A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU
Thuở sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói “Trẻ em hôm nay
thế giới ngày mai”.Thật vậy! Trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là
tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của cha ông để xây dựng
Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.Chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ là một quá
trình tác động có mục đích, có kế hoạch lên tình cảm, lý trí của trẻ nhằm thay
đổi nhận thức, thái độ, hành động để trẻ tự giác chăm lo đến vấn đề ăn uống, vệ
sinh sức khỏe, cá nhân tập thể và cộng đồng.
Ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước ,với nền kinh tế không ngừng phát triển về mọi mặt để tiếp cận với một
nền văn minh cao.Trong đó con người đứng ở vị trí trung tâm, giáo dục mầm
non là khâu đầu tiên trong nền giáo dục quốc dân góp phần quan trọng để tạo
điều kiện cho sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. thực hiện nhiệm vụ của bộ
giáo dục và đào tạo ngành học mầm non đã đưa nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng
vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ, đây là việc làm vô cùng cần thiết,nó tạo
được sự liên thông chăm sóc nuôi dưỡng từ độ tuổi mầm non cho đến lưa tuổi
học đường.
Như vậy giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường mầm
non là việc làm cần thiết, đối với trẻ mẫu giáo nói chung, trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi
nói riêng. Trẻ lứa tuổi này rất dễ nhạy cảm và mau chóng tiếp thu những điều
học được ở trường, hình thành dấu ấn lâu dài, giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu
giáo sẽ góp phần quan trọng tạo ra lớp người mới có sự hiểu biết đầy đủ về dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, biết lựa chọn ăn, uống hợp lý, đúng cách,
đảm bảo sức khoẻ tốt. Xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa đảm
bảo vừa đủ đức, đủ tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Để những chủ nhân tương
lai của đất nước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và làm xã hội ngày càng
phát triển.
Với tầm quan trọng của việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn cho trẻ
mầm non, bản thân tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi những biện pháp, thủ thuật trong
quá trình giáo dục trẻ, lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động dinh dưỡng, sức
khoẻ và vệ sinh an toàn thực phẩm mọi lúc mọi nơi một cách tích cực, đạt hiệu
quả cao nhất. Vì vậy năm học này tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Lồng ghép nội
dung dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở mọi lúc mọi nơi cho trẻ 45 tuổi”.
1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống quốc dân, sự phát
triển của trẻ thời kỳ này có một vị trí đặc biệt quan trọng trong giáo dục thế hệ
trẻ, có vai trò quyết định, tạo tiền đề vững chắc cho phát triển về sau, xuyên suốt
cả một đời người. Dinh dưỡng được xem như một nhu cầu hàng ngày, nhu cầu
cấp bách, bức thiết không thể thiếu được vì nó cung cấp năng lượng và các chất
dinh dưỡng giúp cho cơ thể duy trì các tế bào tổ chức và năng lượng để hoạt
động.Vì lứa tuổi này vốn có một tiềm lực mạnh mẽ nếu được giáo dục nuôi
dưỡng chăm sóc tốt, các cháu sẽ sớm phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm một
cách đúng hướng. Sức khỏe của trẻ em phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Chế độ
dinh dưỡng, phòng bệnh, di truyền, môi trường.. trong đó dinh dưỡng có vai trò
quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của trẻ em.
Trong thời đại của nền văn minh trí tuệ giáo dục mầm non đang có những
chuyển biến mới về chất lượng, đổi mới chung của ngành giáo dục. Dưới ánh
sáng của Nghị quyết về công tác cải cách giáo dục điều lệ trường mầm non cũng
đãc nêu lên nhiệm vụ hàng đầu trong 4 nhiệm vụ của trường mầm non, vì vậy
việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhằm phát triển cân đối hài hòa, nhằm chống đỡ
bệnh tật. Vì thế nếu chúng ta chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh không tốt về cá nhân
trẻ, môi trường trong và ngoài lớp đều gây cho trẻ ốm đau, bệnh tật, dẫn đến sự
phát triển về thể chất bị kìm hãm, các quá trình tâm sinh lý đang trên đà hình
thành và phát triển cũng không thể nào phát triến trên một cơ thể gầy còm, ốm
yếu.
Chính vì vậy lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm cho trẻ trong các hoạt động trong ngày là việc làm vô cùng quan trọng vì
sức khỏe vốn là quý, qua đây tao điều kiện cho trẻ phát triển tốt cả về thể lực và
trí tuệ sau này. Vì vậy nếu trẻ được chăm sóc, ăn uống đầy đủ, ngủ đủ giấc,
được tham gia các hoạt động học tâp, vui chơi phù hợp thì trẻ sẽ phát triển toàn
diện cả về thể chất và trí tuệ.
II.THỰC TRẠNG CỦA VẦN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Những thuận lợi
* Đối với nhà trường: Là trường chuẩn Quốc gia, tổ chức nuôi bán trú 100%
tại trường nên có đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình chăm sóc nuôi
2
dưỡng, giáo dục trẻ và thực hiện chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm đạt hiệu quả.
