Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.6 KB, 28 trang )

Tiểu luận triết học

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng, đường
lối phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định đến sự thành bại trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước. Thực tế cho thấy rằng,
chính phủ các nước NICS Châu Á, sau gần một thập kỷ thực hiện chiến lược
thay thế nhập khẩu, đã nhận ra những mặt hạn chế của nó và ngay đầu thập
kỷ 60 đã có sự chuyển hướng chiến lược. Với khoảng thời gian ngắn họ đã
đưa đất nước trở thành những con rồng Châu Á. Đối với Việt Nam, các
chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là: Chúng ta đã có bước khởi đầu
tốt đẹp trong quá trình phát triển mới. Nhưng để đạt được tốc độ tăng trưởng
cao và liên tục trong thời gian tới còn rất nhiều khó khăn. Việt Nam đang
trong quá trình chuyển biến nền kinh tế từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh
tế thị trường hoạt động theo quy luật khách quan của nó. Do vậy mà Việt
Nam đang đứng trước những thuận lợi cũng như những thách thức cần được
giải quyết.
Nhận thức được vấn đề cấp bách của kinh tế - xã hội như vậy nên em
đã mạnh dạn chọn đề bài: “Quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và vận
dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta”.

Bài tiểu luận này gồm 5 phần:
Phần I: Cái chung và cái riêng theo quan điểm của các nhà duy vật biến
chứng.
Phần II: Bước chuyển nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế thị trường.
Phần III: Thị trường và cơ chế thị trường .
Phần IV: Những đặc trơng chung của nền kinh tế thị trường và tính định
hướng chủ nghĩa của kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Phần V: Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà



Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

2

Vì đây là bài tiểu luận đầu tiên của em nên vẫn còn nhiều hạn chế và
thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và
các bạn để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

3

PHẦN I :
CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG THEO QUAN ĐIỂM CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG.
1. ĐỊNH NGHĨA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG
1.1. Định nghĩa cái riêng.
Cái riêng là một phạm trù triết học để chỉ một sự vật, một hiện tượng,
một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Chẳng hạn một
hiện tượng kinh tế, một con người, một giai đoạn xã hội, …
1.2. Định nghĩa cái chung.

Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính những mỗi liên hệ, tồn tại không chỉ ở một sự vật mà tồn tại trong
nhiều sự vật hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn, phạm trù triết học Mác – xít
về vật chất vận động, không gian thời gian…
2. MỐI LIÊN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG.
Phạm trù cái riêng và cái chung đã được bàn đến nhiều trong triết học
phương tây thời trung cổ. Phái duy thực đồng nhất Thượng đế với cái chung
(phổ biến ) và nhấn mạnh rằng: Chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập, khách
quan, là cội nguồn sản sinh ra cái riêng. Đối lập với chủ nghĩa duy thực, các
nhà triết học duy danh như: Đun – xcốt (1265-1308 ), P. Abơla( 1079-1142)
lại cho rằng chỉ có những sự vật hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất
lượng riêng của chúng mới là có thực, còn các khái niệm chung (cái phổ
biến ) là sản phẩm tư duy của con người. Mặc dù có một số hạn chế, chủ
nghĩa duy danh có một cái nhìn duy vật về toàn bộ hiện thực.
Khắc phục nhược điểm của chủ nghĩa duy danh, tách biệt cái riêng khỏi
cái chung một cách trìu tượng và tuyệt đối, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho
rằng: Giữa cái riêng và cái chung có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chúng

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

4

là hai mặt đối lập tồn tại trong bản thân một sự vật, hiện tượng bất kỳ và tồn
tại một cách khách quan.
Mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:

