Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng HCM để thực hiện tốt điều này HCM đã giải quyết trong suốt tiến trình cách mạng VN như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.03 KB, 14 trang )

Đề tài: Em hãy tìm hiểu rõ mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại theo tư tưởng HCM. Để thực hiện tốt điều này HCM
đã giải quyết trong suốt tiến trình CMVN như thế nào?
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Marx - Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Marx-Lenin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, và trong thực tế Tư tưởng
Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản
Việt Nam và của dân tộc Việt Nam.

1


Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại
Hồ Chí Minh đã nhận thức được mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại. Cơ bản về sức mạnh dân tộc, Hồ Chí Minh đã cho rằng,
thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước nồng nàn là tinh thần đoàn kết, ý chí đấu tranh
anh dũng, bất khuất cho độc lập và tự do, ý thức tự cường,… Bên cạnh đó sức
mạnh dân tộc còn gắn với yếu tố địa lí và chính trị,…
Hồ Chí Minh nhận thức về sức mạnh thời đại và tính tất yếu của việc kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Nhận thức về sức mạnh thời đại
của Hồ Chí Minh được hình thành từng bước từ cảm tính đến lí tính với mục
tiêu giải phóng dân tộc, phát triển đất nước trong dòng thác chung của thời
đại. Sức mạnh thời đại được thể hiện thông qua: tiến bộ khoa học công nghệ,
sức mạnh của 3 dòng thác cách mạng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại là sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa của quốc tế vô sản.


Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại. Theo Hồ Chí Minh, thứ nhất, chúng ta phải đặt
cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới. Thứ hai,
bên cạnh đó phải kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng. Thứ ba, chúng ta phải giữ vững độc lập tự chủ, dựa
vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự
ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả
của mình.Thứ tư, chúng ta cần thiết phải mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị,
hợp tác, sẵn sàng làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ.

2


Cơ sở lý luận của bài học này là mối quân hệ biện chứng giữa vần đề dân
tộc và vấn đề quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vs nói riêng, cũng như trong vấn đề biện chứng giữa nhân tố bên
trong và nhân tố bên ngoài, chủ quan và khách quan trong sự phát triển of sự
vật, hiện tựơng nói chung.
Vấn đề dân tộc được Hồ Chí Minh xem xét dưới rất nhiều khía cạnh.
Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa
nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự
do

cho

nhân

dân,


hoà

bình



thống

nhất

đất

nước.

Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của
người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất,
nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền
sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân
chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù
đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn
độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách
mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân
loại



lương

tri.


Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh
đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được
quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện
nổi

bật

trong

các

thời

điểm



tính

bước

ngoặt

lịch

sử.

Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của
đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền
con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi


3


người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để
dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế
giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình
đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội,
xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho
mọi

người,

mọi

dân

tộc.

Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc
đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách
mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có
tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý
nghĩa

gì.

Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục

của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy,
một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp
giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ
nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh
phúc

thật

sự

cho

tất

cả

mọi

người.

Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước
nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người
nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn,
áo

mặc,

ai


cũng

được

học

hành.”

Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải
quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa
phong

kiến.

4


Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện
được ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân
loại bị áp bức, bóc lột? Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh
mà ở tất cả những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự
bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với những người
sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng chính là ở
chỗ

đó.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai

cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến
cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con

đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C.
Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến. Đối với Việt Nam,
Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một
cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của con
người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của
tất

cả

mọi

người.

Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả củabọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng
nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ
ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc,

5


già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần
dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,

tinh

thần

ngày

càng

tốt,

đó



chủ

nghĩa



hội.”

Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta
khồng hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ
(dân tộc ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ anh em,
ruột thịt. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê,
Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.

Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói giúp nhau.”
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng
chính sách “chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm
các dân tộc trong vòng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu
việt của chế độ mới để nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam:
“Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng
và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào
miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về mọi
mặt.”
Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch chống
phá cách mạng để lại ở Việt Nam là rất nặng nề; để khắc phục hậu quả đó
nhằm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho đồng bào miền xuôi cũng như miền ngược, Hồ Chí Minh
luôn coi trọng tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc
anh em ở trong nước. Bởi, chỉ có trên cơ sở đoàn kết mới tạo nên sức mạnh to
lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách

6


mạng

đã

đề

ra.

