hoạch, còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 - 48%. Điều
đó đã ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân lao
động.
Cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có của nền kinh tế quốc dân còn yếu kém,
thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ kĩ thuật nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình
độ kĩ thuật của những năm 1960 trở về trước); công nghiệp nặng còn xa mới đáp
ứng được nhu cầu tối thiểu; công nghiệp nhẹ bị phụ thuộc 70 - 80% nguyên liệu

nhập khẩu. Do đó, đại bộ phận lao động xã hội vẫn đang còn là lao động thủ
công. Nền kinh tế chủ yếu vẫn còn là sản xuất nhỏ. Phân công lao động xã hội
kém phát triển. Năng xuất lao động xã hội rất thấp.
Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng.
Sản xuất phát triển chậm, không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ
ra. Sản xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa vào nguồn bên ngoài
ngày càng lớn. Năm 1985, dân số cả nước là gần 59,9 triệu người, tăng bình quân
2,3%/ năm trong 10 năm. Để đảm bảo việc làm và thu nhập của dân cư không
giảm thì ít nhất nền kinh tế phải tăng bình quân 7%/ năm. Nhưng thực tế nền
kinh tế không đạt được như vậy, nên sản xuất trong nước luôn không đáp ứng
được nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của dân cư. Trong 10 năm này, thu nhập quốc
dân sản xuất trong nước chỉ bằng 80 - 90% thu nhập quốc dân sử dụng. Toàn bộ
quỹ tích luỹ lớn ( rất nhỏ bé) và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn
nước ngoài (riêng lương thực đã phải nhập 5,6 triệu tấn trong thời gian 1976 1980). Năm 1985, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp - USD. Các hố ngăn cách giữa
nhu cầu và năng lực sản xuất ngày càng sâu.
Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nhất là đối với cán bộ, công nhân
viên, lực lượng vũ trang và một bộ phận nông dân. Tiền lương thực tế bình quân
hàng tháng của cán bộ công nhân viên chức so với năm 1975 thì năm 1980 chỉ
bằng 51,1%; năm 1984 bằng 32,7%. Do đó, tiêu cực và bất công xã hội tăng lên.
Trật tự xã hội bị giảm sút. Những điều đó chứng tỏ trong thời gian này nước ta bị
khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng.
Sở dĩ nền kinh tế nước ta còn có những hạn chế yếu kém như trên, một
phần là do chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ, lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá nặng nề với hậu quả rất nghiêm trọng.
Mặt khác, trong công tác xây dựng và quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước
cũng đã mắc phải một số sai lầm khuyết điểm như sau:
+)Về đánh giá tình hình, xác định mục tiêu và bước đi
Sau khi nước nhà được thống nhất, việc đánh giá tình hình cụ thể về các
mặt kinh tế - xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu xót. Do đó, trong 10 năm qua
đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ

sở vật chất, kĩ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý (có tư tưởng chủ quan,
nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết…Trong 5 năm 1976 - 1980, trên
thực tế, chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ
các tiền đề cần thiết).
+) Về bố trí cơ cấu kinh tế
Ta có sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, thường chỉ xuất phát từ lòng
mong muốn đi nhanh không tính tới điều kiện và khả năng thực tế. Trong các kế

10


hoạch 5 năm đã thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô
lớn, không tập trung sức giải quyết về vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
+) Về cải tạo xã hội chủ nghĩa
Trong lĩnh vực này cũng có sai lầm biểu hiện ở chỗ nóng vội, muốn xoá
bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư
bản tư nhân thành quốc doanh. Trong cải tạo, cách làm thường gò ép, chạy theo
số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả, sau những đợt làm nóng vội lại buông
lỏng quản lý. Do đó, không ít tổ chức được gọi là công tư hợp doanh, hợp tác xã,
tổ hợp tác sản xuất chỉ là hình thức, không có thực chất của quan hệ sản xuất
mới.
+) Về cơ chế quản lí kinh tế
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp được duy trì quá lâu, đã
gây tác hại trong nhiều năm, nhưng chưa bị xoá bỏ. Nhiều chính sách thể chế đã
lỗi thời chưa được thay đổi. Trong thời gian này tuy có một số cải tiến quản lý
nhưng còn chắp vá, thiếu đồng bộ, không ăn khớp, thậm chí trái ngược nhau.
Về cơ chế mới, chúng ta chỉ mới đưa ra được phương hướng, còn nội
dung, hình thức, bước đi, cách làm cụ thể còn chưa rõ. Đặc biệt khi lĩnh vực phân
phối lưu thông căng thẳng và rối ren, thâm hụt ngân sách nặng nề dẫn đến lạm