Trường có khuôn viên thoáng mát, sạch sẽ có hệ thống cống rãnh hợp vệ
sinh, có nguồn nước sạch phục cho quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
* Đối với bản thân: Năm học 2013– 2014 tôi được phân công đứng lớp mẫu
giáo 4-5 tuổi. Với 3 năm kinh nghiệm chủ nhiệm cùng một độ tuổi và trực tiếp
chăm sóc nuôi dạy trẻ, đây là điều kiện tốt để tôi tìm tòi ra những giải pháp hay
dạy trẻ một cách phù hợp và hiệu quả hơn . Đặc biệt là những kinh nghiệm để
lồng ghép nội dung dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ.
* Đối với trẻ: Trẻ cùng độ tuổi, Đa số các cháu đều nhận biết và gọi tên các loại
thực phẩm sẵn có ở địa phương. Các cháu có một số kỹ năng tự phục vụ trong
ăn uống và vệ sinh cá nhân.
* Đối với phụ huynh: Luôn sát cánh cùng nhà trường cho nên công tác phối kết
hợp giữ gia đình trẻ và cô giáo đạt hiệu quả cao.
2. Những khó khăn:
* Đối với nhà trường: Trường còn thiếu một số trang thiết bị hiện đại phục vụ
cho công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ .
Giá cả thị trường không ổn định, tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm tăng. Do
đó nguồn thực phẩm tươi ngon phục vụ cho trẻ trở nên khan hiếm và đắt đỏ hơn,
gây nhiều khó khăn cho công tác nuôi dưỡng trẻ.
* Đối với bản thân: Là một giáo viên trẻ mới vào nghề nên bề dày kinh
nghiệm chưa có nhiều. Khả năng gây hứng thú cho trẻ vào các hoạt động, nhất
là hoạt động giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn
chế.
* Đối với trẻ: Trẻ lớp tôi đa số là con em nông thôn nên sự hiểu biết về dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế. Những món ăn trẻ được
tiếp xúc còn ít, nhiều trẻ còn chưa biết mình thích ăn món gì nhất.
Trẻ chưa có khả năng phân loại thực phẩm theo nhóm, chưa nhận biết được
thành phần những món ăn, chưa nhận biết được loại thực phẩm đang chế biến có
chứa chất gì, chưa biết cách chế biến những món ăn đơn giản.
Sự hiểu biết về ăn uống đúng cách để có lợi cho sức khoẻ và phòng tránh
bệnh tật còn nhiều hạn chế.
3
* Đối với phụ huynh: Một số bậc phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến sức
khoẻ của trẻ để trẻ ăn, ngủ, vệ sinh tuỳ thích, mất vệ sinh. Từ đó dẫn đến số trẻ
suy dinh dưỡng còn nhiều và mắc một số bệnh tật như: ngoài gia, đau mắt, tiêu
chảy, hô hấp...
3. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên
* Kết quả cân đo, chấm biểu đồ:
Cụ thể đầu năm tôi đã cân đo chấm biểu đồ với số trẻ là 30 trẻ.
Số trẻ ở kênh BT: 26 trẻ = 86%
Số trẻ ở kênh SDD: 4 trẻ = 14%
* Xuất phát từ thực tế đó tôi đã tiến hành khảo sát tổng số trẻ 30 trong đó 10 trẻ
gái và 20 trẻ trai. Qua bảng khảo sát chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh
an toàn thực phẩm như sau:
TT
1
2
3
4
5
6
Nội dung khảo sát
Trẻ biết gọi tên các loại
thực phẩm đơn giản
Phân loại nhận biết
phân biệt được 4 nhóm
thực phẩm thông
thường
Trẻ biết ăn nhiều loại
thực phẩm khác nhau
Biết hoạt động chế
biến các món ăn đơn
giản
Trẻ biết sử dụng dụng
cụ ăn uống đơn giản,
có thói quen vệ sinh
Có thói quen vệ sinh
văn minh trong ăn
uống, có thói quen vệ
sinh cá nhân
Tổng
số
Kết quả đạt trên trẻ
Khá
%
TB
%
Tốt
%
30
7
23
10
33
8
30
6
20
8
27
30
7
23
10
30
5
17
30
8
30
7
Yếu
%
27
5
17
9
30
7
23
33
8
27
5
17
6
20
10
33
9
30
27
9
30
9
30
4
13
23
8
27
10
33
5
17
Qua bảng khảo sát cho thấy kết quả chung trên trẻ còn thấp:
- Tỷ lệ trẻ đạt tốt, khá: đạt chưa cao; Tỷ lệ trung bình, Yếu: còn nhiều
4
Từ thực trạng trên để nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm cho trẻ tôi đã nghiên cứu tìm tòi sáng tạo và áp dụng các hình
thức giáo dục phù hợp giúp trẻ tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Từ đó
giúp trẻ phát triển một cách toàn diện hơn.
III. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Tạo môi trường giáo dục phong phú phù hợp với chủ đề giúp trẻ biết
thêm về các loại thực phẩm, cả những thực phẩm mà địa phương không có.
