Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Biện chứng về mối liên hệ phổ biến vận dụng, phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng k tế với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.31 KB, 22 trang )

Bin chng v mi liờn h ph bin. Vn dng, phõn tớch mi liờn h gia tng trng kinh
t vi vn bo v mụi trng sinh thỏi nc ta hin nay

LI M U
Phát triển kinh tế là đòi hỏi tất yếu với mỗi quốc gia nếu các
quốc gia đó không muốn bị suy vong , thôn tính . Từ giữa thế kỷ 20
đến nay , cùng với sự phát triển nh vũ bão của khoa học và công
nghệ , kinh tế các nớc phát triển rất mạnh mẽ đồng thời môi trờng
sống của con ngời cũng đã bị tàn phá hết sức nặng nề. Vấn đề nan
giải đợc đặt ra tại nhiều quốc gia hiện nay là : làm thế nào tăng trởng
kinh tế mạnh mà không tàn phá môi trờng tự nhiên . Để giải quyết
vấn đề này, tăng trởng kinh tế phải kết hợp với bảo vệ môi trờng sinh
thái . Cơ sở lý luận cho vấn đề này đúng đắn nhất chỉ có thể là triết
học Mác Lênin . Do đó , tiểu luận này đợc làm với mục đích : phân
tích rõ mối liên hệ biện chứng giữa tăng trởng kinh tế và bảo vệ môi
trờng sinh thái dựa trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
triết học Mác - Lênin và việc thực hiện vấn đề này ở Việt Nam ta.
Tuy nhiên , trong quá trình nghiên cứu còn nhiều thiếu sót , em rất
mong nhận đợc sự góp ý và chỉnh sửa của cô .

1.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

1.1. Khỏi nim
T xa xa con ngi luụn cú khỏt vng tỡm hiu, khỏm phỏ th gii xung
quanh, vộn bc mn bớ mt chi phi i sng t nhiờn v xó hi. Do ú con
ngi luụn thc mc:cỏc s vt, hin tng v cỏc quỏ trỡnh cú mi liờn h
qua li, tỏc ng nh hng ln nhau hay chỳng tn ti bit lp, tỏch ri nhau?
Nu chỳng cú mi liờn h qua li thỡ cỏi gỡ quy nh mi liờn h ú?
1




Trong lịch sử triết học, có rất nhiều câu trả lời khác nhau cho những câu
hỏi đó. Đối với vấn đề thứ nhất, có hai quan niệm lớn sau: theo chủ nghĩa duy
vật siêu hình thì cho rằng sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan tồn tại
trong trạng thái biệt lập tách rời nhau,hết sự vật này đến sự vật khác, giữa các
sự vật không có mối liên hệ hoặc nếu có liên hệ chỉ là liên hệ bên ngoài, mang
tính ngẫu nhiên. Một số ít người theo quan điểm này cho rằng: các sự vật,
hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú
song các hình thức liên hệ khác nhau không có hình thức chuyển hoá lẫn cho
nhau. Đối lập với quan điểm trên thì chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng
các sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại độc lập khác nhau nhưng đều có sự
tác động qua lại, chuyển hoá lẫn cho nhau. Ví dụ như: môi trường của một đất
nước không chỉ tác động tới đời sống kinh tế - xã hội ở nước đó mà còn làm
cho môi trường thế giới thay đổi theo, vì môi trường của một đất nước là một
bộ phận của môi trường thế giới. Từ đó các hoạt động của con người, giới tự
nhiên cũng bị ảnh hưởng dù ít hay nhiều .
Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm đều cho
rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng là một lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người.
Các nhà duy vật biện chứng đã có quan điểm hoàn toàn khác với các quan
điểm trên.Họ cho rằng tuy các sự vật, hiện tượng vô cùng phong phú, đa dạng
nhưng chúng thống nhât với nhau ở tính vật chất.Nhờ có tính thống nhất
đó,chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động
qua lại, chuyển hoá lẫn cho nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ
sở đó, triết học duy vật biện chứng đã khẳng định: liên hệ là phạm trù triết
học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại,sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vât, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng
trong thế giới .
1.2. Tính chất của mối liên hệ.

Mối liên hệ giữa bất kì sự vật hiện tượng nào cũng có những đặc điểm
chung đó là tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. Trước
hết, mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là tất yếu, khách quan vốn có của
các sự vật, hiện tượng ấy. Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có mối liên hệ
với bên ngoài. Bởi như đã nói, thế giới vật chất là vô hạn, không sinh ra,
không mất đi mà chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác. Con người
không thể quyết định các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ hay không.
Thứ hai, mối liên hệ còn mang tính phổ biến. Vì mối
liên hệ của các sự vật,hiện tượng mang tính khách quan nghĩa là sự vật, hiện
tượng nào cũng có mối liên hệ nên mối liên hệ có tính phổ biến. Một ví dụ
điển hình là: trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay và những vấn đề
như ô nhiễm môi trường sinh thái, bùng nổ dân số, bùng phát các dịch bệnh
như: HIV, cúm gia cầm,…thì đòi hỏi các nước phải có sự hợp tác với nhau.
2


Mối liên hệ dù biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt nhưng chúng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Những hình thức liên hệ
riêng rẽ, cụ thể được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu. Phép biện chứng
duy vật chỉ nghiên cứu nhửng vấn đề chung nhất, bao quát nhất của thế giới.
Thứ ba, đó là tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: sự vật, hiện
tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên
hệ khác nhau.Vì thế giới vật chất vô hạn, các sự vật, hiện tượng trong đó cũng
muôn hình, muôn vẻ nên mối liên hệ cuả chúng cũng mang tính đa dạng. Do
vậy bên trong một sự vật, hiện tượng cũng có thể có nhiều mối liên hệ. Như
mỗi con người sống trong một gia đình, ngoài mối liên hệ bên trong với các
thành viên trong gia đình thì mỗi thành viên đều có mối liên hệ bên ngoài với
mỗi cá nhân khác, với tập thể trong xã hội. Vì vậy mối liên hệ của chúng ta
rất phong phú, đa dạng. Mối liên hệ có thể chia thành nhiều loại: mối liên hệ
bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ

yếu, mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ trực tiếp và
mối liên hệ gián tiếp,…Tuy nhiên sự phân chia các cặp chỉ mang tính chất
tương đối. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ
theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển
của chính các sự vật. Cụ thể như: nếu xét mối liên hệ giữa các công ty, xí
nghiệp là những chủ thể độc lập kinh doanh trên một đất nước thì chúng có
mối liên hệ bên ngoài, còn nếu xét tổng quan nền kinh tế đất nước, chúng là
những bộ phận đóng góp, xây dựng nền kinh tế đất nước nên mối liên hệ của
chúng lúc này là mối liên hệ bên trong.
Mặc dù việc phân loại chỉ mang tính tương đối nhưng nó cho ta
xác định rõ vai trò, vị trí của mỗi loại mối liên hệ. Thông qua đó, con người
có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của
mình.