phát trầm trọng, dẫn đến cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền cuối năn 1985,
nhưng đã phạm sai lầm về các giải pháp cụ thể trong việc định giá, định mức
lương, đổi tiền, xác định bước đi trong điều chỉnh giá - lương - tiền thiếu chuẩn
bị chu đáo.
Do chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, lại điều hành không nhạy
bén, nên từ trên xuống dưới hành động không thống nhất. Một số người và cơ sở
lợi dụng sơ hở của cơ chế mới để mưu lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ (đục
nước béo cò).
Rõ ràng về mặt quản lý, ta còn thiếu hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lý,
lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và học tập kinh nghiệm của các
nước anh em.
+) Về thực hiện quản lý
Quản lý bị buông lỏng, pháp luật và kỉ cương của Nhà nước bị vi phạm
ngày càng phổ biến. Ngoài ra chúng ta còn thấy rằng: “Những sai lầm và khuyết
điểm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt
động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của
mọi nguyên nhân” .
Như vậy thời kì 1976 - 1985, trên phạm vi cả nước đã áp dụng mở rộng
mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp mà miền Bắc đã xây dựng trước
đây. Những nhược điểm của mô hình kinh tế này đã trở thành sức cản lớn đối với
sự phát triển đất nước, làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trở
nên gay gắt. Cuộc sống đòi hỏi cấp thiết phải thay đổi mô hình cũ bằng mô hình
mới, phù hợp để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Đổi mới trước hết trên
lĩnh vực kinh tế đã trở thành vấn đề sống còn của dân tộc.

2.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội VI của Đảng với tinh thần “nhìn thẳng vào

sự thật, đánh giá đúng sự thật, đã nghiêm khắc tự phê bình những chủ trương,
11


chính sách sai lầm vừa qua, mang tính giáo điều, bảo thủ, lại vừa chủ quan, duy ý
chí trong việc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó. Đại hội đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, đi vào
thế ổn định và phát triển. Đường lối đổi mới của chúng ta dựa trên cơ sở tổng kết
những kinh nghiệm thực tiễn, những sáng tạo của nhân dân và trên cơ sở nghiên
cứu lý luận, từ bỏ những ảo tưởng đã từng có trong cán bộ và nhân dân về một
mô hình có sẵn, cũng như những ảo tưởng chủ quan, duy ý chí, cần phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan, “lấy dân làm
gốc”, và được tiến hành từng bước phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước.
Đại hội VI của Đảng (1986) là một điểm mốc đặc biệt quan trọng của quá trình
đổi mới, bởi ở đó lần đầu tiên hình thành một cách toàn diện nhất mục tiêu, nội
dung, con đường và các biện pháp tiến hành đổi mới. Có thể diễn đạt một số nội
dung cơ bản của đổi mới đã và đang được thực hiện kể từ Đại hội VI cho đến nay
như sau:
a. Đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội với tính cách là mục tiêu đi tới
của dân tộc Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh. Mục tiêu đó thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, được chủ tịch Hồ Chí
Minh kế thừa từ truyền thống hàng ngàn năm của dân tộc và phát triển với những
nội dung mới trong thời đại ngày nay. Chính vì vậy, việc kiên trì định hướng xã
hội chủ nghĩa đã được toàn thể nhân dân Việt Nam ủng hộ tích cực.
b. Chuyển nền kinh tế từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu,
bao cấp dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
c. Kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội, đảm bảo
giữ vững ổn định chính trị xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, sự bình
đẳng giữa các dân tộc trong nước. Mở rộng dân chủ, xây dựng nền văn hoá tiên

tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tạo dựng một xã hội văn minh.
d. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân. Thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”. Từng bước xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân. Con người được đặt ở vị trí trung tâm của mọi chính sách của
Đảng và Nhà nước.
e. Thực hiện chính sách đối ngoại đa phương, mở cửa, tăng cường giao lưu,
hợp tác quốc tế với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn với tất các các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Đổi mới là đường lối sáng tạo, độc đáo, độc lập, tự chủ của Việt Nam, phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của dân tộc ta trong giai đoạn hiện nay. Chính
vì vậy, trong khi cải tổ, cải cách, sửa chữa sai lầm ở các nước gặp thất bại thì đổi
mới của Việt Nam đã đạt được những thành tựu cơ bản, to lớn và có ý nghĩa
quan trọng trên nhiều phương diện.
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng
sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Ở
nước ta, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, lấy sản
xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến

12


bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói
giảm nghèo. Từ những mục tiêu đề ra ở trên, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta trong những năm vừa qua đã có nhiều
bước chuyển biến mới.
Vượt qua những khó khăn, thử thách do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh
ở trong nước và những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới và khu

vực, năm 2006 nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào về tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) đạt 8,1%, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong đó, khu vực nông - lâm thuỷ sản tăng 3,4%, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 10,37%, khu vực dịch
vụ tăng 8,29%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng khu vực
công nghiệp - xây dựng từ 40,97% năm 2005 tăng lên 41,52% năm 2006, khu
vực dịch vụ từ 38,01% tăng lên 38,08% và khu vực nông - lâm - thuỷ sản từ
21,02% giảm xuống còn 20,40% trong thời gian tương ứng.
Nhìn chung các ngành, các lĩnh vực đều duy trì được đà tăng trưởng khá.
Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Năm 2006,
sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng trưởng khá cao. So với năm 2005, giá trị
sản xuất nông nghiệp ước tính tăng 3,1% trong đó trồng trọt tăng 1,9%; chăn
nuôi tăng 7,7%; lâm nghiệp tăng 1,2% và dịch vụ tăng 2,7%. Kim ngạch xuất
khẩu ước đạt 7,16 tỉ USD, tăng 19,7% so với năm 2005. Dù bị thiên tai, sâu
bệnh phá hoại nặng nề nhưng sản lượng lương thực có hạt vẫn đạt 39,65 triệu
tấn, không những đảm bảo đủ tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu được 4,7
triệu tấn gạo. Sản xuất lúa đang chuyển dần theo hướng ổn định và giảm dần diện
tích, đồng thời chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, tăng diện tích lúa đông xuân, giảm
diện tích lúa mùa năng suất không ổn định, tăng cường đầu tư thâm canh tăng
năng suất và tăng sản lượng, đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị
trường trong nước và xuất khẩu gạo.
Bên cạnh đó, theo tổng cục thống kê, năm 2006 ngành công nghiệp trong
nước cũng tăng trưởng cao. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17,1% kim ngạch
xuất khẩu, đạt hơn 30 tỉ USD, chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước, tăng 22,4% so với năm 2005. Ngành cũng đã đạt kỉ lục về thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 490 dự án và số vốn trên 5 tỉ USD. Trong đó,
khu vực Nhà nước tăng 9,1% (trung ương tăng 11,9%, địa phương tăng 2%), khu
vực ngoài Nhà nước tăng 23,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,8%.
Trong ba ngành công nghiệp cấp một, giá trị sản xuất công nghiệp khai thác
chiếm 7,8% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và tăng 1,1% so với năm trước. Sản
xuất phân phối điện, ga và nước chiếm 5,7%; tăng 13%. Công nghệ chế biến

chiếm 86,4%; tăng gần 19%, là lĩnh vực đóng góp chính vào tăng giá trị sản xuất
công nghiệp cả nước năm 2006.
Nghị quyết Đại hội Đảng đã được cụ thể hoá bằng nhiều chính sách hinh tế
vĩ mô nhằm đạt mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu. Một trong những thành tựu quan
trọng nhất của chính sách đổi mới là tổng mức lưu thông hàng xuất - nhập khẩu
đạt 84 tỉ USD, tăng 22,5% so với năm 2005. Trong đó xuất khẩu tăng đột biến,
giá trị kim ngạch ước đạt 39,6 tỉ USD, tăng 22,1%, vuợt xa mục tiêu đề ra đầu
năm là tăng 16,4%. Đáng chú ý trong số các mặt hàng xuất khẩu đã có tới 9 mặt
hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD. Hiện nay trong khối ASEAN, chúng

13


ta đứng thứ 6 sau Philipine, kim ngạch chiếm 0,3% so với tổng xuất khẩu của thế
giới.
Những thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước cũng dần tạo
thế chủ động trong điều hành sản xuất kinh doanh của các đơn vị chủ thể. Việc
tham gia trực tiếp của người sản xuất vào quá trình tiêu thụ sản phẩm ở thị
trường trong nước và ngoài nước đã gắn bó chặt chẽ sản xuất với tiêu dùng, chất
lượng sản phẩm nâng lên rõ rệt, cải thiện sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
trên thị trường quốc tế. Cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng tăng sản
phẩm chế biến sâu và tinh, giảm tỉ trọng hàng thô hay mới sơ chế. Tuy hàng thô
hay mới sơ chế còn khá cao nhưng có thể nói xu hướng tăng tỉ trọng hàng chế
biến là rõ nét. Đây là một hướng đi đúng đắn, đặc biệt trong bối cảnh nước ta
hiện nay.
Bên cạnh đó, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ,
đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, vì vậy việc mở cửa kinh tế,
hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như
vậy mới thu hút được vốn, kĩ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát

huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo
kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và
đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường
khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế,
nhưng vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc
trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào đầu những năm 90 đã đặt nền
ngoại thương nước ta trước thách thức “đa phương hoá quan hệ thương mại, tích
cực thâm nhập tạo chỗ đứng ở các thị trường mới” để phát triển. Trong thời gian
qua đã diễn ra những thay đổi quan trọng về chính sách ngoại thương mở cửa của
nước ta bằng việc tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực: Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN - 1995), diễn đàn kinh tế các nước Châu Á - Thái
Bình Dương (APEC - 1998), nối lại quan hệ ngoại giao với Hoa Kì (1995), trở
thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO… Vào năm
1986, Việt Nam có quan hệ xuất khẩu với 43 quốc gia, năm 2000 là 192 quốc gia
nhưng đến nay đã có hơn 200 nước. Thị phần xuất nhập khẩu có sự chuyển biến
mạnh mẽ, nếu giai đoạn 1986 - 1990 chiếm tỉ trọng lớn nhất là Châu Âu
(+65,3%) mà trong đó chủ yếu là khối Đông Âu (chiếm 57,1% so tổng số), thì
các giai đoạn sau đó, quan hệ thương mại của Việt Nam chuyển hướng sang các
nước Châu Á cũng chiếm tới 2/3, trong đó cao nhất là với khối các nước Đông
Nam Á (tỉ trọng chiếm trên 20%). Quan hệ với Châu Mĩ tăng khá nhanh, nếu
trước khi cải cách đổi mới tỉ lệ kim ngạch so với tổng số chiếm không đáng kể
(+0,6%), tới nay tỉ lệ này tăng tới 11,1%, trong đó góp phần chủ yếu là Hoa Kì,
trước năm 2001 chỉ dưới 3,5%, giai đoạn hiện nay tăng lên 9,3%.
Từ khi mở rộng quan hệ đối ngoại kinh tế với nhiều quốc gia trên thế giới,
nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đã tăng lên đáng kể trên mọi lĩnh
vực: công nghệ kĩ thuật cao, dự án sản xuất vật liệu mới, ứng dụng công nghệ
mới về sinh học và công nghệ mới về sản xuất thiết bị thông tin, viễn thông, chế


14


biến khoáng sản… Theo bộ kế hoạch và đầu tư, 9 tháng đầu năm 2006, cả nước
đã thu hút thêm được 580 dự án mới có tổng số vốn đầu tư đăng kí 3,8 tỉ USD,
tăng 47,7% (tăng hơn 1,2 tỉ USD) so với cùng kì năm 2005. Chỉ riêng tháng 9, cả
nước có thêm 154 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng
kí 886 triệu USD, tăng hơn nhiều so với 18 dự án và 99,45 triệu USD của tháng 8
năm 2006. Dẫn đầu là lĩnh vực công nghệ - xây dựng thu hút được nhiều số dự
án và vốn đầu tư nước ngoài, chiếm gần 70% tổng số dự án và hơn 67,4% tổng
vốn đăng kí. Tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ chiếm gần 24,7% tổng số dự án và gần
31% tổng số vốn đăng kí. Tại Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2007,
điều phối viên thường trú của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam đã đánh giá: Việt
Nam ngày nay (2006) đã lớn mạnh gấp 4 lần cách đây 20 năm (1986 - năm đầu
của sự nghiệp đổi mới). Và đó cũng là lý do để các nhà tài trợ cam kết số vốn
ODA cho Việt Nam năm 2007 lên mức kỉ lục 4,45 tỉ USD, tăng 700 triệu USD
so với năm 2006 và là mức cao nhất từ trước đến nay.
Với mức tăng trưởng trên 8%, Việt Nam đang nằm trong tốp 20 nước có tốc
độ phát triển cao nhất thế giới. Năm 2007 thu hút vốn đầu tư nước ngoài có nhiều
thuận lợi khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO và cam kết
mở cửa 11 ngành với 110/115 phân ngành dịch vụ. Tình hình chính trị ổn định,
nền kinh tế tăng trưởng nhanh cùng với hình ảnh Việt Nam được nâng cao trên
trường quốc tế sẽ tiếp tục tạo nên sức thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư.
Với mục tiêu từ nay đến năm 2010 thu hút 140 tỉ USD vốn đầu tư trong đó 1/3 từ
nguồn vốn nước ngoài là có khả năng thực hiện.
Hiện tại, nước ta xã hội ngày càng ổn định, đời sống các tầng lớp đân cư đã
được cải thiện hơn. Sản xuất phát triển đã tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới. Ước
tính cả năm 2006, đã tạo thêm việc làm cho 1,65 triệu người. Do vậy, tại thời
điểm 1/7/2006 đã có 43,4 triệu người làm việc trong các ngành kinh tế, tăng
2,1% so với cùng thời điểm năm trước. Tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị tiếp