Sau khi chủ trì Hội nghị Trung ương lần thức Tám (5 – 1941), nhận thấy
cơ hội cứu nước đang đến gần, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào cả

nước, trong thư Người viết: “…Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương nòi!
Hỡi các bạn công nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương!
Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy các nguồn.
Thứ tư, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và
thân

thiện

với

người

nước

ngoài

sống



Việt

Nam.

Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn
kết, thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha, đất
tổ của mình, vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu Hồng” của đất Việt.
Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện
thái


độ

ôn

hoà



thân

thiện

với

họ.

Với các dân tộc khác phải tôn trọng nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào
công việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc khác, đồng thời thực hiện quyền
bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. “… tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng



quyền

tự

do”.


Chẳng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin và những quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc
và giải quyết vấn đề dân tộc đề ra chính sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam. Chính sách đó vừa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng
Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã
được cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận với niềm phấn khởi và đầy tin
tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được sức mạnh to lớn để
hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng

7


như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày
nay.
Từ nhận thức trong tư tưởng về sức mạnh dân tộc, Hồ Chí Minh đã có
những bước tiếp theo phát triển nhận thức về sức mạnh thời đại trong bối
cảnh lịch sử lúc bấy giờ.
Hồ Chí Minh đã kết hợp thành công sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại. Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại có mối quan hệ hữu cơ gắn bó
chặt chẽ mật thiết với nhau. Xác định được tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu
của cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã giải quyết trong suốt tiến
trình lich sử Việt Nam bằng cách cụ thể hóa, vạch ra con đường đi cho cách
mạng Việt Nam. Trước nhất phải có Đảng và Đảng Cộng sản Việt Nam là
người lãnh đạo duy nhât vì theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là
đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Bằng khẳng định này, Hồ Chí Minh đã định hướng xậy dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam thành một Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân, với
nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kì của Cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc sẽ được phát huy tối đa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc. Khi
dân chúng bị áp bức thì cách mạng là sự nghiệp toàn dân. Trách nhiệm giải
phóng đất nước, giải phóng dân tộc được đặt lên vai toàn dân. Hồ Chí Minh
đã nói : “ Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước. “ . Truyền thống yêu nước là một truyền thống quý báu của
nhân dân ta từ ngàn đời nay. Mỗi khi có giặc ngoại xâm, lòng nồng nàn yêu
nước đã đoàn kết sức mạnh toàn dân thành một sức mạng to lớn nhấn chìm
cả bè lũ cướp nước và lũ bán nước. Sức mạnh dân tộc là sức mạnh tập thể, sức
mạnh tiềm tàng nhất thiết phải nắm giữ.

8


Sức mạnh thời đại có thể được hiểu như những điều kiện thuận lợi cho
quá trình phát triển của cách mạng quốc tế vô sản nói chung và cách mạng
Việt Nam nói riêng. Dễ dàng nắm bắt khái niệm này, chúng ta có thể xem xét
đến các biểu hiện lịch sử của nó. Đơn cử như sự lớn mạnh của Quốc tế Cộng
sản và phạm vi ảnh hưởng cũng như tầm ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế
giới lúc bấy giờ. Sự phát triển mạnh mẽ và vị thế vững chắc của Liên Xô cũng
là một yếu tố không thể bỏ qua. Sự ủng hộ nhiệt tình và giúp đỡ tận tâm từ
các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc và các đảng vô sản trên thế giới
như ở Pháp đã đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của cách mạng
Việt Nam. Bên cạnh đó là hang loạt các sự kiện chính trị có lợi cho ta như sự
kiện Nhật đảo chính Pháp vào năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai (cũng
được nhắc đến với tên gọi Đệ nhị thế chiến, Thế chiến thứ hai, hay Đại
chiến thế giới lần thứ hai, ...) là cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc bắt đầu
từ năm 1937 hoặc 1939 và chấm dứt vào năm 1945 giữa các lực lượng Đồng
Minh và Trục theo chủ nghĩa phát xít. Hầu hết mọi lục địa trên thế giới đều bị
ảnh hưởng của cuộc chiến này, ngoại trừ châu Nam Cực. Nó là cuộc chiến
rộng lớn và tai hại nhất trong lịch sử nhân loại, sự thất bại của phe Phát xít và