3


4


1.3. Ý nghĩa của nguyên lý
Như ta đã biết, vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển
hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang
tính khách quan, phổ biến nên trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận
thức con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét
phiến diện. Do đó, khi nhận thức bất kì một sự vật, hiện tượng nào, chúng ta
phải nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua giữa lại các bộ phận, các yếu
tố, các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại của chính sự vật đó
với các sự vật khác. Đây chính là quan điểm toàn diện. Có như vậy, sự vật
mới được nhận thức đúng đắn. Để nhận xét một con người, chúng ta không

thể chỉ nhận xét con người đó qua mối quan hệ với chính chúng ta mà phải
thông qua các mối quan hệ khác, cả môi trường của họ nữa. Khi đó ta mới có
được cái nhìn bao quát nhất, khách quan nhất về người đó. Đồng thời quan
điểm toàn diện còn đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt được từng mối liên hệ,
xác định được vị trí, vai trò của chúng trong sự vận động, phát triển và tồn tại
của sự vật. Trên cơ sở đó, trong hoạt động thực tiễn, ta có các phương pháp
tác động phù hợp vào sự vật, đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt,
chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ
thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại.
Từ nội dung của nguyên lý đòi hỏi chúng ta đi nghiên cứu xem xét
sự vật phải có quan điểm. Quan điểm này yêu cầu phải xem xét tất cả các mối
liên hệ vốn có của sự vật nhưng không được đặt các mối liên hệ có vai trò vị
trí ngang nhau. Cần xác định cho được đâu là những mối liên hệ bản chất tất
yếu bên trong và đâu là những liên hệ bên ngoài không bản chất để từ đó có
kết luận chính xác về bản chất của sự vật.
2. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng

kinh tế và bảo vệ môi

trường sinh thái .
2.1. Tăng trưởng và phát triển kinh tế
2.1.1. Đánh giá tổng quan về nền kinh tế Việt Nam qua các thời kì
2.1.1.1. Thời kì kinh tế bao cấp ( 1976 – 1985 ):
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1976), Đảng Cộng Sản
Việt Nam (ĐCSVN) đã thông qua những mục tiêu cho xây dựng và phát triển
kinh tế cả nước. Đó là: nhanh chóng đưa Việt Nam thoát khỏi một nước
5



nghèo nàn, lạc hậu, biến Việt Nam thành một nước công – nông nghiệp hiện
đại. Đường lối cải tạo XHCN trước hết là ở các tỉnh phía Nam và đường lối
công nghiệp hoá XHCN trên phạm vi cả nước.
Từ 1976-1981, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của nước ta là 1,43%
/năm. So với năm 1976, tổng sản phẩm xã hội năm 1980 tăng 4,2%. Còn
riêng trong giai đoạn 1981-1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 42,3%, bình quân
tăng 7,3%/năm. Nền kinh tế nước ta đã đạt được một số thành tựu: hàng trăm
công trình xây dựng tương đối lớn trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp,
giao thông vận tải, văn hoá xã hội…đã được xây dựng trên khắp các miền của
đất nước đã góp phần phát triển thêm một bước lực lượng sản xuất. Tài sản cố
định của nền kinh tế quốc dân đã được tăng lên đáng kể, so với năm 1976 thì
năm 1980 là 129,2% và năm 1985 là 205,3%. Đã khắc phục được một phần
lớn hậu quả chiến tranh, nhất là ở các tỉnh phía Nam, thống nhất được cả hai
miền về mọi mặt, xoá bỏ được quan hệ sản xuất bóc lột ở phía Nam…
Mặc dù có không ít những thành tựu nhưng trong 10 năm xây dựng đã
bộc lộ không ít những hạn chế yếu kém, thể hiện chủ yếu trên các mặt sau:
kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ
hai và ba không đạt được, thậm chí tỉ lệ hoàn thành ở mức rất thấp. Cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế quốc dân còn yếu kém, thiếu đồng bộ, cũ
nát, trình độ kỹ thuật nói chung còn lạc hậu, lại chỉ phát huy được công suất ở
mức 50% là phổ biến. Nền kinh tế chủ yếu vẫn còn là sản xuất nhỏ, phân
công lao động xã hội kém phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp. Cơ
cấu kinh tế nước ta thì chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm
trọng. Sản xuất phát triển chậm, không tương xứng với sức lao động và vốn
đầu tư bỏ ra. Trong 10 năm này, thu nhập quốc dân sản xuất trong nước chỉ
bằng 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng.
2.1.1.2. Thời kì hội nhập và mở cửa (1986 đến nay)
a. Những thành tựu đạt được
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm

1986 và đã có nhiều sự thay đổi to lớn. Trước hết là sự thay đổi về tư duy
kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực
hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm
nhanh được tình trạng đói nghèo, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp
hoá, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao đi đôi với sự công
bằng tương đối trong xã hội.
Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền kinh tế thị
trường đã được hình thành tại Việt Nam như Luật đầu tư nước ngoài, Luật
doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty, Luật đất đai, Luật thuế, Luật phá sản,
Luật môi trường, Luật lao động cùng Hiến pháp sửa đổi năm 1992 và hàng
6


trăm các văn bản pháp lệnh, nghị định của chính phủ đã được ban hành nhằm
cụ thể hóa việc thực hiện luật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình thành.
Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, nhấn mạnh quan
hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế, thành lập
hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng, hình thành các thị trường cơ bản
như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường đất
đai… Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của
nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh
doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế.
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần hai thập kỷ đổi
mới vừa qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng
phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính
cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động

các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối
ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu
và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày
càng lớn như du lịch, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối...
Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự
thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2005, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp
đã giảm từ 38,7% xuống 20,89% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,03%, còn khu
vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,6% năm 1990 và
38,10% năm 2005. Trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi tích
cực. Trong khu vực nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông và lâm nghiệp đã
giảm từ 84,4% năm 1990 xuống 77,7% năm 2003, phần còn lại là tỷ trọng
ngày càng tăng của ngành thủy sản. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của
ngành công nghiệp chế biến tăng từ 12,3% năm 1990 lên 20,8% năm 2003,
chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ
thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng
cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…
Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm. Từ năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng của khu vực kinh
tế tư nhân trong GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%, kinh tế ngoài quốc doanh
khác từ 4,4% lên 4,5%, kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống 31,2%, và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6,4% lên 14%.
Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp
điều chỉnh, sắp xếp lại doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý
7



tài chính của công ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp, hay việc chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần
theo tinh thần cải cách mạnh mẽ hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, ngày
càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả cho khu vực kinh tế quốc
doanh. Với chính sách xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tỷ
trọng của khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm đi, từ 40,1% GDP năm
1991 xuống còn 38,3% năm 2003, kinh tế tập thể giảm từ 10,2% xuống 7,9%
trong thời gian tương ứng. Trong các năm 2002-2003, có 1.655 doanh nghiệp
nhà nước được đưa vào chương trình sắp xếp và đổi mới, năm 2004 là 882
doanh nghiệp và năm 2005 dự kiến sẽ là 413 doanh nghiệp.
Việt Nam đã sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu kinh tế vào mục
tiêu phát triển xã hội như phân chia một cách tương đối đồng đều các lợi ích
của đổi mới cho đại đa số dân chúng; gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao
chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục; nâng chỉ số phát triển con
người (HDI) của Việt Nam từ vị trí thứ 120/174 nước năm 1994, lên vị trí thứ
108/177 nước trên thế giới năm 2005; tăng tuổi thọ trung bình của người dân
từ 50 tuổi trong những năm 1960 lên 72 tuổi năm 2005, giảm tỷ lệ số hộ đói
nghèo từ trên 70% đầu những năm 1980 xuống dưới 7% năm 2005.
b. Những tồn tại
Ngoài những thành công đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn có
những khó khăn và yếu kém, biểu hiện đó là:
- nền kinh tế vẫn chủ yếu là nông nghiệp; công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ
tầng kém phát triển; cơ sở vật chất- kĩ thuật chưa xây dựng được bao nhiêu.
Mặc dù cơ cấu các ngành trong GDP có sự chuyển dịch rõ rệt, nhưng cơ cấu
lao động chậm biến đổi. Hiện nay, hơn 75% dân số vẫn sống ở nông thôn, lao
động nông nghiệp vẫn chiếm hơn 60% trong tổng lao động xã hội.
- nước ta còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết
kiệm trong tiêu dùng, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và đầu tư phát triển còn
thấp.

- nền kinh tế có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất, chất lượng và hiệu
quả còn thấp.
- vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế- xã hội còn yếu: khả năng
kiềm chế lạm phát chưa vững chắc. Ngân sách thu không đủ chi, tỷ lệ bội chi
ngân sách còn cao.
- tình trạng bất công xã hội, tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỷ cương còn
nặng và phổ biến.
Nguyên nhân của những yếu kém trên một mặt là do hậu qủa của nhiều
năm trước đây để lại và do những tác động bất lợi của tình hình thế giới; mặt
khác, còn do những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý
Nhà nước.
2.1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng trưởng và phát

8


triển kinh tế trong tương lai
2.1.2.1.Mục tiêu đề ra
Bước vào thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước đã đề ra những mục tiêu cơ
bản để phát triển kinh tế trong 5 năm 2006 - 2010, đó là: Đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh
tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020.
Các chỉ tiêu chủ yếu trong 5 năm từ 2006 đến 2010:
- tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2,1 lần năm 2010.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7,5 – 8%/ năm phấn đấu đạt trên 8%/năm. GDP bình
quân đầu người theo giá hiện hành đạt tương đương 1.050 - 1.100 USD.
- Cơ cấu ngành trong GDP: khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%; công nghiệp và xây
dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 - 41%.

- Kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
- Tỉ lệ huy động GDP hàng năm vào ngân sách đạt 21 - 22%.
- Vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm đạt khoảng 40% GDP.

2.1.2.2. Nhiệm vụ, giải pháp lớn của kế hoạch phát triển kinh tế trong 5 năm
2006 – 2010
1. Phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế; tạo bước
đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển dịch đồng bộ cơ cấu và nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
Hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý về đầu tư phát triển, xoá bỏ cơ chế xin – cho,
khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, chống thất thoát lãng phí và nợ đọng, tăng cường quản
lý chất lượng các dự án đầu tư xây dựng cơ bản.

Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; nâng cao trình độ nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ vào sản xuất, bảo quản và chế biến. Hình thành các khu sản xuất nông
nghiệp công nghệ cao và phát triển trên quy mô rộng.
Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao đi đôi với nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu
quả sản xuất công nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp để giữ vững và
mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Tập trung phát triển có chọn lọc một số
ngành công nghiệp có tiềm năng, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Đẩy mạnh
phát triển công nghiệp năng lượng, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, chú
trọng phát triển các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, thúc đẩy phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ. Nâng cao chất lượng các ngành
dịch vụ truyền thống. Phát triển các loại hình dịch vụ mới. Phát triển và tăng khả năng
cạnh tranh những ngành dịch vụ có tiềm năng. Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý và phương
thức cung ứng dịch vụ công - khâu đột phá để đưa tiến trình xã hội hóa các lĩnh vực văn
hóa, xã hội lên một bước phát triển mới.
2. Chủ động hội nhập kinh tế sâu rộng hơn với khu vực và thế giới. Thực hiện có hiệu quả

các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các lĩnh
vực khác. Thực hiện các cam kết sau khi nước ta gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Tận dụng điều kiện thuận lợi, phát huy lợi thế, hạn chế những tác động bất lợi
trong hội nhập để tăng cường thu hút nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên
9