tục giảm còn 4,4%. Thu nhập của người lao động nhìn chung ổn định. Đời sống
của đại bộ phận dân cư ở cả thành thị và nông thôn tiếp tục được cải thiện. Mức
lương tối thiểu của cán bộ công chức, viên chức đã được điều chỉnh tăng đáng
kể, góp phần nâng cao mức sống của tầng lớp này. Tỉ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn
mới đã giảm từ 22% năm 2005 xuống còn 19%, vượt mục tiêu giảm xuống còn
20%. Sức mua xã hội tăng cao. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ
xã hội năm 2006 tăng 20,9% so với năm 2005. Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm
sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng và các đối tượng
chính sách, đối tượng xã hội được các cấp, các ngành quan tâm. Năm 2006, cả
nước đã xây dựng được 5 vạn ngôi nhà và sửa chữa hơn 3 vạn ngôi nhà tình
nghĩa, tình thương cho các hộ nghèo.
Bên cạnh đó, sự nghiệp giáo dục ở nước ta cũng có nhiều bước chuyển biến
mới. Chương trình kiên cố hoá trường lớp phổ thông đã cơ bản hoàn thành. Tính
đến tháng 12 năm 2006 đã có 36 tỉnh thành phố đạt phổ cập tiểu học và 32 tỉnh
thành phố đạt phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Hệ thống y tế, chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng đã được tăng cường. Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
giảm xuống dưới 24%. Cơ sở hạ tầng và công nghệ được cải thiện. Đến cuối năm
2006, trên địa bàn cả nước đã có 11 phòng thí nghiệm trọng điểm đi vào hoạt
động. Hoạt động văn hoá thông tin được triển khai mạnh mẽ, kể cả ở vùng sâu,

15


vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Do vậy, năm 2006 tỉ lệ hộ xem được
Đài Truyền Hình Việt Nam đạt 92%, tỉ lệ hộ nghe được Đài tiếng nói Việt Nam
đạt 97%.
Sự phát triển kinh tế - xã hội toàn diện ở nước ta đã được UNDP khẳng định
trong báo cáo phát triển con người năm 2006 với chỉ số HDI đạt thứ hạng
109/177 nước. Việt Nam tiêu biểu cho các nước đang phát triển về sự hài hoà
giữa phát triển kinh tế với phát triển các chính sách xã hội vì con người. Theo

tính toán của UNDP, chỉ số nghèo tổng hợp HPI-1 năm 2006 của nước ta đạt giá
trị 15,7 với thứ hạng 33/102 nước đang phát triển trong bảng xếp hạng.
Bước vào năm 2007, kì họp thứ 4, Quốc Hội khoá XI đã ra Nghị quyết về
các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội cả năm, trong đó tốc độ tăng GDP đạt từ
8,2 - 8,5%; kim ngạch xuất khẩu tăng 17,4%; tạo việc làm mới cho 1,6 triệu
người, giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống còn 16%.
Tại Hội nghị APEC 14, các nguyên thủ quốc gia đến dự Đại Hội đã đánh
giá cao thành công của nước chủ nhà Việt Nam cũng như sự năng động của nền
kinh tế nước ta, coi đó là một “con rồng mới” ở Châu Á, một hình mẫu của các
nước đang phát triển. Thời báo tài chính (Anh) ngày 20-11-2006 đã bình luận
“qua APEC, Việt Nam đã xua tan mối lo ngại rằng sự tăng trưởng kinh tế của họ
chỉ được đánh giá như sự phát triển giả tạo” và thời báo Chủ nhật (Anh) ngày 1512-2006 cũng ghi nhận nền kinh tế Việt Nam năm 2006 “chưa phải là con hổ
nhưng chắc chắn là một con rồng đang vươn mình”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, hơn ai hết
chúng ta biết rằng, bức tranh kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều
bất cập. Nền kinh tế nước ta vẫn còn có một số hạn chế, nhất là về chất lượng
tăng trưởng và sức cạnh tranh. Tốc độ tăng trưởng tuy cao, cơ cấu kinh tế theo
ngành và trong nội bộ từng ngành tuy chuyển dịch theo chiều hướng tích cực,
nhưng chậm chạp. Diễn đàn kinh tế thế giới đã đưa ra bảng xếp hạng khả năng
cạnh tranh tăng trưởng, năng lực cạnh tranh toàn cầu, trong đó khả năng cạnh
tranh tăng trưởng của nền kinh tế nước ta được xếp thứ 86/125, năng lực cạnh
tranh doanh nghiệp được xếp vị trí 80/116 và năng lực cạnh tranh toàn cầu được
xếp vị trí 77/125 vào năm 2006.
Trong lĩnh vực xã hội, nhiều hiện tượng tiêu cực phát sinh và tồn tại từ lâu,
nhưng vẫn chậm được khắc phục. Thủ tục hành chính còn phức tạp, tình trạng vi
phạm kỉ cương phép nước diễn ra khá phổ biến, cùng với tệ nạn tham nhũng và
lãng phí đang làm giảm hiệu quả của tăng trưởng kinh tế. Việc khắc phục các tệ
nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm, ma tuý…ít hiệu quả. Quản lý đô thị chưa tốt,
nạn ùn tắc và tai nạn giao thông vẫn rất nghiêm trọng. Trong 11 tháng năm 2006,
trên địa bàn cả nước đã xảy ra 13,3 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 11,5