Ngay từ đầu năm học tôi đã vận động phụ huynh cùng tham gia làm đồ dung
đồ chơi trang trí lớp, nhằm giúp trẻ tích cực khám phá tìm tòi phục vụ trong quá
trình học tập của trẻ.
Trong lớp tôi đã trang trí làm nổi bật góc “Bé khám phá khoa học” với
nhiều nội dung phong phú gắn liền với từng chủ đề thực hiện
Ví dụ: Ở chủ đề “Thế giới thực vật” tôi cho trẻ quan sát sự nảy mầm của hạt.
Để sau khi trẻ được ăn những loại quả, biết được tên gọi, đặc điểm cấu tạo, chất
dinh dưỡng mà quả cung cấp. Đồng thời giáo dục trẻ biết gieo hạt, hạt nảy mầm
thành cây và cây được lớn lên như thế nào?
Ở chủ đề “Thế giới động vật” tôi dùng lá xoài khô, bẹ ngô, đĩa CD, làm
những con cá sống ngoài biển, như cá thu, cá chim, làm những con vật, ở địa
phương không có để cho trẻ được làm quen.
2. Tổ chức cho trẻ được thăm quan, quan sát thực tế để trẻ tiếp thu tri thức
mới và có dịp củng cố kiến thức đã học
Đặc điểm của trẻ là dễ nhớ mau quên. Vì vậy việc cho trẻ quan sát thực tế là
rất cần thiết giúp trẻ ghi nhớ có chủ định. Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi cho
trẻ thăm quan vườn rau sạch của bé và sắp xếp cho trẻ đi thăm quan mô hình
vườn, ao, chuồng của gia đình gần trường, đến vườn rau được quan sát trẻ nhớ
tên gọi, đặc điểm các loại rau: rau su hào, bắp cải, cà chua, đậu quả, rau mồng
tơi, rau muống, .... được quan sát ao cá, khu chăn nuôi gà vịt nuôi gà...
3. Tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm thực tế giúp trẻ có cơ hội thực
hành rèn luyện kỹ năng chế biến món ăn, kỹ năng vệ sinh cá nhân và vệ
sinh chung
Để trẻ thực hành trên sản phẩm thực tế được tốt trước hết phải hướng dẫn trẻ
cụ thể, cách đong đếm, cách sử dụng một số đồ dùng, dụng cụ nấu ăn và pha chế
thức uống như dao, thìa, cốc, chén…Sau đó, hướng dẫn trẻ thực hành từng bước
5
trên sản phẩm. Dạy trẻ biết sử dụng đồ dùng phục vụ việc ăn uống, tạo ra một số
món ăn, nước uống đơn giản: như pha nước chanh, vắt nước cam…
Hình thành ở trẻ thói quen ăn uống tốt, thích thú với các món ăn do mình tạo
ra và giúp trẻ có thói quen vệ sinh, hành vi văn minh, lao động tự phục vụ ở trẻ,
hình thành kĩ năng sống cơ bản của trẻ.
4. Thường xuyên tổ chức cho trẻ “Tập làm nội trợ”.
Qua hoạt động “Tập làm đầu bếp” trẻ được thực hành, học tập một cách tích
cực các bài học về dinh dưỡng như cách ăn, cách chọn thức ăn giàu dinh dưỡng.
- Động viên khuyến khích, huy động sự tham gia của các bậc cha mẹ trong việc
tổ chức cho trẻ thực hiện các nội dung “Tập làm nội trợ” Như: Đóng góp các
thực phẩm để trẻ thực hành (Rau, củ, quả, tiền….) thu thập các tài liệu, tranh
ảnh có liên quan; tham gia “Triển lãm” tranh “ Bé tập làm nội trợ”; tham gia tổ
chức liên hoan sinh nhật, lễ, tết với trẻ; trò chuyện hướng dẫn trẻ thực hành
“Tập làm nội trợ” qua các trò chơi.
Hình ảnh ( Bé tập làm nội trợ)
5. Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ thông qua các
hoạt động trong ngày ở mọi lúc mọi nơi.
5.1. Giờ đón trả trẻ:
- Tôi trò chuyện với trẻ về các loại thực phẩm mà trẻ biết tác dụng của thực
phẩm đó đối với dức khoẻ con người phù hợp với chủ đề, giáo dục trẻ giữ gìn vệ
sinh cá nhân, vệ sinh chung.
Ví dụ: Ở chủ đề “thế giới thực vật” tôi trò chuyện với trẻ về các loại rau, quả
như tên gọi, đặc điểm, là thực phẩm chứa nhiều chất vitamin, chất khoáng, ăn
6
các loại rau quả giúp cho cơ thể tăng sức đề kháng, phòng chống bệnh tật.
Trước khi ăn phải làm sạch, gọt rửa các loại thực phẩm, rửa tay, rửa các dụng cụ
chế biến.