tiến.
3. Tạo môi trường thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp; chú trọng nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tăng nhanh xuất khẩu, thu
hút vốn, công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao để giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp. Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước theo quy định của Luật doanh nghiệp. Phát triển mạnh, không hạn chế quy mô
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đạt khoảng 500 nghìn doanh nghiệp
vào năm 2010.
4. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế và tôn trọng yêu cầu khách quan của kinh tế thị
trường trong các hoạt động kinh tế. Tập trung hoàn thiện thể chế về phát triển các loại thị
trường hàng hóa và dịch vụ, bất động sản, lao động, tài chính và khoa học công nghệ. Đổi
mới công tác quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát huy tối đa
những tác động tích cực của thị trường.
5. Tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia. Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực tài chính nhà nước và xã hội, trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
Đổi mới cơ chế quản lý tài chính nhà nước, quản lý ngân sách nhà nước bảo đảm vai
trò chủ đạo của ngân sách trung ương, tăng cường phân cấp, tăng quyền hạn đi đôi với đề
cao trách nhiệm đối với các cấp ngân sách, các đơn vị sử dụng ngân sách. Nâng cao hiệu
quả và tính công khai, minh bạch trong sử dụng và quản lý ngân quỹ, ngân sách nhà nước,
tạo chuyển biến rõ rệt trong kiểm soát, tăng cường công tác kiểm toán nhà nước để góp
phần ngăn chặn lãng phí, thất thoát, tham nhũng tiền và tài sản nhà nước.
Xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô,
kiểm soát được lạm phát và bảo đảm an toàn hệ thống các ngân hàng, nâng cao chất lượng

tín dụng. Huy động tốt các nguồn vốn gắn liền với đổi mới, tăng khả năng cung ứng vốn
cho đầu tư phát triển. Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt; đổi mới phương thức
thanh toán theo hướng tăng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, tăng khả
năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam.
6. Phát triển kinh tế, xã hội các vùng lãnh thổ theo hướng phát huy lợi thế và tính
cạnh tranh của từng vùng về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, gắn kết
liên ngành, liên vùng. Ban hành chính sách thông thoáng để phát triển các vùng kinh tế
trọng điểm thành động lực thúc đẩy nền kinh tế cả nước. Chú trọng phát triển các vùng
miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các địa bàn khó khăn khác thông
qua các cơ chế và hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch về
trình độ phát triển, thu nhập và đời sống giữa các vùng và các dân tộc.

2.2. Bảo vệ môi trường sinh thái
2.2.1.Thực trạng môi trường nước ta và những ảnh hưởng của tăng trưởng
kinh tế tới môi trường sinh thái trong những năm gần đây

a. Tình trạng

phá rừng:
Các ước tính cho thấy diện tích rừng Việt Nam bị thu hẹp khoảng 200.000 ha/năm,
như vậy, phần lãnh thổ quốc gia được bao phủ bởi rừng rậm chỉ còn khoảng từ 10 đến
20%, tức từ 3,3 đến 6,6 triệu ha. Nói cách khác, mức độ phá rừng trung bình hàng năm
trên toàn quốc thay đổi từ 3 đến 6%”
Việc phá rừng ở Việt Nam dường như vẫn tiếp diễn ở mức báo động. Riêng tỉnh Dak
Lak ở Cao nguyên miền Trung, diện tích rừng nhiệt đới giảm với mức độ trung bình

10


khoảng 4,5% một năm, từ 1.219.848 ha trong năm 1995 còn khoảng 1.000.000 ha trong

năm 2000.

Kể từ thập niên 1990, hệ thống rừng Việt Nam còn phải đối diện với một hiểm họa
mới: phá rừng nuôi tôm. “Việc phát triển nhanh chóng của kỹ nghệ nuôi tôm đã có ảnh
hưởng nghiêm trọng đối với rừng ngập mặn ở Việt Nam. Trong năm 2000, chỉ còn khoảng
110.680 ha. Ngày trước, nông nghiệp, ruộng muối, và việc sử dụng hóa chất trong thời
chiến là những hiểm họa quan trọng nhất đối với rừng ngập mặn (xem chi tiết trong
khung); trong thập niên vừa qua, việc nuôi tôm đã trở thành hiểm họa lớn lao nhất. Trong
tỉnh Cà Mau ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long [ĐBSCL], diện tích dùng cho việc nuôi
tôm đã tăng gấp 3 lần trong vòng 12 tháng cho đến giữa năm 2001, và hiện nay đã lên đến
202.000 ha. Các ước tính cho thấy diện tích rừng ngập mặn trong tỉnh giảm từ trên
200.000 ha trước năm 1975 xuống chỉ còn 60.000 đến 70.000 ha, và hầu như tất cả việc
phá rừng nầy là để nuôi tôm” (7).
b. Ô Nhiễm Nước
Sự tăng trưởng một cách nhanh chóng về kinh tế và xã hội từ năm 1986 đã gây nên
tình trạng ô nhiễm nước ở đô thị và nông thôn trên cả nước, và phẩm chất của các nguồn
nước ở Việt Nam dường như càng ngày càng suy thoái, ít nhất là trong ngắn hạn.
Nước thải từ các khu đô thị và kỹ nghệ đã được xả trực tiếp vào đồng ruộng, kinh
rạch, ao hồ, và sông ngòi mà không được gạn lọc (xử lý) chất độc hại. Trên toàn quốc, số
lượng nước thải gia dụng và kỹ nghệ không được gạn lọc và xả trực tiếp vào sông ngòi
được ước tính vào khoảng từ 240 đến 300 triệu m3 một năm. Theo ước tính của Ngân
hàng Thế giới, số lượng nầy sẽ tăng lên gấp 10 lần trong vòng 15 năm tới [vào năm 2010].
Việc xả nước thải không được gạn lọc chất độc đã gây nên tình trạng ô nhiễm nước
nghiêm trọng ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh (Sài Gòn), Hải Phòng, Việt
Trì, và Biên Hòa. Theo Báo cáo Hiện Trạng Môi trường Việt Nam 2001, “hầu hết các
sông được theo dõi đều bị ô nhiễm các chất như N và P, từ 4 đến gần 200 cao hơn tiêu
chuẩn cho nước loại A [nước uống] và từ 2 đến 20 lần cao hơn tiêu chuẩn cho nước loại B
[nước không uống được]. Tình trạng ô nhiễm chất hữu cơ trong sông Sài Gòn, Vàm Cỏ
Đông và các kinh rạch rất nghiêm trọng, riêng sông Đồng Nai thì cực kỳ nghiêm trọng.
Sông ở các thành phố lớn có độ BOD [biochemical oxygen demand] cao gấp 2,5 đến 7,5