2.1. Cái riêng chỉ tồn tại trong mồi liên hệ dẫn tới cái chung. Không có cái
riêng cô lập tuyệt đối, bất kỳ cái riêng nào cũng đều liên hệ với cái riêng và
liên hệ biện chứng với cái chung.
Mặt khác, vừa liên hệ với cái chung sự liên hệ trên mới thoạt nhìn vừa
mang tính chất song trùng, nhưng thực chất chỉ là một, vì cái chung – xét cho
cùng là: Sản phẩm được rút ra từ sự khái quát hóa những phẩm chất của
những cái riêng cùng loại.
Chẳng hạn khi khảo sát hiện tượng khủng hoảng kinh tế trong một
nước nhất định, chúng ta có thể thấy được những đường nét riêng như: Những
hoàn cảnh địa lý đặc thù, tình trạng kinh tế của nước đó khi bắt đầu khủng
hoảng, các quan hệ xã hội chính trị khác nhau… Đây là những yếu tố riêng
biệt. Song đằng sau tất cả những cái riêng đó và những cái chung mang tính
quy luật của hiện tưởng khủng hoảng kinh tế như: tính chu kỳ, hiện tượng thất
nghiệp, các giai đoạn chuyển biến theo hình sóng…
2.2. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập ở đâu đó. Cái chung chỉ tồn tại
trong tưng cái riêng.
Phép biện chứng của cái chung và cái riêng nói trên chỉ có thể thấy rõ
trong vấn đề lợi ích kinh tế.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, lợi ích kinh tế
phải được thể hiện qua từng thành phần kinh tế với những hình thức sở hữu
khác nhau, đối lập nhau. Vì vậy phải làm thế nào để vừa đảm bảo lợi ích
chung của toàn dân, vừa không rơi vào tình trạng triệt tiêu mọi lợi ích chính
đáng của tưng công dân
SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học


5

2.3. Cái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái toàn bộ. Thật vậy, cái chung
chiếm giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật. Còn cái riêng
là cái tòan bộ vì nó là một thực thể hoàn chỉnh và sống động. Cái riêng tồn tại
trong sự “va chạm” với những cái riêng khác. Sự va chạm này vừalàm cho
các sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, với tư cách là một bộ phận tồn tại
trong cái chung, vừa làm cho chúng xa nhau bởi cái đơn nhất không lặp lại
trong các sự vật khác.
Như vậy, cái chung và cái đơn nhất cùng tồn tại trong cái riêng, làm
phong phú và sâu sắc cho cái riêng.
2.4. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau. Đây là chuyển
hóa của các mặt đối lập trong một sự vật. Sự chuyển hóa này phản ánh quá
trình vận động đa dạng của các kết cấu vật chất trong thế giới.
Quá trình chuyển hóa cái đơn nhất thành cái chung thể hiện quá trình
phát triển biện chứng của sự vật. Ngược lại sự chuyển hóa cái chung thành cái
đơn nhất chỉ ra sự thoái bộ của một sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn tại
của chúng.
3. Một số kết luận có tính chất phương pháp luận.
3.1. Không có cái chung tồn tại cô lập mà nó tồn tại trong cái riêng; nói cách
khác, thông qua cái riêng mà cái chung biểu hiện sự tồn tại của mình. Ý nghĩa
phương pháp luận của quan điểm này là trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn, để phát hiện ra cái chung cần phải thông qua những cái riêng.
Mặt khác nói cái chung tồn tại như một bộ phận của cái riêng. Thì phải thấy
rằng khi áp dụng cái chung vào từng trường hợp riêng thì cần phải cá biệt hóa
nó.
Hiện tượng cá biệt hóa cái chung vào từng trường hợp riêng thường
thấy xuất hiện trong lĩnh vực kinh tế, chẳng hạn, lý thuyết về quản lý kinh tế
(vi mô và vĩ mô) đã được xây dựng từ lâu ở các nước có nền kinh tế thị trường

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

6

phát triển. Song điều đó không đảm bảo chắc chắn sự thành công, nều như
chúng ta áp dụng nguyên chúng vào thực tiễn kinh tế nước ta mà không có sự
điều chỉnh, cải biến cho phù hợp với những đặc thù ở Việt Nam.
3.2. Từ phép biện chứng giữa cái chung và cái riêng nêu trên, có thể rút ra kết
luận rằng: Khi giải quyết các vấn đề riêng trong thực tế, cần phải đặt nền tảng
trên những nguyên tắc chung. Nói cách khác không được lẩn tránh các vấn đề
chung khi bắt tay giải quyết các vấn đề riêng. Nếu không sẽ rơi vào tình trạng
dò dẫm và vô nguyên tắc.
3.3. Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hóa giữa cái riêng (đơn
nhất) và cái chung. Việc tạo điều kiện cần thiết để nhanh chóng phổ biến
những hiện tượng hợp quy luật, hoặc triệt tiêu những điều kiện làm kéo dài
những nhân tố không phù hợp, trì trệ có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sự phát
triển.