- Tôi cho trẻ làm quen với đồ dùng, đồ chơi mới, từ đó giới thiệu thêm một số
thực phẩm mới cho trẻ biết về tên gọi các chất có trong các loại thực phẩm đó
giúp trẻ có thêm kiến thức về các loại thực phẩm mà địa phương không có.
Ví dụ: ở chủ đề “thế giới động vật” tôi cho trẻ làm quen với đồ chơi mới do bản
thân tôi tự làm về các loại cá nước lợ, nước mặn mà ở địa phương tôi không có.
Như cá chim, cá thu, cá hồi... Sau đó tôi giới thiệu về tên gọi của từng loại cá và
cho trẻ biết các loại cá này sống ở biển và vùng gần biển nên ở địa phương
không có các loại cá này là thực phẩm chứa nhiều chất đạm...
Ngoài ra tôi còn cho trẻ kể tên các món ăn mà trẻ biết và để trẻ tự kể mình
thích ăn món gì nhất, qua đó tôi cũng tranh thủ giới thiệu thêm các món ăn khác
để góp phần làm tăng vốn hiểu biết phong phú về các món ăn cho trẻ.
5.2. Hoạt động có chủ định
Tổ chức các giời hoạt động có chủ định là hoạt động chủ đạo để giúp tôi
lồng ghép, tích hợp giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ
một cách tốt nhất. Bởi vậy, căn cứ vào nội dụng cụ thể của từng hoạt động mà
tôi tiến hành lồng ghép phù hợp như sau:
* Với hoạt động khám phá môi trường xung quanh :
Đậy là hoạt động chính giúp trẻ tiếp thu những kiến thức cơ bản về các loại
thực phẩm, các chất dinh dưỡng - sức khoẻ và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thông qua các hoạt động cho trẻ khám phá về các loại rau, củ, quả các loại,
các con vật nuôi trong gia đình. Tôi dạy trẻ biết gọi tên các loại thực phẩm, tên
gọi các món ăn chế biến từ các loại thực phẩm ấy và giúp trẻ biết được nguồn
gốc các loại thực phẩm các chất có trong các thực phẩm ấy.
Ví dụ: Khi cho trẻ khám phá về các con vật nuôi trong gia đình cụ thể là con gà
mái trẻ biết được gà mái đẻ ra trứng, trứng là thực phẩm có nhiều chất đạm ăn
trứng giúp cơ thể trẻ nhanh lớn. Qua đó động viên những trẻ chưa thích ăn trứng
để trẻ tự giác ăn, động thời giáo dục những trẻ thích ăn trứng gà ăn ở mức độ
vừa phải nếu ăn trứng gà hàng ngày sẽ bị mắc bệnh không tốt cho sức khoẻ.
Trứng có thể chế biến thành các món ăn: Trứng rán, trứng luộc, trứng đúc thịt,
trứng có thể dùng nấu canh cà chua.
7
* Với hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
Như chúng ta đã biết văn học là tác phẩm nghệ thuật, ngôn ngữ của văn học
là ngôn ngữ biểu cảm lôi cuốn người nghe, các tác phẩm văn học có các tình
huống hấp dẫn thu hút sự chú ý của trẻ. Chính vì vậy những hoạt động làm quen
sinh an toàn thực phẩm một cách nhẹ nhàng và thoải mái nhất từ đó trẻ lĩnh hội
nhanh những kiến thức mà cô truyền thụ.
Ví dụ : Khi dạy bài thơ” hạt gạo làng ta “nếu lồng dinh dưỡng bằng cách:sau khi
đọc bài thơ cô hỏi :gạo dùng để làm gì ? gạo được chế biến thành những món ăn
gi?gạo cung cấp chất gi? Tôi thiết nghĩ giáo dục dinh dưỡng lúc này là không
hợp lí ,tuy nói lồng ghép ở mọi lúc mọi nơi nhưng phải lồng ghép ở từng hoàn
cảnh sao cho ý nghĩa của nó không sai lệch. Bài thơ nói về nỗi vất vả của người
lao động một nắng hai sương mới làm nên hạt gạo .
Để lồng ghép phù hợp tôi đã đưa giáo dục dinh dưỡng vào phần giới thiệu
bài hát : ‘’hạt gạo làng ta “sau khi cho trẻ nghe xong cô hỏi.
+ Bài hát nói về hạt gì?
+ Ai đã làm ra hạt gạo?
+ Gạo cung cấp chất gi?
Từ đó giáo dục các trẻ biết gạo giàu chất bột đường cung cấp năng lượng
giúp cơ thể khỏe mạnh ,gạo còn được chế biến ra nhiều món ăn khác nhau. Rồi
sau đó cô cho trẻ quan sát một số loại gạo như :gạo nếp ,gạo tẻ …..rồi sau đó
dẫn trẻ vào bài.
Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với một số loại rau ,củ ,quả cho trẻ 4 tuổi lớp tôi
.Tôi cho trẻ đóng các vai về rau, củ, quả để tự giới thiệu về mình như:
Tôi là “bắp cải” tôi mang trong mình rất nhiều vitamin và muối khoáng,
các bạn có thể chế biến tôi thành nhiều loại thức ăn khác nhau như :xào ,luộc
,nấu lẩu cũng rất ngon và tôi luôn hết mình phục vụ các bạn.