nghìn người và làm bị thương 10,2 nghìn người. Tính ra, bình quân mỗi ngày
trong năm 2006, tai nạn giao thông đã cướp đi sinh mạng của 34 người và làm 31
người bị thương.Tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS tiếp tục gia tăng. Tính đến cuối
tháng 12 năm 2006, cả nước đã phát hiện được 115,8 nghìn người bị nhiễm HIV,
trong đó có 20 nghìn bệnh nhân AIDS và trong số này đã có 11,7 nghìn người tử
vong…
Những thành công bước đầu của công cuộc đổi mới, của sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và thực tiễn xây dựng cũng như sự phát triển

16


nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã cho thấy: việc
phát triển kinh tế tất yếu phải sử dụng một cách có hiệu quả quy luật giá trị và
quan hệ hàng - tiền. Trong tiến trình tiếp tục công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay, đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận thực tiễn quan trọng, song cũng là một vấn
đề không ít khó khăn. Nó đòi hỏi chúng ta không những phải từ bỏ quan điểm
phủ định sạch trơn sản xuất hàng hoá, chỉ thấy những tiêu cực vốn có của quan
hệ hàng - tiền dưới chế độ sở hữu tư nhân, mà còn phải chống lại cả quan điểm
tuyệt đối hoá vai trò của quan hệ hàng - tiền, cũng như quan niệm về sự tồn tại
trên danh nghĩa quan hệ hàng - tiền trong chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới ở nước ta đã cho thấy
hiệu quả của việc sử dụng quy luật giá trị và quan hệ hàng - tiền trong việc nâng
cao hiệu quả sản xuất, phát triển kinh tế, đồng thời cho thấy rõ việc sử dụng
chúng là đặc trưng không thể thiếu của cơ chế quản lý kinh tế mới mà chúng ta
đang ra sức xây dựng. Bởi vậy, hiện nay vấn đề đặt ra với chúng ta là cần phải
nhận thức đúng và vận dụng có hiệu quả hơn nữa quy luật giá trị và quan hệ hàng
- tiền trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần
điều tiết những mối quan hệ đó sao cho không phải là thủ tiêu chúng, mà là phát
triển chúng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thêm vào đó, khi sử dụng quy luật giá

trị và quan hệ hàng - tiền, chúng ta không phải chỉ tính đến những đặc thù của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn phải tính đến trình
độ phát triển của nền kinh tế này, đến vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vị trí
nền tảng của nó cùng kinh tế tập thể…
Như vậy, cùng với sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế khác nhau, đời sống kinh tế - xã hội nước ta cũng đang phát
triển theo những xu hướng khác nhau. Dĩ nhiên, với xuất phát điểm hết sức thấp
của nền kinh tế nước ta thì mọi thành phần kinh tế đang lôi kéo sự vận động của
nền kinh tế đất nước đều đang thực sự thúc đẩy kinh tế - xã hội nước ta vận động
theo các xu hướng phát triển tiến lên. Chính sự tăng trưởng nhanh và ổn định của
kinh tế nước ta trong hai mươi năm đổi mới vừa qua đã khẳng định điều này.
Vì thế, có thể nói, các thành phần kinh tế đang tồn tại và phát triển trong
nền kinh tế của chúng ta hiện nay đều có vị trí và vai trò quan trọng nhất định.
Về xu hướng phát triển, các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sẽ
từng bước hợp lực tạo nên xu hướng phát triển đúng theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; còn kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài, về xu hướng tự nhiên, là phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa dù
cho nhà nước có điều tiết và kiểm soát như thế nào. Như vậy, để thực hiện thành
công định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường hiện nay không
còn con đường nào khác là phải chủ động, tích cực phát triển mạnh kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể. Đặc biệt, chúng ta phải sớm có chiến lược phát triển và
các giải pháp triệt để, những bước đi thích hợp nhằm xây dựng kinh tế nhà nước
trở thành động lực cơ bản và thực sự đóng vai trò chủ đạo, chi phối nền kinh tế
quốc dân.
Rõ ràng, theo nguyên tắc tổng hợp lực, có thể hình dung đời sống kinh tế xã hội nước ta đang phát triển theo hai xu hướng chính với hai lực kéo cơ bản là
định hướng xã hội chủ nghĩa và khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Định
hướng xã hội chủ nghĩa là xu hướng mà chúng ta mong muốn và hiện đang