11


lần tiêu chuẩn nước uống của Việt Nam và của Cộng đồng Châu Âu, chứng tỏ nước có
chứa nhiều chất hữu cơ. Cá không thể sống trong các con sông nầy, vì nồng độ oxy thấp
hơn 4 mg/l”
Ngoài các chất hữu cơ và chất đạm, hóa chất độc hại cũng hiện diện trong nước thải.
Một số nghiên cứu về Nhà máy giấy Bãi Bằng trong tỉnh Vĩnh Phú đã phát hiện các chất
thuộc họ dioxin trong cây cỏ và bùn ở hồ lắng và nguồn nước nhận nước thải của nhà máy,
và PCBs [polychlorinated biphenyls] được tìm thấy trong nước thải gia dụng của thành phố
Hồ Chí Minh. Thuốc trừ sâu có chứa chlorine và PCBs cũng được phát hiện trong trầm tích
ở cửa sông Hậu.
Ở vùng nông thôn, sản xuất nông nghiệp (bao gồm kỹ nghệ thủy sản và các công trình
ngừa lụt) đang gây ô nhiễm nước nghiêm trọng cho nhiều vùng của đất nước. Nguồn nước
mặt đã bị ô nhiễm chất đạm và vi khuẩn từ phân bón và chất thải của con người và súc vật.
Theo một phúc trình của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trị số trung bình của vi
khuẩn, vào khoảng 1.500 đến 3.500 MNP/100 ml [MPN/100 ml] dọc theo sông Tiền và
sông Hậu, tăng lên đến 3.800 đến 12.500 MNP/100 ml [MPN/100 ml] trong các kinh thủy
lợi ở nội đồng. Tiêu chuẩn quốc tế hiện nay không cho phép có vi khuẩn trong nước uống.
Thạch tín (arsenic) cũng được phát hiện với nồng độ cao trong nước ngầm ở nhiều nơi
trong vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Ở vùng ĐBSCL, nồng độ thạch tín trong nước
ngầm đang tiến dần đến mức cho phép. Vấn đề ô nhiễm thạch tín, tương tự như trường
hợp của Ấn Độ và Bangladesh, dường như bắt nguồn từ hơn 210.000 giếng khoan ở ĐBSH
và ĐBSCL từ năm 1980.
c. Ô Nhiễm Hóa Chất
Việc sử dụng không đúng cách một số lượng lớn hóa chất và thuốc trừ sâu, trong việc
sản xuất kỹ nghệ và nông nghiệp và phòng ngừa bệnh tật, đã gây nên tình trạng ô nhiễm
hóa chất nghiêm trọng trên cả nước. Các hóa chất nầy có thể chứa các chất hữu cơ dai
dẳng (persistent organic pollutants (POPs)) như PCBs, HCB (hexachlorobenzene), HCHs

(hexachlorocyclo-hexanes), các chất thuộc họ dioxin, furans, và DDT.
Số lượng phân bón dùng trong năm 1996 được ước tính vào khoảng 3.300.000 tấn.
Tổng số lượng NPK (N cho nitrogen, P cho P2O5, và K cho K2O) sử dụng trong 10 năm
qua tăng trung bình 11,6% mỗi năm. Đây là một trong các mức gia tăng cao nhất ở Đông
Nam Á; so với 3,2% ở Nam Dương, 7,2% ở Phi Luật Tân, và 12,1% ở Thái Lan.

12


Theo số liệu chính thức của Bộ Thương mại, năm 2000, đã có gần 34.000 tấn thuốc
BVTV [bảo vệ thực vật] thành phẩm được nhập khẩu. Đó là chưa kể tới việc nhập lậu theo
con đường tiểu ngạch. Ước tính có khoảng 15 triệu tấn thuốc BVTV cực độc, được nhập
lậu và lưu hành trôi nổi trên thị trường. Mặc dù hiện nay, cả nước có khoảng 50 nhà máy,
công ty gia công sản xuất thuốc BVTV với tổng công suất trên 130.000 tấn/năm, vượt gấp
đôi so với nhu cầu, nhưng tình trạng nhập lậu hóa chất BVTV vẫn diễn ra rất phức tạp.
Khoảng 27.000 đến 30.000 tấn dầu ô nhiễm PCBs đã được nhập cảng từ Liên Xô,
Trung Quốc, và Rumania. PCBs được dùng một cách rộng rãi trong các máy biến thế và tụ
điện lớn, dầu thủy lực và dầu chuyển nhiệt, sơn, và dầu nhớt. Một phần của số dầu ô
nhiễm nầy đã được xả trực tiếp vào môi trường và gây ô nhiễm nghiêm trọng .
Việt Nam đang cố gắng chận đứng bệnh tật nhưng lại chấp nhận tình trạng ô nhiễm
môi trường. Thật vậy, DDT đã thấm vào môi trường và dân chúng. Kết quả nghiên cứu ở
tỉnh Nghệ An cho thấy DDT vẫn còn trong một nhà kho hoạt động từ năm 1965 đến năm
1985. Nồng độ của DDT thay đổi từ 3,38 đến 960,6 mg/kg trong các mẩu đất và từ
0,00012 đến 0,00168 mg/l trong các mẩu nước. Trong nhiều năm liên tiếp, mùi thuốc
DDT nồng nặc bay xa đến 600 mét. Đã có 25 người chết vì ung thư, và 22 trường hợp dị
thai được ghi nhận .
DDT có nồng độ cao từ 4.220 đến 7.300 phần tỉ (ppb) đã được phát hiện trong các
mẩu sữa mẹ trong một cuộc nghiên cứu của Bác sĩ (BS) Schecter trong năm 1989. Một
cuộc nghiên cứu khác trong năm 1999 cũng đã phát hiện nồng độ rất cao chẳng những của
DDT và các chất phân hủy của nó (lên đến 1.600 ppb cho DDT và 8.900 ppb cho DDE) mà

