Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và vận dụng của đảng ta trong giai đoạn hiện nay ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.62 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngay khi xuất hiện, con người đã tiến hành các hoạt động khác
nhau như kinh tế, xã hội, văn hóa… Trong đó hoạt động kinh tế giữ vị trí
trung tâm và là cơ sở cho các hoạt động khác: xã hội càng phát triển, hoạt
động sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội loài người và là
hoạt động cơ bản nhất trong tất cả các hoạt động của con người. Bằng việc
“sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Đây là một quan điểm
duy vật hết sức cơ bản và khoa học. Quan điểm này là cơ sở để xem xét
giải thích nguồn gốc sâu xa của mọi hiện tượng kinh tế xã hội, đồng thời
nó cho chúng ta thấy được căn nguyên cơ bản của quá trình phát triển của
lịch sử xã hội loại người là thay đổi các phương thức sản xuất vật chất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một
cách biện chứng tạo thành quy luật, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự
vận động, phát triển xã hội. Vận dụng quy luật cơ bản trên Đảng ta đã đề
ra những đường lối chủ trương vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất
nước. Nhìn lại chặng đường mà chúng ta đã đi qua: trước khi đổi mới đất
nước thật sự khó khăn. Bao nhiêu câu hỏi đặt ra, bao nhiêu lo lắng, băn
khoăn về tương lai đất nước. Hơn 20 năm đi qua, những câu hỏi đó đã có
lời đáp để ngày hôm nay chúng ta hãnh diện, tự hào hạnh phúc với một đất
nước Việt Nam có một vị thế hoàn toàn mới, một đât nước Việt Nam thật
sự đàng hoàng, to đẹp trong cảm nhận của bạn bề quốc tế. Đảng của chúng
ta đã thật sự vĩ đại và thành công đã đưa đất nước đến ngày hôm nay.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương , mỗi người cần phải có
sự quan tâm hiểu biết về tình hình phát triển của đất nước mình cũng như
những nhân tố tác động đến sự phát triển ấy. Đó chính là lí do em chọn đề
tài này. Qua đây em muốn gửi lời cảm ơn đến cô, những bài giảng của cô
dẫn dắt chúng em hiểu biết sâu sắc hơn về con đường mà đất nước chúng
ta đang đi, nhiệm vụ của cả nước ta phải làm dưới sự lãnh đạo sáng suốt


của Đảng.
Đây là lần đầu tiên em phải thực hiện một đề tài nên không thể
tránh khổi những sai sót. Vì thế em mong cơ bỏ qua và bổ sung cho đề tài
hồn thiện hơn.

PHÂN TÍCH NỘI DUNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1


MỤC LỤC
I. Những vấn đề cơ bản về quy luật “quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”

Trang
3

1. Vai trò của quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất”

3

2. Vận dụng sáng tạo của Đảng
3. Thực trạng vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất

3

3

II. Giải quyết vấn đề

4

2.1 Nội dung quy luật

4

2.1.1 Khái niệm về lực lượng sản xuất

4

2.1.2 Khái niệm về quan hệ sản xuất
2.1.3 Quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất”

5
6

2.2) Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất vào sự phát triển kinh tế dưới sự
lãnh đạo của Đảng

7

2.2.1) Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập (1986 – 2006)

8


2.2.2) Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam

11

III) Kết thúc vấn đề

16

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

17

2


I) NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUY LUẬT “QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT”.
1. Vai trò của quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất”.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình phát
triển của nhân loại qua các chế độ xã hội làm cho xã hội này thay thế xã
hội khác từ thấp đến cao. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ
chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong
kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác
động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật “quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” là quy luạt cơ
bản nhất

2. Vận dụng sáng tạo của Đảng.
Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán
và lâu dài chình sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
Theo quan điểm của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp
với yêu cầu triển phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu
của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ, lao động phổ thơng là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến
hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, cơng nghiệp
hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Cơng nghiêp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là
nhiệm vụ trung tâm trọng suốt thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
3. Thực trạng vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
* Thành tựu:
20 năm đổi mới cũng đã trôi vút qua nhưng điều kì diệu là hơm nay,
khi nhìn lại, chúng ta nhình thấy một cách rõ ràng những điều đã làm dược
trong 20 năm đổi mới là một sự kì diệu. Thực tiễn 20 năm đổi mới đã đưa
nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài, đã hồn thành