Hay “tôi là cà rốt”da dẻ hồng hào dáng hình nhỏ nhắn nhưng tôi lại cung
cấp rất nhiều vitaminA giúp cho mắt các bạn sáng hơn .sau đó tôi mới dẫn dắt
vài bài ,làm như vầy các tiết học sẻ trở nên sinh động hơn và hấp dẫn hơn nhiều.
* Với hoạt động tạo hình
Thông qua hoạt động tạo hình tôi cũng khéo léo lồng ghép giáo dục dinh
dưỡng: Giúp trẻ biết thêm về các thực phẩm, tên thực phẩm, đặc điểm thực
8
phẩm các chất có trong thực phẩm đó. Trẻ được trực tiếp tham gia hoạt động
như vẽ, nặn, cắt, xé dán từ đó giúp trẻ nhớ lâu các loại thực phẩm đó.
Ví dụ: Với hoạt động vẽ “Vườn cây ăn quả” Tôi cho trẻ gọi tên các loại quả,
mầu sắc của các loại quả, giáo dục trẻ ăn quả cung cấp cho ta nhiều vitamin,
giáo dục vệ sinh cho trẻ trước khi ăn quả phải rửa sạch gọt vỏ bỏ hạt, sau khi ăn
phải bỏ vỏ hạt vào thùng rác khi rửa quả phải biết tiết kiệm nước…
* Thông qua các hoạt động khác: âm nhạc, làm quen với toán,….
Ví dụ 1: Dạy hát bài “Quả gì” tôi khéo léo lồng ghép giáo giục trẻ để trẻ được
biết có rất nhiều loại quả khác nhau, trẻ kể tên các loại quả có trong bài hát và
giáo dục cho trẻ biết trong các loại quả chứa nhiều vitamin và chất khoáng khi
ăn thì phải rửa sạch gọt vỏ, bỏ hạt.
Ví dụ 2: Làm quen với Toán: Cho trẻ nhận biết số 5 chủ đề thế giới động vật tôi
sử dụng các nhóm đồ vật gồm 5 con thỏ và 5 củ cà rốt để trẻ nhận biết và lập số
5 Sau đó tôi lồng ghép giáo dục dinh dưỡng bằng cách: trò chuyện với trẻ thỏ rất
thích ăn cà rốt vì ăn cà rốt cung cấp chất VTM giúp gia dẻ hồng hào, khỏe mạnh
... Các con có thích ăn cà rốt không? Ăn cà rốt cung cấp chất gì?...
Cứ như vậy tôi nhẹ nhàng lồng ghép tích hợp giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt
động trẻ đạt hiệu quả rất cao, trẻ nhận biết tốt và thích khám phá.
5.3. Hoạt động ngoài trời:
Tổ chức cho trẻ hoạt động ngoài trời cũng có ý nghĩa rất quan trọng trẻ
được trực tiếp thăm quan, dạo chơi ngoài trời, được chăm sóc vườn rau trự tiếp
giúp trẻ hiểu và biết tên các loại rau, trực tiếp quan sát đặc điểm của các loại rau,
quả
Ví dụ: Quan sát vườn rau trẻ được gọi tên các loại rau, quan sát đặc điểm của
các loại rau, củ, quả...; các con vật tôm, cá, cua, ngao ốc, gà, vịt ....
9
Hình ảnh ( bé tưới rau)
* Tổ chức các trò chơi.
Tôi cũng cho trẻ biết một số loại thực phẩm giàu các chất dinh dưỡng
như:đạm, chất béo, chất bột đường, chất vitamin và muối khoáng, Tôi củng cố
kiến thức dưới dạng trò chơi .
Ví dụ: Trò chơi vận chuyển lương thực về kho
Tôi chia các cháu ra thành 4 nhóm ,mỗi nhóm sẽ vận chuyển thực phẩm về kho
theo yêu cầu của cô
+ Nhóm 1: vận chuyển thực phẩm giàu chất đạm.
+ Nhóm 2: vận chuyển thực phẩm giàu chất béo .
+ Nhóm 3 : vận chuyển thực phẩm giàu chất tinh bột và đường
+ Nhóm 4: vận chuyển thực phẩm giàu chất vitamin và muối khoáng .
Trò chơi này tôi thường tổ chức vào các buổi chiều hoặc trong tiết học môi
trường xung quanh.
Việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi, tạo điều kiện để trẻ tiếp thu và phản
ánh những hiểu biết của mình về dinh dưỡng là hoạt động hết sức quan trọng.
Trẻ được tiếp xúc với các đồ vật đồ chơi, qua trò chơi tạo điều kiện để trẻ tự học
hỏi nhau, thể hiện sự hiểu biết của mình về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Qua các trò chơi tôi tạo điều kiện để trẻ vui chơi với đồ chơi, khi trẻ gọi tên
các thực phẩm, trẻ học cách chế biến món ăn và trẻ được thực hiện các thao tác
10
chế biến món ăn, cách chế biến thực phẩm và vệ sinh thực phẩm, vệ sinh cá
nhân và vệ sinh chung.