còn của POPs chẳng hạn như HCB (lên đến 2.2 ppb), mirex (lên đến 2.2 ppb), dieldrin (lên
đến 0.63 ppb), và PCBs (lên đến 54 ppb) .
Trong một nghiên cứu vào năm 2001, dioxin và các chất cùng họ như PCDDs
(polychlorinated dioxins), PCDFs (polychlorinated dibenzo-furans), và PCBs đã được tìm
thấy trong 20 mẩu máu của cư dân thành phố Biên Hòa. Nồng độ thay đổi từ 2,4 đến 271
phần ức (ppt) cho dioxin, từ 143 đến 1.133 ppt cho PCDDs, từ 43,3 đến 184 ppt cho
PCDFs, và từ 31 đến 156 ppt cho PCBs.
Trong một nghiên cứu vào năm 2002, POPs lại được tìm thấy trong 16 mẩu thực phẩm
(cá, thịt heo, thịt bò, vịt, và ếch) cũng được thu thập từ thành phố Biên Hòa. Nồng độ thay
đổi từ 0,025 đến 331 ppt cho dioxin, từ 17 đến 8.216 ppt cho PCB 118, từ 8,6 đến 919 ppt

13


cho HCHs, lên đến 1.391 ppt cho HCB, từ 46 đến 44.722 ppt cho DDT, và từ 305 đến
149.409 ppt cho DDE. PCDDs và PCDFs cũng được tìm thấy, nhưng ở nồng độ thấp hơn .
Cũng chính vì các vấn đề sức khỏe và môi trường do POPs gây ra trong việc sản xuất
nông nghiệp và kỹ nghệ, Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) đã chọn
Việt Nam là một trong 9 thí điểm nghiên cứu (case studies) về ảnh hưởng của POPs .
d. Ô Nhiễm Không Khí
Bụi là chất ô nhiễm không khí phổ biến nhất tại Việt Nam. Từ năm 1995 đến 1999,
hầu hết các đô thị ở Việt Nam đều bị ô nhiễm bụi, nhiều đô thị bị ô nhiễm bụi trầm trọng
tới mức báo động... Nồng độ bụi ở các khu dân cư ở bên cạnh các nhà máy, xí nghiệp hoặc
gần các đường giao thông lớn đều vượt trị số TCCP [tiêu chuẩn cho phép] từ 1,5 đến 3 lần,
trường hợp cá biệt, gần nhà máy gạch và bia ở thị xã Lào Cai vượt TCCP tới 5 lần. Nơi bị
ô nhiễm lớn nhất là khu dân cư gần các nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy VICASA
TP. Biên Hòa, khu công nghiệp Tân Bình (TP. Hồ Chí Minh), nhà máy Tuyển than Hòn
Gai (TP. Hạ Long). Theo một phúc trình của Ngân hàng Thế giới năm 1995, bụi từ nhà
máy xi măng bao phủ hầu hết Hải Phòng, thành phố lớn thứ ba, vượt TCCP của chánh phủ
từ 3 đến 8 lần.

Nói chung, nồng độ trung bình hàng ngày của CO và NO2 thì thấp hơn TCCP ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẳng, Hải Phòng. Tuy vậy ở một số nút giao
thông lớn trong đô thị nồng độ khí CO và khí NO2 đã vượt trị số TCCP, như là ở ngã tư
Đinh Tiên Hoàng - Điện Biên Phủ (TP. Hồ Chí Minh) trị số trung bình ngày năm 1999 của
nồng độ NO2 = 0,255 [mg/m3], gấp 2,55 lần trị số TCCP, nồng độ CO = 15,46 mg/m3,
gấp hơn 3 lần trị số TCCP; ở khu nhà máy thép Đà Nẳng trị số trung bình năm 1999 của
nồng độ NO2 = 0,11 mg/m3, gấp 1,1 lần trị số TCCP, nồng độ CO = 12,2 mg/m3, gấp 2,44
lần trị số TCCP; ở khu công nghiệp Thượng Đình (Hà Nội), 1999 có CO = 7,2 mg/m3, gấp
1,44 lần trị số TCCP; ở khu nhà máy xi măng Hải Phòng, 1999 có CO = 9,42 mg/m3, gấp
1,88 lần trị số TCCP.
Chỉ là một chất ô nhiễm không khí phổ biến khác, nhất là ở các đô thị. Trong năm
1991, thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 750.000 xe gắn máy và 75.000 xe cộ các loại, tất
cả đều dùng xăng pha chì. Việc nầy làm cho nồng độ chì trong không khí đo được trong
khoảng từ 1 đến 4 micrograms/m3 (mg/m3). Để so sánh, theo kết quả nghiên cứu đăng
trên tạp chí Pediatrics năm 1994, nồng độ chì trong không khí ở thành phố Chicago trong

14


năm 1988 thì dưới mức 0.5 mg/m3. Nhiều nơi ở thành phố Hà Nội, nồng độ chì vượt quá
mức 4 mg/m3 trong năm 1998.
Ô nhiễm không khí do một số nhà máy xí nghiệp (ví dụ như nhà máy gạch Cầu
Đuống, nhà máy điện Phả Lại v.v.) đã gây tác hại đối với sản xuất nông nghiệp vùng xung
quanh, làm giảm sản lượng lúa từ 20 đến 50%. Môi trường không khí ở một số xí nghiệp
nhà máy (như là nhà máy Xi măng Hải Phòng, khu Công nghiệp Thượng Đình) đã bị ô
nhiễm nặng nề về bụi và khí SO2 và tác động trực tiếp đến sức khỏe con người, làm tăng
tỷ lệ số người bị mắc bệnh về hô hấp từ 1,5 đến 2,5 lần so với các khu vực dân cư bên cạnh
không bị ô nhiễm.