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học


7

PHẦN II:
BƯỚC CHUYỂN TỪ NỀN KINH TẾ GIẢN ĐƠN SANG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Kinh tế thị trường ( KTTT).
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa phát triển đồng nghĩa với phạm trù hàng hóa, phạm trù tiền
tệ, phạm vi thị trường được mở rộng. Hàng hóa không chỉ bao gồm những sản
phẩm đầu ra mà còn bao gồm yếu tố đầu vào. Dung lượng thị trường và cơ
cấu thị trường được mở rộng và hòan thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội
đều được tiền tệ hóa. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị
trường ( KTTT).
2. Điều kiện hình thành kinh tế thị trường
Điều kiện cơ bản để hình thanh KTTT là phải có một nền kinh tế hàng
hóa phát triển cùng với sự xuất hiện của một số điều kiện sau:
Một là, sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao
động. Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, khác hẳn so với hàng
hóa thông thường bởi ngoài thời gian lao động cần thiết còn có thời gian lao
động thặng dư. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng xuất xã hội nâng cao
thì sức lao động trở thành đối tượng của quan hệ mua bán, kéo theo sự ra đời
của thị trường sức lao động, và thị trường yếu tố sản xuất.
Hai là, phải tích lũy được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở
thành vốn để tiền hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhuận.
Ba là, phải có hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng tương đối phát
triển đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh.
Bốn là, phải có hệ thống cơ sỏ hạ tầng tương đối phát triển, đảm bảo
cho lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ được thuận lợi dễ dàng, tăng
phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi.
SVTH: Đỗ Thị Lương Hà


Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

8

Năm là, tăng cường vai trò kinh tế nhà nước nhằm tạo ra môi trường và
hành lang pháp lý cho thị trường phát triển lành mạnh, mở rộng hình thức
kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh, thực hiện chính sách phân phối và đìều
tiết trên cơ sở kết hợp nguyên tắc công bằng xã hội và hiệu quả kinh tế, phát
huy ưu thế và hạn chế những mặt tiêu cực của nền KTTT.

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

9

PHẦN III:
THỊ TRƯỜNG VÀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1. Thị trường
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thị trường tuy nhiên có thể hiểu theo
nghĩa đầy đủ thì nó là lĩnh vực trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ làm môi
giới, tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định
giá cả và số lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, hình thành các quan hệ

hàng hóa- tiền tệ, cung – cầu, và giá cả hàng hóa.
2. Cơ chế thị trường
Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết sự vận động của nền KTTT.
Hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế thị trường.
Có thể xem xét một vài khái niệm sau:
“ Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ môi trường, động lực
và quan hệ chi phối sự vận động của thị trường.”
“ Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chí và hành động chi
phối ý chí và hành động của người sản xuất và người tiêu dùng, người bán
và người mua thông qua thị trường và giá cả.”
Sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện: Giá cả thị trường lên
xuống xoay quanh giá trị của hành hóa, nghĩa là sự hình thành giá cả thị
trườngphải dựa trên cơ sở giá trị trường. Ngoài giá trị thị trường, sự hình
thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của quy luật hàng hóa.
Tính quy luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong sự tác
động của quan hệ cung cầu được biểu hiện:
Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường
vsf ngược lại. Quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trườnglà biểu hiện của quan