5.4. Với hoạt động góc
Việc tổ chức cho trẻ hoạt động góc với tất cả các góc mở giúp trẻ được trải
nghiệm hoạt động của người lớn, trẻ được làm thí nghiệm, từ đó giúp trẻ hiểu
biết thêm về dinh dưỡng.
- Qua hoạt động góc: Trẻ gọi tên các thực phẩm, biết đặc điểm của các loại thực
phẩm, trẻ tự học cách chế biến những thực phẩm thành những món ăn. Biết cách
tạo ra những thực phẩm trong cuộc sống, biết vệ sinh cá nhân và hành vi văn
minh.
Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ mua hàng muốn mua loại thực phẩm gì thì hỏi người
bán hàng “Bác ơi, bác có bán trứng không?” Người bán hàng nhớ đặc điểm của
trứng mà lấy bán cho người mua hàng. Từ đó giúp trẻ biết tên và nhớ loại thực
phẩm.
Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ đóng vai con hỏi trẻ đóng vai mẹ “Mẹ ơi, mẹ nấu món
gì đấy?” Mẹ trả lời “Mẹ nấu món trứng rán”.Từ đó giúp trẻ biết trứng được chế
biến thành những món ăn khác nhau.
Cũng ở góc phân vai trẻ được trực tiếp chơi với những dụng cụ nấu ăn bằng
đồ chơi và biết cách thao tác các dụng cụ khi chế biến thực phẩm.
Ví dụ: Khi thái thịt cần dao và thớt
Đồng thời trẻ cũng biết thao tác chế biến món ăn
Ví dụ: Muốn nấu món cá kho thì phải làm thịt cá, đánh vẩy, bỏ ruột, cho gia vị
vào kho...
Ở góc xây dựng giúp trẻ biết cách tạo ra thực phẩm tự trồng rau quả, nuôi
các con vật qua trò chơi xây dựng vườn rau, quả, khu chuồng trại...ở góc thiên
nhiên trẻ lại được trực tiếp trồng và chăm sóc rau quả, chăm sóc các con vật
nuôi ở góc học tập, góc nghệ thuật trẻ được chơi lô tô, được ra những bức tranh,
được đọc thơ, ca dao, đồng dao, vè... về các loại thực phẩm.
Từ đó giúp trẻ nhớ thêm về các loại thực phẩm, biết các loại thực phẩm
được phân thành 4 nhóm, trẻ biết thêm được tầm quan trọng của các chất đối với
sự phát triển của trẻ. Việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở
hoạt động góc có hiệu quả vô cùng to lớn để lại ấn tượng cho trẻ rất tốt.
11
5. 5. Thời điểm cho trẻ ăn
Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
vào các hoạt động trên việc giáo dục dinh dưỡng ở giờ ăn cũng rất quan trọng và
rất thiết thực đối với trẻ.
Ở giờ ăn: tôi đã trò chuyện trao đổi vời trẻ về bữa ăn hàng ngày như: Hàng
ngày trước khi ăn chúng ta phải làm gi? (phải rửa tay) vì sao phải rửa tay?...Trẻ
học cách tự phục vụ bản thân, lấy ghế, bát, thìa...trẻ còn giúp nhau kê bàn ghế,
biết vệ sinh cá nhân trước khi ăn, biết chào mời người khác trước khi ăn, khi ăn
trẻ biết giữ vệ sinh chung và những hành vi văn hóa khác...
Vào giờ chia ăn tôi tranh thủ giới thiệu các món ăn cho trẻ và thành phần các
món ăn chứa nhiều chất gì? Tác dụng của chất đó đối với cơ thể của trẻ, động
viên trẻ ăn món đó tập ăn dần, lúc đầu ăn ít sau đó ăn đủ...
Ví dụ: Tôi giới thiệu: Các con ơi! hôm nay, các cô dinh dưỡng nấu cho các con
ăn món “Cá súp cà chua” ăn cá chứa nhiều chất đạm giúp cơ thể các con nhanh
lớn, thông minh, học giỏi vì vậy các con nên ăn cá nhé.
5.6. Hoạt động chiều
Trong hoạt động chiều, khi trò chuyện với trẻ ở giờ trả trẻ tôi hỏi trẻ hôm
nay các con được ăn những món gì? Cung cấp chất gì? Để trẻ nhớ được tên món
ăn và chất dinh dưỡng mà món ăn đó cung cấp, đồng thời tôi cho trẻ quan sát
tranh các loại rau củ, quả, các con vật, chơi các trò chơi phân loại các chất dinh
dưỡng theo 4 nhóm bằng lô tô, đồ chơi bằng nhựa...
6. Phối kết hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh trong việc chăm sóc sức
khỏe và giáo dục dinh dưỡng tại gia đình bằng nhiều hình thức khác nhau.