15



e. Rác
Rác gia dụng và kỹ nghệ cũng là một nguyên nhân gây nhiễm môi trường ở Việt Nam.
Theo Báo Cáo Hiện Trạng Môi Trường Việt Nam 2001 (8), rác gia dụng trung bình vào
khoảng 16.200 tấn/ngày trong năm 1996, 19.300 tấn/ngày trong năm 1997, và tăng lên
khoảng 22.200 tấn/ngày trong năm 1998. Các con số nầy không bao gồm khoảng 800 tấn
bùn của hầm cầu (cesspool sludge) được đổ vào các bãi rác mỗi ngày. Rác kỹ nghệ được
ước tính vào khoảng 15 đến 26% lượng rác gia dụng, trong số đó có khoảng 35 đến 41%
có chứa chất độc hại. Rác có chất độc hại được ước tính vào khoảng 2.200 tấn/ngày trong
năm 1998 và 2.600 tấn/ngày trong năm 1999. Rác y tế được ước tính vào khoảng 50 đến
75 tấn/ngày. Hầu hết rác có chất độc hại thì không được khử độc hoặc khử độc không
đúng mức rồi đổ vào các bãi rác lộ thiên cùng với rác gia dụng. Khoảng 13 đến 20% rác
được tái dụng hoặc tái sinh qua những người bươi rác. Họ thu nhặt nhựa, giấy, kim loại và
thủy tinh.
Vì thiếu một hệ thống thu gom và đổ rác thích hợp, rác thường được đổ bất hợp pháp
xuống sông rạch, gây nên tình trạng tắc nghẽn lưu thông và ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng cho các thủy lộ này. Ở thành phố Hồ Chí Minh, khoảng 100 tấn rác được đổ xuống 5
con kênh chính mỗi ngày, và số lượng rác trôi nổi trong các con kinh nầy được ước tính
khoảng 53.000 tấn . Các bãi rác tân tiến của thành phố Hồ Chí Minh như Đông Thạnh,
Tam Tân, và Phước Hiệp “... không có lớp chống thấm ở đáy hoặc chung quanh thành,
không có hệ thống thu gom và kiểm soát nước rỉ và khí, không được phủ kín hàng ngày, và
không có hàng rào chung quanh” . Các bãi rác nầy đã trở thành nguồn ô nhiễm môi trường
cho những khu vực lân cận .

2.2.2. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với việc tăng trưởng kinh tế
Ô nhiễm môi trường đã và đang ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế và
xã hội ở Việt Nam. Ô nhiễm nguồn nước làm giảm số lượng nước có thể sử
dụng, giết chết cá nuôi bè trong sông, và gây thiệt hại cho cây cối và hoa màu
được trồng trọt bằng nước sông rạch bị ô nhiễm. Ngân hàng Thế giới đang

đấu thầu cho một dự án trị giá 150 triệu USD để xây nhiều đường ống dẫn
nước, nới rộng và nâng cấp các nhà máy lọc nước, và đặt đường ống phân
phối cho 4 thành phố lớn .Do việc sử dụng Chloramphenicol và nitrofuran để
đối phó với nguồn nước bị ô nhiễm, công nghiệp kỹ nghệ thủy sản Việt nam
vừa thất thu hàng chục triệu USD. Chi phí cho việc khắc phục ô nhiễm nước
thì tốn kém hơn. Chỉ trong đồng bằng sông Hồng, chi phí cho việc khắc phục
16


ô nhiễm nước có thể lên đến 4 tỉ USD. Nếu không khắc phục, chi phí cho tình
trạng ô nhiễm nước có thể lên tới 8 đến 12 tỉ USD. Trong các lưu vực sông
Sài Gòn và Đồng Nai, chi phí cho việc phòng ngừa ô nhiễm nước được ước
tính khoảng 130 triệu USD.
Ô nhiễm hóa chất đã và đang đe dọa sức khỏe và sự an toàn của người
dân và ảnh hưởng đến phẩm chất của các loại nông sản như thịt, cá, trái cây,
và rau cải. Mối đe dọa lớn nhất chính là ngộ độc thực phẩm. Trong hai năm
1998 và 1999, có 10.034 người bị ngộ độc thuốc trừ sâu trong 8.758 trường
hợp được ghi nhận, trong số đó có 198 người chết. Riêng trong năm 2001, có
tất cả 7.613 người bị ngộ độc trong 6.962 trường hợp với 187 người chết. Ảnh
hưởng lâu dài của ô nhiễm hóa chất, bao gồm tử vong, ung thư, và dị thai đã
được ghi nhận và báo cáo. Một ngân khoản khoảng 130 triệu USD đã được
chấp thuận cho các chương trình an toàn thực phẩm trong năm 2003.
Kỹ nghệ du lịch cũng có thể bị ảnh hưởng vì ô nhiễm môi trường ở
các địa điểm du lịch, nhưng ảnh hưởng có thể chưa được ghi nhận.
Theo dữ kiện của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tổng sản lượng quốc
gia (GDP) đã tăng trưởng ở mức trung bình 7,5% từ năm 1991 đến năm 2000.
Nhưng sự tăng trưởng nầy không bao gồm “các chi phí ô nhiễm môi trường.”
Nếu các chi phí ô nhiễm môi trường ở Việt Nam được ước tính chỉ bằng một
nửa các chi phí ở Trung Hoa, tức vào khoảng 9,5% GDP, tổng sản lượng quốc
gia của Việt Nam thật ra đã giảm trung bình khoảng 2,0% một năm từ năm

1991 đến năm 2000.
2.2.3. Các giải pháp khắc phục
Ðể đạt được các mục tiêu bảo vệ môi trường quốc gia, các cấp, các
ngành từ trung ương tới địa phương và toàn cộng đồng cần tổ chức thực hiện
tốt các giải pháp chính sau đây:
- Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường : Tổ chức nâng
cao nhận thức môi trường cho cộng đồng, tư nhân, doanh nghiệp, các tổ chức
chính trị, xã hội thông qua các biện pháp phổ biến kiến thức pháp luật, tuyên
truyền, phổ cập hoá nhận thức môi trường theo các chương trình và thông tin
môi trường như tivi, đài, báo hoặc mở lớp tập huấn vv...và các phương tiện
khác. Thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, như tổ chức quần
chúng tham gia các phong trào Xanh-Sạch-Ðẹp, VAC, VACR, cung cấp nước
sạch và vệ sinh môi trường, gia đình văn hóa mới,.....
- Tăng cường vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong bảo vệ môi
trường: Nhà nước thực hiện chính sách xã hội hoá bảo vệ môi trường bằng
luật pháp, các văn bản pháp lý, để huy động cộng đồng tham gia vào các hoạt
động quản lý môi trường các cấp, vào việc ra các quyết định liên quan của các
cơ quan nhà nước. Các tư nhân, các doanh nghiệp thực hiện chiến lược bảo vệ
môi trường theo các qui định của pháp luật, các chính sách và kế hoạch của
17