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

10

hệ giữa người bán và người mua cũng như quan hệ của người sản xuất và

người tiêu dùng. Trên cơ sở giá trị thị trường. gía cả thị trường là kết quả của
sự thỏa thuận giữa người mua và người bán. Gía cả thị trường điều hòa được
quan hệ giữa người mua và người bán.
Thông qua sự biến động của giá cả thị trường,quy luật giá trị có tác
dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Điều tiết sản xuất hàng hóa đượ hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản
xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế. Điều này tạo ra động lực kinh tế
thúc đẩy người sản xuất hàng hóa khai thác những khả năng tiềm tàng, tranh
thủ giá cao, mở rộng quan hệ sản xuất và ngược lại.
Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị
trường. Theo C.Mác, những nhà kinh doanh dưới CNTB “Ghét cay ghét đắng
tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì thế giới tự
nhiên chân không.”
2.1 Ưu điểm của cơ chế thị trường:
Một là: KTTT lấy lợi nhuận siêu ngạch làm đông lưc hoạt động. Động
lực nay đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao động chi
phí xã hội cần thiết.Điều này phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp
dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ.
Hai là: Cơ chế thị trường có tính năng động do trong kinh tế thị trường
tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hóa mới và đưa ra
sớm nhất sẽ thu được nhiều lợi nhuận nhất.
Ba là: Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa rất phong phú và đa
dạng. Do vậy, nó có thể đáp ứng mọi nhu cầu người tiêu dùng.
2.2. Những khuyết tật mà bản thân cơ chế thị trường không tự giải quyết
được.

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A



Tiểu luận triết học

11

Căn bệnh nổi bật gắn liền với sự hoạt động của cơ chế thị trường:
khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát, phân hóa giàu nghèo và ô nhiễm
môi trường.
Khủng hoảng “thừa” là căn bệnh cố hữu của nền kinh tế thị trường phát
triển. Do mức cung hàng hóa vượt quá sức cầu nên dẫn tới tình trạng “dư thừa
hàng hóa”. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn độ mâu thuẫn với sức mua có
hạn. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Một khuyết tật khác của cơ chế thị trường là gây ô nhiễm môi trường
sinh thái, tàn phá đất đi, rừng đầu nguồn do chạy theo mục đích lợi nhuận.
Tóm lại, cơ chế thị trường có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông
hàng hóa, chi phối sự vận động của KTTT nhưng các chủ thể tham gia thị
trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình, cho nên sự vận động của cơ chế
thị trường tất yếu dẫn tới những mâu thuẫn và xung đột. Cạnh tranh khó tránh
khỏi lừa gạt, phá sản và thất nghiệp… Vì vậy, cần có sự kiểm tra của xã hội,
đó là lý do cần thiết vai trò quản lý của nhà nước. Vai trò của nhà nước trong
nền kinh tế của nước ta là hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội, sự công
bằng và làm cho nên kinh tế ngày càng tăng trưởng, phát triển với tốc độ cao.

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học


12

PHẦN IV:
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CHUNG CỦA NỀN KTTT VÀ TÍNH
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NỀN KTTT Ở
VIỆT NAM
1. Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường
Do KTTT là sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa và mọi yếu tố
của sản xuất đều được thị trường hóa nên KTTT có những đặc trưng chủ yếu
sau:
Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế
tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh
doanh của mình, được tự do liên kết, tự do liên doanh theo định luật. kinh tế
hàng hóa không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng
nghĩa với tự chủ năng động.
Hai là: Hàng hóa trên thị trường rất phong phú, phản ánh trình độ cao
của năng xuất lao động xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, sự phát
triển của sản xuất và thị trường.
Ba là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường, vừa chịu sự tác
động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ.
Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của KTTT, có nhiều hình thức phong
phú vì mục tiêu lợi nhuận.
Năm là: Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở.
2. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2.1. Bản chất và nguyên tắc hình thành.
Để hiểu sâu hơn khái niệm KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ,cần
hiểu rõ bản chất và nguyên tắc hình thành

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà


Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

13

Phương pháp luận tiếp cận bản chất và nguyên tắc hình thành KTTT
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi phải đặt nó trong sự kết hợp
giữa cái chung (KTTT ) với cái đặc thù (định hướng xã hội chủ nghĩa ). Xoay
quanh phương pháp luận này, có ý kiến cho rằng KTTT với định hướng xã
hội chủ nghĩa như “nước với lửa” làm sao có thể kết hợp được với nhau ?
Thực tế KTTT không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà là thành
quả chung của văn minh nhân loài tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất xã
hội khác nhau. Đúng như Đảng ta đã nhận định: “Sản xuất hàng hóa không
đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh
nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội đã được xây dựng.”(Văn kiện Đại Hội VIII )
Bên cạnh những phạm trù kinh tế và quy luật kinh tế chung, KTTT còn
có những đăc điểm gắn với tính chất và trinh độ phát triển của lực lượng sản
xuất, gắn với bản chất của chế độ xã hội trong đó nó tồn tại qua mỗi giai đoạn
lịch sử. Đúng là KTTT đã đạt tới đỉnh cao dưới chủ nghĩa tư bản nhưng
không vì thế mà đồng nhất KTTT là kinh tế TBCN. Hơn nữa xét về bản chất
KTTT không chỉ hoàn toàn là tiêu cực như người ta lầm tưởng trước đây nó
mà có những yếu tố tích cực không thể phủ nhận.KTTT tạo ra động lực thúc
đẩy sản xuất xã hội phát triển, đẩy nhanh quá trình hóa sản xuất, làm thay đổi
cung cầu theo hướng có lợi cho sản xuất và cải thiên đời sống. Cần ý thức
rằng chỉ có KTTT tư bản chủ nghĩa và KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa
mới khác nhau về mục đích, chế độ sở hữu, tính chất phân phối và tính chất
của nhà nước trong quản lý KTTT. Nếu giai cấp tư sản có thể lợi dụng được