17



chiếm ưu thế cả về kinh tế và xã hội, nguồn lực và tỷ trọng, tiềm năng và cơ hội.
Còn xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa mới manh nha hình thành và dù còn nhỏ
bé, rời rạc, bị chia cắt, nhưng sự phát triển của nó hiện cũng có nhiều thuận lợi,
nhất là nó rất phù hợp với sự phát triển của cơ chế thị trường. Hai lực kéo của
thời kì quá độ này, mặc dù đều thúc đẩy xã hội phát triển, nhưng bản thân chúng
lại luôn mâu thuẫn, lấn át, đấu tranh với nhau một cách gay gắt và chính vì vậy,
chúng tạo nên mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta trong giai đoạn quá độ hiện nay.
Với tư cách là mâu thuẫn cơ bản của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chúng thực sự tạo nên động lực phát triển chung của toàn xã hội ta. Điều này có
nghĩa là trong thời điểm hiện nay, việc duy trì mâu thuẫn cơ bản này chính là duy
trì động lực nội tại cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Muốn duy trì mâu thuẫn cơ
bản này, chúng ta cần có cơ chế, chính sách phù hợp để kích thích các cá nhân,
các nhóm xã hội tích cực hoạt động thực hiện các lợi ích của mình. Bởi lẽ, các lợi
ích kinh tế đang thực sự trở thành những động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển
và tăng trưởng nền kinh tế đất nước.
Đương nhiên, để xã hội ta thực sự phát triển theo đúng định hướng xa hội
chủ nghĩa thì trên cơ cở nhận thức sâu sắc hai xu hướng phát triển cơ bản nêu
trên, nhà nước với vai trò điều tiết vĩ mô của mình, bằng các biện pháp hành
chính, kinh tế, bằng hệ thống pháp luật, bằng cơ chế, chính sách… cần phải chủ
động xây dựng và tạo lập được sự liên kết các xu hướng phát triển khác nhau để
tạo ra một hợp lực thúc đẩy sự vận động, từ đó tạo nên một tổng hợp lực thúc đẩy
sự vận động và phát triển chung của toàn xã hội. Dưới ánh sáng tư tưởng phát
triển xã hội của Ph.Ăngghen, có thể nói, trong thời kì quá độ hiện nay, xu hướng
phát triển chung của đời sống kinh tế - xã hội nước ta chính là hướng hợp thành
của sự hợp lực giữa hai xu hướng phát triển cơ bản nêu trên. Tất nhiên, trong đó
xu hướng định hướng xã hội chủ nghĩa đóng vai trò chủ đạo.
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện
nay, để xã hội ta triếp tục phát triển như chúng ta mong muốn, báo cáo chính trị
tại Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể

chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng mạnh mẽ sức sản
xuất, tạo động lực mới cho phát triển”. Thực hiện quan điểm chỉ đạo mang tính
chiến lược này, trước hết, chúng ta cần phải nắm vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong suốt quá trình phát triển kinh tế thị trường, đồng thời phát triển đồng
bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các thị trường cơ bản, theo cơ chế cạnh
tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức
sản xuất, kinh doanh trên cơ sở kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Phân tích tình hình đất nước trong hai mươi năm qua, nhận thức về “đổi
mới ở Việt Nam” đã không ngừng phát triển. Thời kì đầu, đổi mới chỉ được hiểu
như là những suy nghĩ, những hành động riêng lẻ, cụ thể nhằm thay đổi một nhận
thức, một cách làm nhất định nào đó có tính tình thế. Càng về sau, càng nhận
thức đầy đủ hơn về đổi mới, đó là vấn đề chiến lược lâu dài trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nó bao quát toàn diện, không trừ lĩnh vực nào của quá
trình đó. Đổi mới là quá trình loại bỏ những gì kìm hãm và cản trở sự phát triển,
tổ chức lại xã hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các
yếu tố vật chất và tinh thần tạo nên lực lượng sản xuất, giải phóng mọi tiềm năng