nhà nước như đầu tư cải thiện môi trường, tổ chức sản xuất sạch hơn để thực
hiện hệ thống quản lý môi trường doanh nghiệp theo tiêu chuẩn 780/4001 hoà
nhập vào thị trường thương mại trong khu vực và quốc tế. Nhà nước có chính
sách tư nhân hoá dịch vụ môi trường.
- Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường: Thành lập Quỹ Môi
trường Quốc gia để huy động các nguồn lực của Nhà nước, cộng đồng, của
các tổ chức trong và ngoài nước và sự ủng hộ, tài trợ của các tổ chức quốc tế
để tập trung giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc ưu tiên.

- Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường: hoàn thiện bộ máy
tổ chức của hệ thống quản lý nhà nước về môi trường từ trung ương đến địa
phương, nâng cấp hệ thống cơ quan quản lý môi trường trung ương thành lập
Tổng cục Môi trường, hoặc Bộ Môi trường và kiện toàn tổ chức quản lý môi
trường ở các Bộ/ngành; kiện toàn tổ chức quản lý môi trường ở cấp tỉnh,
thành phố, quận huyện và các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp
tập trung, .v.v... Tăng cưòng năng lực quản lý nhà nước về môi trường phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ của hệ thống tổ chức như tăng cường nguồn lực
về nhân lực về đầu tư cho các hoạt động quản lý môi trường; chú trọng đầu tư
cho nghiên cứu chính sách và pháp luật, kiểm soát ô nhiễm và chất thải, thanh
tra, hệ thống quan trắc và phân tích môi trường...
- Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút sự tài trợ của quốc tế: thực hiện các
Công ước quốc tế về môi trường, tham gia các chương trình, dự án đa phương
hoặc song phương về bảo vệ môi trường. Hàng năm cần tổ chức diễn đàn các
nhà tài trợ, tiến hành các hoạt động trao đổi thông tin, thảo luận về các chủ đề
có liên quan, các cơ chế hợp tác giữa các bên liên quan, giữa các nhà tài trợ và
giữa chính phủ với các nhà tài trợ để phối hợp các nguồn viện trợ cho các
chương trình, dự án hợp tác về môi trường.
- Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội
- Lựa chọn các hành đông ưu tiên cho các chương trình có mức độ cao nhất
như: Xây dựng và thực hiện kế hoạch chủ đạo, toàn diện phát triển công
nghiệp bền vững, bao gồm tất cả các giai đoạn sẻ dụng tài nguyên, sản xuất và
quản lý chất thải. Tiếp tục ban hành các tiêu chuẩn và quy định về bảo vệ môi
trường và sử dụng bền vững các nguồn nước mặt, các lưu vực, các đập chứa
nước và nước ngầm. Xây dựng chiến lược và kế hoạch quản lý khu chứa chất
thải rắn, chất thải nguy hại và hệ thống xử lý hiệu quả cho tất cả các thành
phố loại I và II, các khu đô thị có mật độ dân cư cao....

18



19


KẾT LUẬN
Kể từ khi chính sách đổi mới được thi hành vào năm 1986, nền kinh tế
Việt Nam đã tăng trưởng tương đối nhanh, với tổng sản lượng quốc gia tăng
trung bình khoảng 7,5% một năm trong vòng 12 năm qua. Nhưng môi trường
đã phải trả một cái giá khá cao cho sự tăng trưởng kinh tế. Và hiện nay, Việt
Nam đang đối phó với những vấn đề ô nhiễm môi trường hết sức nghiêm
trọng. Tình trạng ô nhiễm môi trường đã có ảnh hưởng đến việc phát triển xã
hội và kinh tế ở Việt Nam. Chúng ta cần phải có những thay đổi toàn diện,
sâu rộng, và nhanh chóng để cải thiện hệ thống bảo vệ môi trường hiện nay,
bao gồm việc tăng cường khả năng quản trị, huấn luyện và giáo dục kỹ thuật,
và soạn thảo luật lệ về bảo vệ môi trường cho thích hợp và có hiệu quả.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

CÁC GIÁO TRÌNH :
- Giáo trình Triết học Mác - Lênin
- Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin

CÁC WEBSITE :
- www.vnexpress.com
- vietnamnet.vn
- www.laodong.com.vn

- www.va21.org
- www.mpi.gov.vn
- www.monre.gov.vn
- www.moc.gov.vn ᄃ

21


Mục lục
Trang
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................1

1. Nguyªn lý vÒ mèi liªn hÖ phæ biÕn..................................................1
1.1. Khái niệm............................................................................................................1
1.2. Tính chất của mối liên hệ....................................................................................2
1.3. Ý nghĩa của nguyên lý.........................................................................................5

2. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái .................................................................................................5
2.1. Tăng trưởng và phát triển kinh tế........................................................................5

2.1.1. Đánh giá tổng quan về nền kinh tế Việt Nam qua các thời kì....5
2.1.1.1. Thời kì kinh tế bao cấp ( 1976 – 1985 ):................................5
2.1.1.2. Thời kì hội nhập và mở cửa (1986 đến nay)...........................6
2.1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng trưởng và
phát triển kinh tế trong tương lai........................................................8
2.1.2.1.Mục tiêu đề ra........................................................................9
2.1.2.2. Nhiệm vụ, giải pháp lớn của kế hoạch phát triển kinh tế trong 5
năm 2006 – 2010..............................................................................9
2.2. Bảo vệ môi trường sinh thái..............................................................................10


2.2.1.Thực trạng môi trường nước ta và những ảnh hưởng của tăng
trưởng kinh tế tới môi trường sinh thái trong những năm gần đây.....10
2.2.2. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với việc tăng trưởng kinh
tế....................................................................................................16
2.2.3. Các giải pháp khắc phục........................................................17
KẾT LUẬN..........................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................21

22



×