- Thông qua các buổi họp phụ huỵnh:Thông tin về kết quả cân – đo khám sức
khỏe của trẻ và tình hình sưc khỏe của trẻ. Tuyên truyền cách chăm sóc. Nuôi
dưỡng trẻ
- Thông qua các góc trao đổi với phụ huynh: Biết được các thông tin đầy đủ của
trẻ, các hoạt động trong ngày của trẻ ở trường, cũng như cách phòng chống một
số bệnh thường gặp ở trẻ.
12
Qua việc tuyên truyền đến các bậc phụ huynh giúp phụ huynh hiểu rõ về vai trò
quan trọng của giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, đồng
thời phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình quan tâm đến vấn đề dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ. Góp phần giảm tỷ lệ trẻ suy dinh
dưỡng của trẻ và hoàn thiện thêm về các mặt: Thể lực, nhận thức, ngôn ngữ và
tình cảm xã hội. Để làm được điều này bản thân tôi là giáo viên đứng lớp luôn
theo dõi những biểu hiện về dinh dưỡng và vệ sinh cuả trẻ từ đó trao đổi với phụ
huynh nhằm giúp trẻ tiếp nhận các thông tin về dinh dưỡng một cách hào hứng,
không gò bó, gượng ép. Đồng thời tôi cũng tiến hành khảo sát những nội dung
về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trên trẻ sau đó xếp loại rồi thống
nhất nội dung kết hợp với gia đình về giáo dục dinh dưỡng cho trẻ để gia đình
nắm được
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “thế giới thực vật” và chủ đề “ Thế giới động vật”
tôi tuyên truyền với các bậc phụ huynh cho trẻ được làm quen với các loại rau
củ quả tại gia đình. Hay còn phô tô sưu tầm các bài thơ, bài hát, câu chuyện có
nội dung về dinh dưỡng và sức khỏe để các bậc phụ huynh cho trẻ học tại nhà
như: câu chuyện Hai anh em, Cây khế, Sự tích Quả dưa hấu, sự tích Bánh chưng
bánh giày, thơ bắp cải, đồng giao Bác bầu, bác bí...; Bài thơ Nàng tiên ốc, Tìm
ổ, Rong và cá...; Bài hát tôm, cá, cua thi tài, năm ngón tay ngoan, tập đếm, Tập
rửa mặt, Mời bạn ăn...Cứ như vậy sẽ giúp trẻ khắc sâu kiến thức nhanh nhất.
7. Làm đồ dùng đồ chơi phục vụ giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm.
13
Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho
trẻ vào các hoạt động trên tôi luôn tìm tòi sáng tạo ra những đồ dùng đồ chơi
đẹp, hấp dẫn, có tính thẩm mỹ cao có đầy đủ số lượng và có nhiều chủng loại để
trẻ được học, được trực tiếp hoạt động với đồ dùng đồ chơi giúp trẻ nhớ lâu và
hiểu thêm về những thực phẩm có trong cuộc sống của chúng ta.
Ví dụ 1: Tôi đã dùng xốp mầu Vàng ,mầu xanh và hộp nhựa để làm quả dứa và
trẻ được chơi, được trực tiếp hoạt động.
Ví dụ 2: Làm vườn rau bắp cải từ xốp màu xanh và vỏ thạch
Hình ảnh ( Vườn rau của bé)
Hình ảnh ( Quả dứa)
14
- Tôi dùng các loại giấy màu phù hợp để bồi thành hình các loại quả cho trẻ học
và chơi như quả xoài, quả cam, quả na, quả đu đủ, quả khế
- Ngoài ra tôi cũng đã dùng các loại phế liệu sẵn có ở địa phương để cắt tạo ra
những con vật, những loại quả… phục vụ cho các hoạt đông học tập, hoạt động
chơi và trưng bày tại môi trường xung quanh lớp đẹp, hấp dẫn, phù hợp với chủ
đề như: Vườn cau, bộ ấm chén, lợn con đàn vịt… Tôi còn cắt tỉa các hộp nước
rửa bát, ống luồng tạo thành hình thư một đàn lợn 10 con có kích thước khác
nhau dùng để trồng và gieo các loại hạt cho trẻ quan sát khám phá sự nảy mầm
và lớn lên của cây.
IV. KIỂM NGHIỆM.
Bằng những biện pháp và hình thức trên, kết quả giáo dục dinh dưỡng và an
toàn thực phẩm cho trẻ lớp tôi có những chuyển biến đáng kể, sức khỏe của trẻ
tăng lên rõ rệt.
Tôi tiến hành cân đo chấm biểu đồ vào cuối tháng 4:Tổng số trẻ: 30
Số trẻ đạt kênh Bình thường: 28 = 93%
Số trẻ SDD 2 cháu = 7%.