18


sáng tạo của con người, giải phóng khả năng trí tuệ của nhân dân… để phục vụ
cho sự nghiệp phát triển con người, bảo đảm tự do, sáng tạo của nhân dân. Đổi
mới còn là quá trình sửa lại nhận thức không đúng về “cái cũ” nhưng cái cũ ấy
lại là cái đúng, để hiểu đúng nó hơn, vận dụng có hiệu quả hơn vào thực tiễn. Đổi
mới còn là làm rõ cái gì là đúng của ngày hôm qua, nhưng do hoàn cảnh đã thay
đổi, ngày hôm nay không còn thích hợp, cần từ tổng kết thực tiễn để khái quát lý
luận nhằm bổ sung, phát triển nhận thức, phát triển nền tảng tư tưởng của chúng
ta. Nhờ vậy, nền tảng tư tưởng đó thực hiện có hiệu quả hơn chức năng là cơ sở
hoạch định và triển khai đường lối của Đảng, thúc đẩy đất nước phát triển bền

vững.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hơn ba mươi năm qua đã
cho chúng ta thấy rằng: cần phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan, trong đó có quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội
ngày càng chi phối phương hướng phát triển chung của xã hội. Năng lực nhận
thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện đảm bảo sự lãnh đậo
đúng đắn của Đảng. Trong thời kì đầu, từ sau khi thống nhất nước nhà, bắt tay
vào công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đã có những nhận thức không đúng
đắn, không phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, nên đã có những biểu hiện
nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Nền kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng nghiêm
trọng. Nhận thức sai lầm, từ đó đề ra hành động không đúng, khi đưa vào thực
tiễn kiểm nghiệm đã bộc lộ những sai lầm, nhược điểm mà ngay lúc đầu ta không
thể nhận ra.
Sau thời kì khó khăn đó, Đảng ta đã có cái nhìn thẳng vào sự thật, đã có
nhận thức đúng đắn hơn, sáng suốt hơn. Kế thừa những ưu điểm trong công cuộc
đổi nới , cải cách của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự thành công của Trung
Quốc, Đảng và Nhà nước đã đề ra những biện pháp, những chủ trương phù hợp
với điều kiện nước nhà, cũng như hành động đúng theo các quy luật khách quan.
Thực tế hơn hai mươi năm qua đã chứng minh khẳng định đó. Nền kinh tế nước
ta ngày càng tăng trưởng, phát triển kơn, bền vững và ổn định. Đó cũng chính là
thắng lợi quan trọng nhất, ý nghĩa nhất mà chúng ta đã đạt được trong nhiều năm
cố gắng phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam sánh vai cúng các
cường quốc trên thế giới.

19


KẾT LUẬN
Tư tưởng “biện chứng của quá trình nhận thức” mà các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đưa ra, đã trở thành kim chỉ nam, là tư tưởng chủ đạo cho

các nhà lãnh đạo soi vào đó, để có một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận thức
sáng suốt hơn, từ đó đề ra những quan điểm chỉ đạo, những biện pháp xây dựng
và phát triển đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ. Chúng ta luôn phải nắm
vững và quán triệt quan điểm này một cách triệt để. Khi nhìn nhận một vấn đề,
một sự việc nào đó cần phải có nhận thức đúng đắn, cần đặt trong điều kiện cụ
thể để xem xét, đánh giá. Đặc biệt, luôn phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và
hành động phù hợp với quy luật khách quan, có như thế mới đạt hiệu quả cao
trong hoạt động, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống hơn.

20


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG........................................................................................................................2
..........................................................................................................................................2
I. BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC ..........................................................................2
1. Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác .............................2
2. Quan niệm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng ..................2
II. BIỆN CHỨNG CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC ..............................................3
1. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng .....................................................3
2. Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn........................................................................6
III. THỰC TIỄN VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM............................................................7
1. Kinh tế Việt Nam thời kì 10 năm đầu sau khi đất nước được thống nhất (1976 –
1985) .........................................................................................................................7
2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.............................11
KẾT LUẬN ....................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................22


21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học
GS.TS Nguyễn Hữu Vui – GS.TS Nguyễn Ngọc Long
2. Những vấn để lý luận đặt ra từ các văn kiện Đại hội IX của Đảng
Nguyễn Trọng Khải - Nguyễn Hữu Toàn
3. Tạp trí Triết học
Số 1 (187) tháng 1/2007
Số 2 (188) tháng 2/2006
4. Báo con số và sự kiện
Số 13/2006
Số 2+3/2007
5. Giáo trình lịch sử kinh tế
GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh – PGS.TS Phạm Thị Quý

22



×