sự thắng lợi của phe Đồng Minh,…
Có được sức mạnh dân tộc trong tay, khi thời cơ đã đến, đó chính lúc sức
mạnh thời đại được tích tụ tới hạn, Hồ Chí Minh đã kết hợp tài tình khéo léo,
lợi dụng sức mạnh thời đại để phát huy tối đa hiệu quả của sức mạnh dân tộc.
Vậy nếu sức mạnh dân tộc là điều kiện cần thì sức mạnh thời đại là điều kiện
đủ điều này minh chứng rõ ràng thông qua cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc
Việt Nam nhưng đồng thời cũng là trường hợp ngược lại khi sức mạnh thời
đại là điều kiện cần thì để thành công phải có sức mạnh dân tộc là điều kiện
đủ. Điều này được chứng minh thông qua thực tế cơ hội đến ngay khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đã ko tận dụng cơ hội

9


ngay khi nước Pháp có biến để đánh đuổi giặc Pháp. Điều đó cho thấy sự ràng
buộc chặt chẽ khăng khít của sức manh dân tộc và sức mạnh thời đại.

Về vấn đề thực tiễn, từ 3-2- 1930, khi Đảng ra đời, Quốc tế Cộng sản đã
coi cách mạng Việt Nam là 1 bộ phận của cách mạng với thế giới, sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại từng bước kết hợp một cách đúng đắn. Ngày 19
– 8 – 1945, Cách mạng tháng Tám vĩ đại thành công, đánh dấu một bước
trưởng thành của cách mạng Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám (ngày 19 tháng 8 năm 1945) là cuộc cách mạng
thắng lợi của Việt Minh với quân Pháp, Nhật Bản và chính phủ Đế quốc Việt
Nam do vua Bảo Đại phê chuẩn. Kết quả chính phủ cũ giải tán và sau đó đến
ngày 2 tháng 9 năm 1945 Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt
Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là sự thể hiện của việc
kết hợp sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam với sức mạnh to lớn của thời
đại


lúc

đó.

Từ năm 1945-1954, với chủ trương dựa vào sức mình là chính, đồng thời
được sự giúp đỡ của Trung Quốc và “người anh cả - người đồng minh to lớnhậu thuẫn vững chắc” Liên Xô và sự đồng tình của nhân dân thế giới kể cả
Đảng Cộng Sản và nhân dân lao động Pháp, từng nước đi tới thắng lợi, nhất là
ở chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ từ 13 – 3 – 1954 đến 7 – 5 – 1954.
Trận Điện Biên Phủ là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông
Dương diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu Điện Biên (nay là thành
phố Điện Biên Phủ ), tỉnh Lai Châu (hiện nay đã tách thành tỉnh Điện Biên )
giữa quân đội Pháp và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đây là chiến thắng quân

10


sự lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954 của Việt Nam.
Trên phương diện quốc tế, trận này có một ý nghĩa rất lớn: lần đầu tiên quân
đội của một nước thuộc địa châu Á đánh thắng bằng quân sự một quân đội
của một cường quốc châu Âu. Trận Điện Biên Phủ đã đánh bại ý chí duy trì
thuộc địa Đông Dương, các khu vực thuộc địa ở Châu Phi của Pháp và buộc
nước này rút ra khỏi Đông Dương. Đến năm 1967, Pháp đã buộc phải trao trả
quyền độc lập cho tất cả các nước là thuộc địa của Pháp.