3


nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu thời kì q độ và bước sang thời kì
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của chúng ta đang tiến lên
phía trước, bởi chủ nghĩa xã hội đổi mới của Việt Nam là biểu hiện sinh
động sự thống nhất biện chứng thuộc tính khoa học và thuộc tính cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của sự vận dụng
sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất của Đảng ta vào quá trình phát triển kinh tế. Trong những
năm gần đây nền kinh tế nước ta tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng
cao. Đặc biệt trong năm 2007 hầu hết các chỉ tiêu kinh tế xã hội đều đạt và
vượt mức quốc hội đề ra, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực,
thương mại trong nước và dịch cụ tiếp tục phát triển, xuất khẩu đạt hơn
48,3 tỉ đồng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt 20,3 tỉ USD, mức cao
nhất từ trước đến nay. Các lĩnh vực khoa học công nghệ, bảo vệ môi
trường, giáo dục đào tạo… đều có chuyển biến theo chiều hướng tích cực,
đời sống nhân dân được cải thiện. Việc ra nhập “sân chơi” WTO đã đánh
dấu bước ngoặc quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam, mở ra giai đoạn
phát triển mới – giai đoạn kinh tế Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Với thành công ngày càng to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta,
một lần nữa trở thành nơi gửi gắm niềm tin và sự kì vọng của bạn bè quốc
tế. Việt Nam hơm nay đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng mộ
“đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch tiến
lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần
kinh tế là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử…
hi vọng rằng Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã từng
chiến thắng trong cuộc đấu trang dầy gian khổ trước đây, sẽ thành công
trước thách thức mới trên chặng đường chưa một ai đi qua” (lời chào

mừng đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX ĐCSVN, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2001, trang 53)
* Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu nước ta tiềm ẩn những khó khăn thử
thách. Sự phát triển xã hội, kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội
có được, nền kinh tế cịn nhỏ bé, trình độ năng suất lao động thấp, khả
năng cạnh tranh cịn hạn chế trong điều kiện tồn cầu hóa ngày càng sâu
rộng. Năng lực chỉ đạo còn bất cập, nhất là năng lực nắm bắt dự báo tình
hình chưa sát với diễn biến thị trường, một số lĩnh vực điều hành còn
chậm, lúng túng, kém hiệu quả. Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng kinh tế
còn thấp, kém bền vững, kết cấu hạ tẩng và nguồn nhân lực phục vụ phát
triển kinh tế xã hội và quản lí nhà nước chưa đáp ứng được đòi hỏi thực
tiễn.

4


II) GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1 Nội dung quy luật.
2.1.1 Khái niệm về lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất. trong qúa trình sản xuất con người kết hợp
sức lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động
tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho
cuộc sống của mình.
Vậy, lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên
của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo;
nắm bắt được yếu tố khoa học và công nghệ và tư liệu sản xuất, trong đó
“lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là người

lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao
động, trước hết là công cụ lao động, tác động và đối tượng lao động để sản
xuất ra của cải vật chất.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ
bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trị quyết định trong tư liệu sản xuất.
Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã
được vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong q trình lao
động sản xuất. Cơng cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản
xuất. Cùng với q trình tích lụy kinh nghiệm, với những phát minh và
sáng chế kĩ thuật, công cụ lao động khơng ngừng được cải tiến và hồn
thiện. Chính sự cải tiến và hồn thiện khơng ngừng cơng cụ lao động đã
làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu
xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của cơng cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân
biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
“Bàn tay con người dài ra, khối óc lớn hơn” trong sự phát triển của
lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trị ngày càng to lớn. Sự phát triển
của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản
xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành
nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời
sống và trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Sức lao động đặc trưng
cho lao động hiện đại khơng cịn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của họ
mà là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và cơng nghệ hiện đại là đặc
trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2.1.2 Khái niệm về quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản
lí sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.

Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một
5


cách khách quan trong qúa trình sản xuất, khơng phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người. C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ
quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết
hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt
động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ
và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là
việc sản xuất”. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất; giữa 3
mặt của quan hệ sản xuất thống nhất vơí nhau, tạo thành một hệ thống
mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng
của lực lượng sản xuất.
Trong 3 mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất
trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ
về tổ chức quản lí sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các
quan hệ xã hội khác.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có 2 loại hình sở hữu
cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu cơng cộng. Sở hữu tư
nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong
tay một số ít người, cịn đại đa số khơng có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất.
Do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời
sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu
cơng cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mỗi
thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người
trong mỗi cộng đồng là bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lí sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản
xuất, đến việc tổ chức, điều khiển q trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy

hoặc kìm hãm q trính sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lí sản xuất do
quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy
nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lí khơng thích ứng với quan
hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lí sản xuất chi phối, song
nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái
độ lao động của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển
2.1.3 Quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất”.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện
trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của cơng cụ lao động,
trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người, trình độ tổ chức
và phân cơng lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản
xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính
6


chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ
công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có
tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân cơng
lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới
ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là

“hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả
các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản
xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp
một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực
lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm
cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn, mâu thuẫn ngày càng gay
gắt. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản
xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự
phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuât mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực
lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuât mới cũng có nghĩa là phương
thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản
xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở laị sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác
động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân
công lao động xẫ hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và cơng
nghệ…. Và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động
lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi
thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thơng qua nhận thức và
hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải
thơng qua đấu tranh giai cấp, thơng qua cách mạng xã hội.
2.2) Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất

và trình độ của lực lượng sản xuất vào sự phát triển kinh tế dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Trong tiến hành lãnh đạo và quản lí đất nước của Đảng và nhà nước
ta trong suốt mấy chục năm qua, thực tiễn đã cho thấy những mặt được
cũng như những mặt còn hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các
7


quy luật kinh tế cũng như quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất
vào thực tiễn của nước ta. Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối,
khơng có mâu thuẫn, không thay đổi. Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ cũng
tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc điểm nhất
định với trình độ nào đó của lực lượng sản xuất. Với đặc điểm nước ta là
nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, trình
độ quản lí thấp cùng với nền sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc là chủ yếu. Mặt
khác nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc
chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mĩ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là
về kinh tế do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển. Đất
nước đứng trên bờ vực của khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng Đảng ta
đã nhanh chóng nhìn nhận sự phát triển và bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ
baèng con mắt thực tiễn và biện chứng hơn. Trong thời kì quá độ đi lên
CNXH, nền kinh tế khơng cịn là nền kinh tế tư bản, nhưng vẫn chưa hồn
tồn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy cơng cuộc cải tạo XHCN phải chú ý
đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần.
Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và hình thành quan hệ sản xuất mới, đại
hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ
sở hữu, chế độ quản lí và chế độ phân phối, không chỉ nhấn mạnh việc xây
dựng chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ kia. Không nên

quá đề cao chế độ cơng hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng quan hệ
sản xuất mới. Thực tế chỉ rõ, nếu chế độ quản lí và phân phối khơng được
xác lập theo những nguyên tắc của XHCN và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất mà cịn
cản trở lực lượng sản xuất phát triển.
2.2.1) Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập (1986 – 2006).
Sau chiến tranh với sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta bắt tay ngay
vào xây dựng đât nước trong hoàn cảnh cực kì khó khăn: đất nước nghèo
nàn, sản xuất nơng nghiệp là chủ yếu, vết thương chiến tranh nặng nề, các
thế lực thù địch bao vây cấm vận, trình độ quản lí kinh tế cịn non yếu, hệ
thống XHCN thế giới khủng hoảng và sụp đổ. Công cuộc đổi mới do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã mang lại những
biến đổi rất căn bản trong mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội.
Những thành tựu to lớn và rất quan trọng do công cuộc đổi mới mang lại
đã và đang tạo đà cho đất nước bước sang một thời kì mới, thời kì đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xét về thời gian, thế kỉ XX ở Việt
Nam là đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhưng xét về ý nghĩa thì đó lại là
thời kì Việt Nam bắt đầu giương cao ngọn cờ CNXH và thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Công
cuộc đổi mới, như bạn bề quốc tế đánh giá là có “tầm quan trọng lịch sử
và mang ý nghĩa siêu quốc gia”.
Đại hội lần thứ VI (1986) đã thổi luồng gió mới vào đời sống kinh
8


tế ở nước ta. Trong đại hội này, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra những thiếu
sót trong nhận thức và chỉ đạo về sở hữu và các thành phần kinh tế, cũng
như việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuât - lực lượng sản xuất. Báo cáo
chính trị đại hội Đảng lần thứ VI chỉ rõ: “trong nhận thức và trong hành
động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,

chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Trên cơ sở nhận thức lại lí
luận và thực tiễn Việt Nam Đảng ta đã có những nhận thức mới đúng đắn
và khoa họa về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế, từng bước khơi
dậy được động lực kinh tế trong các thành phần dân cư, nghĩa là thừa nhận
sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và
những thành phần kinh tế. Cải tạo xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải theo
quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp, phải xây
dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt : xây dựng chế độ sở hữu về tư
liệu sản xuất, chế độ quản lí và phân phối XHCN. Đảng ta cho rằng: việc
bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đơi với đổi mới cơ chế quản lí kinh tế. Cơ
chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được
động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, hạn chế việc sử dụng và
cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng
suất, chất lượng, hiệu quả gây rối loạn trong phân phối lưu thông và xảy ra
nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Trên cơ sở đó Đảng ta đã đưa ra
đường lối đổi mới kinh tế nước nhà với nội dung quan trọng “thực hành
dân chủ hóa đời sống kinh tế, chuyển cơ chế quản lí kế hoạch hóa tập
trung cao độ sang cơ chế thị trường có quản lí nhà nước bằng pháp luật và
các cơng cụ khác, chuyển việc phát triển kinh tế nhà nước và tập thể ồ ạt
sang phát triển kinh tế nhiều thành phần; chuyển từ cấp phát hiện vật và
bao cấp sang sử dụng, quản lí giá trị của sản xuất hàng hóa, tưh hoạch
tốn, chuyển dịch quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng nền kinh tế mở, đa
phương hóa quan hệ và đa dạng hóa hình thức”. Đó là mốc lịch sử đánh
giấu sự chuyển hướng có ý nghĩa quyết đinh đối với sự phát triển kinh tế
của đất nước.
Đảng luôn nhắc nhở chúng ta rằng, không được tách rời sự phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN. Cầu phát
triển và củng cố vững mạnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Khơng có nền kinh tế thi trương phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất xã hội
được xã hội hóa trong thực tế thì khơng có CNXH. Ngược lại, nếu khơng
có định hướng XHCN thì cũng khơng có cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
XHCN. Bởi vậy vai trị lãnh đạo của Đảng là tất yếu và là nhân tố vô cùng
quan trọng trong mục tiêu đổi mới và định hướng q trịnh hồn thiện
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong suốt thời kì q đọ lên
CNXH. Việc hình thành mơ hình kinh tế thị trường định hước XHCN là
sự sáng tạo của Đảng ta. Để phát triển mạnh mẽ quan hệ sản xuất, Đảng ta
chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu và “từ các hình thức sở hữu
9


cơ bản: sở hữu toàn nhân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân hình thành nhiều
thành phần kin tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan
xen, hỗn hợp”. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Từ đó đại hội Đảng lần thức VII và chiến lược phát
triển kinh tế đến năm 2000 Đảng ta nhấn mạnh phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo có chế thi trường đặt dưới sự quản lí
của nhà nước theo định hướng XHCN, đại hội VIII của Đảng tiếp tục chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khơi dậy tiềm năng của
sản xuất, xây dựng năng lưch sáng tạo chủ động của các chủ thể lao động
trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhờ đó đường lối
quan điểm chỉ đạo q trình đổi mới khơng ngừng hồn thiện, hiệu quả
cách mạng hóa hiện thực của những quan điểm, đường lối đó ngày càng
cao. Thực tế đó là cơ sở để đại hội IX của Đảng ta khẳng định “đường lối
đúng đắn của Đảng ta là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi
mới”. Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam – đại hội của Trí tuệ, Dân
chủ, Đồn kết, Đổi mới, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hi vọng lớn lao
của cả dân tộc Việt Nam trong thời điểm trọng đại bước vào thế kỉ và

thiên niên kỉ mới. Đó là mốc son lịch sử đánh giấu thời kì phát triển mới
của cách mạng nước ta, thời kì phát huy sức mạnh tồn dân tộc, tiếp tục
đổi mới đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa vì mục tiêu “dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, bỏ qua CNTB đi lên CNXH, thì cái
thiếu thốn nhất ở Việt Nam là chưa có một cơ sở vật chất của CNXH, mà
chừng nào chưa có cái đó thì chưa thể nói đến sự thay đổi căn bản năng
suốt lao động, về đời sống nhân dân, về quan hệ sản xuất….. Vì vậy xác
cơng nghiệp hóa kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì
quá độ lên CNXH: “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại”.
Trình độ lực lượng sản xuất kém phát triển đang là cản trở chủ yếu
của việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà quan hệ sản xuất
này vốn mang bản chất xã hội hóa nền sản xuất xã hội và chính từ trình độ
lực lượng sản xuất kém phát triển, năng xuất lao động thấp, lại hạn chế tận
dụng sức lao động dồi dào, chưa tạo được sự thay đổi nhảy vọt căn bản
đời sống nhân dân, do đó cũng chưa tạo được thuận lợi cho việc củng cố
quan hệ sản xuất mới đã được xây dựng trên 20 năm nay trên phạm vi cả
nước. Vì vậy, qua thời gian tìm tịi, thử nghiệm, có thành cơng và khơng
thành cơng, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đại hội IX của Đảng đã xác
định: “Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản
xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản
xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”.
Khi nói ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất là phải ưu tiên nâng
10