* Tôi cũng tiến hành khảo sát lần 2 trên trẻ kết quả như sau:
Nội dung khảo sát
TT
1
2
3
4
5
6
Trẻ biết gọi tên các loại
thực phẩm đơn giản
Phân loại nhận biết phân
biệt được 4 nhóm thực
phẩm thông thường
Trẻ biết ăn nhiều loại thực
phẩm khác nhau
Biết hoạt động chế biến
các món ăn đơn giản
Trẻ biết sử dụng dụng cụ
ăn, uống đơn giản, có thói
quen vệ sinh
Có thói quen vệ sinh văn
minh trong ăn uống, có
thói quen vệ sinh cá nhân
Tổn
g số
Tốt
%
Khá
Mức độ % trên trẻ
%
TB
%
30
19
63
9
30
2
30
19
63
9
30
30
23
76.7
6
30
18
60
30
22
30
23
Yế
u
%
7
0
0
2
7
0
0
20
1
3.3
0
0
7
23.3
5
16.7
0
0
73.4
4
13.3
4
13.3
0
0
76.7
3
10
4
13.3
0
0
Qua bảng khảo sát lần 2 cho thấy sau khi áp dụng các biện pháp giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, kết quả chung trên trẻ tăng lên rõ
15
rệt: Khá – tốt: tăng rất cao; Trung bình: giảm và chiếm tỷ lệ ít; Đặc biệt không
còn trẻ yếu. Điều này cho thấy kết quả rất khả quan trong công tác giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ sau khi áp dụng đề tài nghiên cứu ở
các tỷ lệ đạt khá cao. Cho thấy việc cô giáo và phụ huynh đóng vai trò rất quan
trọng giúp trẻ lĩnh hội được nhiều hiểu biết của mình về dinh dưỡng và vệ sinh
an toàn thực phẩm. Từ đó góp phần quan trọng trong việc giáo dục cho trẻ có
kiến thức vũng vàng về dinh dưỡng sức khỏe và vệ sinh an toàn thực phẩm là
góp phần tạo ra một lớp người mới có sự hiểu biết đầy đủ, tạo ra nguồn nhân lực
khỏe mạnh cho đất nước làm cho xã hội ngày càng phát triển.
Từ kết quả trên bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm
non.
C.KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN
- Gần một năm nghiên cứu và tìm tòi sau đó áp dụng các biện pháp vào việc
chăm sóc giáo dục trong trẻ 4-5 tuổi về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm, để đạt được kết quả tốt không phải là dễ. Chính vì vậy trong các hoạt
động ngoài việc truyền thụ kiến thức cơ bản của từng môn tôi khéo léo lồng
ghép, kết hợp giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm sao cho phù
hợp, nhẹ nhàng, thoải mái. Ngoài các hoạt động có chủ định ra tôi cũng khéo léo
lồng ghép giáo dục dinh dưỡng cho trẻ vào các hoạt động khác, từ đó trẻ sẽ lĩnh
hội một cách nhanh chóng và thoải mái, không gò ép.
- Để giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ 4-5 tuổi người
giáo viên cần phải có năng lực và trình độ chuyên môn, có kiến thức về dinh
dưỡng để làm tốt nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục trẻ, ngoài ra cần phải có lòng
yêu nghề mến trẻ.
- Bản thân tôi luôn tự học hỏi đồng nghiệp, tìm tòi những biện pháp hay trong
tài liệu sau đó áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ.
- Cần phải chuẩn bị tốt đồ dùng và đồ chơi đẹp rõ ràng cả về màu sắc và đặc
điểm cho trẻ khám phá.
- Thường xuyên tạo cơ hội cho trẻ được trực tiếp quan sát những thực phẩm thật.
16
- Luôn tìm tòi tranh có liên quan về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
đẹp, hấp dẫn. Giới thiệu góc học tập và trao đổi với phụ huynh.
- Tôi luôn kết hợp giữa gia đình và nhà trường để giúp trẻ tiếp cận và lĩnh hội
những kiến thức cơ bản về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm một cách
tốt hơn.
- Học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, nghiên cứu tài liệu để từ đó rút
cho mình những bài học hay nhất góp phần vào việc chăm sóc và giáo dục trẻ
đạt kết quả cao.
II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
- Đối với nhà trường ban giám hiệu cần tham mưu với lãnh đạo địa phương cũng
như tuyên truyền vận động sự ủng hộ của phụ huynh để bổ sung thêm vào cơ sở
vật chất và các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ.
Cần tổ chức hội nghị phụ huynh toàn trường tuyên truyền với các bậc phụ
huynh tăng thêm khẩu phần ăn cho các cháu để đảm bảo năng lượng hơn nữa
cho các cháu.
- Phòng giáo dục: Tổ chức buổi tập huấn về chuyên đề dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm cho toàn bộ giáo viên được tham dự.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ được rút ra trong quá trình tôi giảng
dạy nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ. Những kinh nghiệm trên của tôi không tránh
khỏi phần thiếu sót và hạn chế. Những vấn đề đó nếu được cấp trên đóng góp ý
kiến xây dựng, tôi sẽ khắc phục trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ nói
chung và giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng trong
những năm học tiếp theo đạt kết quả tốt hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày14 tháng 4 năm 2014
CAM KẾT KHÔNG COPY
Mai Thị Cam
Trần Thị Trang
17