Từ năm 1954-1975, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh dân tộc, tranh
thủ tối đa sức mạnh thời đại, bao gồm sức mạnh của hệ thống Xã hội chủ
nghĩa, phong trào giải phòng dân tộc, phong trào hoà bình dân chủ, sức mạnh
của Liên Xô và Trung Quốc, khối đại đoàn kết ba nước Đông Dương, đánh
bại Đế quốc Mỹ, thống nhất Tổ quốc.
Từ năm 1975 đến nay, nhất là từ 1986, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới,

tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, từ bỏ cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp đã phát huy được tiềm năng of đất nước. Đảng và nhà nước đã
đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế-xã hội, chuyển mạnh sang thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc với sức mạnh
thời đại trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc dưới ánh sang tư tưởng Hồ Chí
Minh. Và khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cai hiệu quả hợp tác quốc
tế, tự cường, giữ vứng bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.

11


Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung lớn của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy trong xây dựng và bảo vệ đất nước hiện
nay nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại là một yêu cầu quan trọng.
Nhân dân ta có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong đấu
tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất nhân dân Việt
Nam đã thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, sự thông minh sáng tạo, ý
thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Trong truyền thống dân tộc ấy Hồ Chí
Minh nhìn thấy nổi bật lên sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần yêu nước
của nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc, vì phải luôn
luôn đối đầu với nhiều khó khăn của tự nhiên và chiến tranh xâm lược, sự đô
hộ của kẻ thù từ nhiều phương kéo đến. Lòng yêu nước Việt Nam đã trở
thành sức mạnh, một thứ đạo lý, một lẽ sống của mỗi người dân, cũng là một
tiêu chí cao nhất để đánh giá con người trong xã hội ta.
Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc
đã phát huy lòng yêu nước truyền thống và nâng thành lòng yêu nước xã hội
chủ nghĩa. Tinh thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và lòng yêu nước phát

huy được sức mạnh to lớn, tạo nên truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết
toàn dân. Hồ Chí Minh đã làm nổi bật sức mạnh của con người Việt Nam, đó
là sức mạnh thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và trong cuộc đấu
tranh hiện tại, sức mạnh của sự thông minh và dũng cảm, của lòng tin chân
chính không gì lay chuyển. Sức mạnh ấy bền vững và được nhân lên nhiều lần
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thời đại của chúng ta mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga 1917.
Cuộc cách mạng này đã mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả

12


loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử. Theo Hồ Chí Minh sức mạnh
thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới, của nhân dân lao động thế
giới. Trong quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin
vào hoàn cảnh cụ thể của Vịêt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy phải dựa vào sức
mạnh của dân tộc là chủ yếu, đồng thời phải khai thác sức mạnh của thời đại.
Những nội dung, nguyên tắc về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thời đại ngày nay, đặc biệt là giai đoạn hiện nay đang diễn ra một cuộc đấu
tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng cũng như về hoạt động thực tiễn mà
chúng ta cần nhận thức đúng đắn để tiến hành những hoạt động quốc tế phù
hợp phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Do vậy phải giáo dục cho nhân dân có được niềm tin về lý tưởng XHCN
trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi. Cần phải xử lý nghiêm minh, công
bằng đối với những hành vi vi phạm pháp luật làm suy thoái tư tưởng, băng
hoại đạo đức xã hội. Hội nhập quốc tế mà không được chệch hướng XHCN,
bảo đảm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới.
Không ngừng bảo vệ và pháy huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân

tộc, làm cho bản sắc văn hoá được giữ vững và phát triển. Giữ vững tinh thần
độc lập tự chủ trong tiếp thu sức mạnh bên ngoài, kết hợp sức mạnh trong
nước. Việc giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc chính đáng, ý
thức bảo vệ văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc văn hoá nước ngoài là
những yêu cầu cấp thiết được đặt ra đối với việc “mở cửa”. Công tác đối
ngoại được xác định có vai trò quan trọng đối với việc kết hợp sức mạnh dân
tộc

với

sức

mạnh

13

của

thời

đại.


Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội
dung lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và phát
triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội
dung cuả tư tưởng này rất phong phú, sâu sắc về thời đại, về sự kết hợp các
sức mạnh này trong thực tiễn đấu tranh. Tư tưởng của Người còn thấm đượm
chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, tính cách mạng triệt để nên ảnh hưởng to lớn đến
cuộc đấu tranh lâu dài cho nhân dân các nước vì sư nghiệp”Giải phóng dân

tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người”./.

14



×