cao trình độ của tất cả các yếu tố đó. Với cuộc cách mạng khoa học và

công nghệ ngày nay thì yếu tố trí lực trong sức lao động đang tăng lên
nhanh chóng quyết định chất lượng lao động sống, các phương tiện lao
động và cả đối tượng lao động cũng có nhiều biến đổi cách mạng, thậm
chí khơng phải có sẵn trong thế giới tự nhiên như hàng nghìn vạn năm lao
động trước đây của loài người. Trong điều kiện mới ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất ở nước ta hiện nay bao gồm:
Tạo việc làm, tận dụng nguồn lao động dồi dào, đồng thời nâng cao
hàm lượng trí lực trong sức lao động để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực lao động của nước ta trước hết qua giáo dục đào tạo và phát triển khoa
học công nghệ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Phát triển có chọn lọc một số cơ sở cơng nghiệp nặng then chốt đủ sức
trang bị khí tài hiện đại cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Đây là coi trọng khu vực chế tạo tư liệu sản xuất để chế tạo tư liêuh sản
xuất trong q trình tái sản xuất mở rộng khơng ngừng của xã hội trên cơ
sở kĩ thuật cao.
Đồng thời không coi nhẹ việc phát triển tư kiệu sản xuất để chế tạo
tư liệu tiêu dùng. Đây là chủ trương đúng đắn kịp thời.
Phát triển mạnh công nghiệo chế biến: công nghiệp chế biến là lĩnh vực
công nghiệp làm tăng thêm giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Điều
đó vơ cùng cần thiết và thích hợp với điều kiện nước ta có lực lượng lao
động rất dồi dào nhưng thiếu việc làm, tạo ra được nhiều việc làm, thu hút
thêm được nhiều người lao động, đấy là một trong những yêu cầu hàng
đầu phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Lĩnh vực nông – lâm
– ngư là rất rộng lớn, đang đòi hỏi và tạo điều kiện cho phát triển công
nghiệp chế biến, vừa thu hút được lao động, tăng thêm gí trị, lại tăng chất
lượng hàng hóa góp phần làm giàu nhanh chóng cho đât nước. Tài nguyên
khoáng sản là một tiềm năng kinh tế lớn của nước ta, nếu đẩy mạnh việc
phát triển cơng nghiệp chế biến ở đây thì càng có ý nghĩa phát triển lực
lượng sản xuất và càng thêm giàu có. Phát triển mạnh cơng nghiệp chế
biến là một chủ trương lớn trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

nước nhà.
Coi trọng phát triển cơng nghệ cao, cơng nghệ phần mềm, từng
bước phát triển kinh tế tri thức mới là lực lượng sản xuất mới. Tiến hành
cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa rút ngắn gia đoạn, thực hiện lợi thế
của nước đi sau. Phát triển công nghiệp phần mềm tốn ít vốn, khơng ơ
nhiễm mơi trường, thu lợi nhuân lớn, rất phù hợp với khả năng, sở trường
của con người Việt Nam.
Phát triển lợi thế của những ngành nghề truyền thống, thế mạnh của
từng vùng kinh tế, đó là một khía cạnh, phát huy tiềm năng của cả sức lao
động và đối tượng lao động ở những nơi có thể sản xuất ra những hàng
hóa đặc thù, có chất lượng cao, đương nhiên vẫn cịn phù hợp với nhu cầu
và thị hiếu trong nước và thế giới. Tuy nhiên chúng ta noi ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất khơng có nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất
11


một cách cơ độc, càng khơng có nghĩa chỉ phát triển lực lượng sản xuất. Ở
đâu có lực lượng sản xuất thì ở đấy có quan hệ sản xuất, ở đâu có quan hệ
sản xuất nên Đảng ta chủ trương phải xây dựng từng bước những quan hệ
sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất mới.
2.2.2) Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam.
20 năm qua, đất nước Việt Nam chúng ta đã đi được bước tiến dài,
những kết quả tuyệt vời. Nhưng mỗi thời kì khác nhau của đất nước cần
có những bước đột phá khác nhau, cần xung dột mới để bước tiếp. Nếu
chúng ta bằng lòng và chủ quan có nghĩa là chúng ta khơng thể cất cách
cao xa nhanh và vững chắc trong cuộc đua toàn cầu như mơ ước. Chính và
vậy thơng qua đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4 - 2006) Đảng ta đã đề
ra chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay:
*) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

- Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta là:
Thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân
chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản
xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xố đói giảm nghèo, khuyến
khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát
nghèo và từng bước khá giả hơn.
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh
Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực
Nhà nước độc quyền kinh doanh, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp
tục đổi mới cơ chế quản lý giá. Phát triển mạnh thương mại trong nước;
tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu. Đẩy mạnh tự do hoá thương mại phù
hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo bước phát triển mới, nhanh
và toàn diện thị trường dịch vụ, nhất là những dịch vụ cao cấp, có hàm
lượng trí tuệ cao, giá trị gia tăng lớn.
Phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và
thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hồn chỉnh. Mở rộng và
nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường vốn, thị trường chứng
khoán. Huy động mọi nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển. Hiện
đại hoá và đa dạng hoá các hoạt động của thị trường tiền tệ. Xây dựng
các ngân hàng thương mại nhà nước vững mạnh về mọi mặt. Mở cửa thị
trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự
gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động
trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm. Có chính sách ưu đãi các doanh
nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là ở khu vực nông thôn. Đẩy mạnh
xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề,
12



lao động nơng nghiệp. Hồn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn và sử
dụng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước và bộ máy cơng quyền. Đa
dạng hố các hình thức giao dịch việc làm; phát triển hệ thống thông tin
về thị trường sức lao động trong nước và thế giới. Có chính sách nhập
khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và quản lý ở
những ngành, nghề cần ưu tiên phát triển.
Xây dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị trường sức lao động
nhằm bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người lao
động; thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi
của cả người lao động và người sử dụng lao động.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất
kinh doanh
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành
nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế
tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà
nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện
thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong những
động lực của nền kinh tế.
Thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây
dựng một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức
cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín, trong đó chủ lực là một số tập
đồn kinh tế lớn dựa trên hình thức cổ phần. Nhà nước định hướng, tạo

mơi trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị
trường; bồi dưỡng, đào tạo và tơn vinh các doanh nhân có tài, có đức và
thành đạt.
Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngồi
Cải thiện mơi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hố các hình thức
và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào
những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng.
*) Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển tri thức
Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng,
lợi thế của nước ta để rút ngắn q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công
13


nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế
có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn
vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước
phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án
kinh tế - xã hội.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và
lãnh thổ. Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả
các ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp và nông thôn,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo
hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với cơng nghiệp chế biến
và thị trường; thực hiện cơ khí hố, điện khí hố, thuỷ lợi hố, đưa nhanh
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao

năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng,
từng địa phương. Tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động các
ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm và lao động
nơng nghiệp. Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác của
các hộ nông dân, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn
cổ phần bằng đất; phát triển các khu nơng nghiệp công nghệ cao, vùng
trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp cơng nghiệp và dịch vụ
gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo
ra những sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao.
Phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và
bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt,
bảo vệ môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nơng thơn. Thực
hiện chương trình xây dựng nơng thơn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp,
bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình thành
các khu dân cư đơ thị hố với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ
như: thuỷ lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học,
trạm y tế, bưu điện, chợ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây
dựng nếp sống văn hố, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã
hội, hủ tục, mê tín dị đoan; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở
các vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp,
dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở
nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp,
tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao
động nông thơn có việc làm trong và ngồi khu vực nơng thơn, kể cả ở
nước ngồi. Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xố đói giảm nghèo,
14



nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số.
Phát triển nhanh hơn cơng nghiệp, xây dựng và dịch vụ
Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp
chế tác, công nghiệp phần mềm và cơng nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh
tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển
một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu
cơng nghiệp, khu chế xuất.
Khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia
phát triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu
tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn nước ngoài và các công ty
lớn xuyên quốc gia.
Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những
ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ
tăng trưởng của các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Phát
triển mạnh và nâng cao chất lượng một số ngành: vận tải, thương mại, du
lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính - viễn thông, tư vấn...
Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ
Phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân
lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao; tỉ lệ lao động trong khu vực
nơng nghiệp cịn dưới 50% lực lượng lao động xã hội.
Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt
của cách mạng khoa học và công nghệ. Lựa chọn và đi ngay vào công
nghệ hiện đại ở một số lĩnh vực then chốt. Chú trọng phát triển công
nghệ cao để tạo đột phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải
quyết việc làm.
Từng bước hiện đại hố cơng tác nghiên cứu, dự báo khí tượng thuỷ văn; chủ động phịng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ
Phấn đấu đến năm 2010, năng lực khoa học và công nghệ nước ta

đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực
quan trọng.
Phát triển khoa học xã hội, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những
nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, giải đáp những vấn đề mới của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; bước đi cơng nghiệp hố, hiện đại hoá; những nguyên tắc,
nội dung cơ bản của phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới hệ thống
chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; phát triển
con người; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong
giai đoạn mới,... Thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận;
15


dự báo tình hình và xu thế phát triển của thế giới, khu vực và trong nước;
cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, tập trung
nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, đặc biệt các lĩnh vực Việt Nam
có nhu cầu và thế mạnh. Đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập công nghệ,
mua sáng chế kết hợp cơng nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và
nâng cao trình độ cơng nghệ của các ngành có lợi thế cạnh tranh, có tỉ
trọng lớn trong GDP, các ngành công nghiệp bổ trợ và tạo nhiều việc làm
cho xã hội; phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới. Phát triển hệ thống thông tin
quốc gia về nhân lực và công nghệ.
Trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng cơng trình
sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và cơng nhân kỹ thuật có tay
nghề cao. Có chính sách thu hút các nhà khoa học, cơng nghệ giỏi ở
trong nước và ngồi nước, trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở
nước ngoài.


16


III) KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là một quy luật khách quan chi phối toàn bộ đời sống kinh
tế - xã hội. Trên cơ sở đó Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quy luật vào công
cuộc đổi mới xây dựng phát triển đất nước đưa đất nước ta từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu lên một nước có nền kinh tế phát triển.
Với sự phát triển đi lên ngày một mạnh mẽ, Việt Nam đang được nhiều tổ
chức nước ngoài đánh giá là “con hổ đang gầm ở châu Á” và được xem là
điểm đến mới cho các nhà đầu tư trên tồn thế giới. Cơng nghiệp ngày
càng đóng vai trị quan trọng và chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu các ngành
kinh tế quốc dân, trở thành động lực cho phát triển kinh tế. Từ đó chúng ta
nhận thức được rằng. Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tôt
nhất quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất.
Qua bài viết này giúp tôi phần nào hiểu được về quá trình phát triển
nền kinh tế nước nhà. Những điều kiện Đảng và nhà nước ta đang thực
hiện để phát triển đất nước.
Thơng qua việc tìm hiểu tài liệu cho bài luận này em có đơi lời đề
xuất sau đây:
- Không ngừng phát triển lực lượng sản xuất bằng việc vận dụng
những thành tựu khoa học kĩ thuật của các nước tiên tiến trên thế giới vào
công cuộc phát triển đất nước.
- Trong thời gian tới, cùng với việc phát triển năng lực cạnh tranh,
các doing nghiệp Việt Nam cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực, phát
triển và nâng cao năng lực quản lí vĩ mơ. Cần tiếp tục nâng cao năng lực
ứng phó với những biến động từ bên ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam

cũng cần tăng cường tính lien kết để có thể cạnh tranh bình đẳng với các
doanh nghiệp thế giới.
- Tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ (nhất là công nghệ
cao), kinh nghiệm tiên tiến về quản lí, sản xuất – kinh doanh, kể cả điều
hành các mặt của đời sống xã hội. Đây là động lực quan trọng góp phần
tăng mạnh năng suất lao động, chất lượng sản xuất, hiệu quả sản xuất,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cải thiện sự phát triển chung của
nền sản xuất và xã hội theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
- Giáo trình triết học NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội
2006.
- Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX.
- Tạp chí kinh tế và dự báo.
- Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam.
- Tạp chí kinh tế và dự báo (Bộ kế hoạch và đầu tư)

18



×