KTTT để phát triển chủ nghĩa tư bản, thì không có lý do gì lại cho rằng giai
cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản không thể vận
dụng được KTTT. Vì vậy ý kiến coi KTTT và định hướng xã hội chủ nghĩa ‘
như nước với lửa’chỉ có giá trị như lời nhắc nhở, phải quan tâm giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa khi phát triển KTTT, có không có nghĩa coi chúng
hoàn toàn đối lập nhau …
SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

14

2.2 Định nghĩa về KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Từ phương pháp luận nêu trên có thể hiểu được bản chất của
KTTTđịnh hướng xã hội chủ nghĩa là: Kiểu tổ chức kinh tế phản ánh sự kết
hợp giữa cái chung là KTTT với cái đặc thù là định hướng xã hội chủ nghĩa,
dựa trên nguyên tắc lấy cái đặc thù-định hướng xã hội chủ nghĩa – làm chủ
đạo.
2.3 Ba khía cạnh chủ yếu về bản chất của KTTT định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thứ nhất: Với tư cách là cái chung KTTT đòi hỏi trong quá trình kết
hợp phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố :a) Cơ sở kinh tế mang tính
đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế có thể có “tự do hóa kinh tế” (tự do
cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ) .b) Các phạm trù kinh tế vốn có của
KTTT như hàng hóa , tiền tệ thị trường canh tranh,cung cầu, giá trị thị trường
và lợi nhuận. c) các quy luật kinh tế của KTTT ( Quy luật giá trị, quy luật lưu
thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu) d) Cơ chế vận hành

nền KTTT –cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Thứ hai: Với tư cách là đặc thù – định hướng xã hội chủ nghĩa –trong
quá trình kết hợp đòi hỏi phải tuân theo các mục tiêu,nguyên tắc và nhiệm vụ
kinh tế cơ bản hướng đến mục tiêu và các đặc trưng của CNXH mà nước ta
cần xây dựng. Định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một sự lựa chọn tất
yếu một khái niệm khoa học. Tuy vậy, vẫn còn một số cách hiểu khác khác
nhau thậm chí không phải không có tư tưởng hoài nghi và tính hiện thực của
định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã chọn.
Cần ý thức rằng định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn là một tất yếu,vì
sự lựa chọn phù hợp với nội dung thời đại-“ thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên CNXH trên pham vi toàn thế giới”.Đảng ta nhận định: “xã hội chủ
nghĩa trên thế giới, từ những bài học thành công thất bại cũng như từ khát
vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc,có điều kiện và khả năng tạo ra bươc
SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

15

phát triển mới. Theo quy luât tiến hóa của lịch sử. loai người sẽ nhất định tiến
tới xã hội chủ nghĩa .” (Văn kiện Đại Hội Đảng IX). Định hướng xã hội chủ
nghĩa không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của
nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, nếu chúng ta đặt những tiền đề cho
việc xây dựng CNXH ở nước ta theo tư duy mới,mở cửa về kinh tế với tất cả
các nước trên thế giới, và nếu chúng ta xem xét các tiền đề kinh tế không
dừng lại ở điểm xuất phát ban đầu mà xem xét những thành tựu đã đạt được
sau hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế.

Thứ ba: Trong mối quan hệ giữa cái chung-KTTT với cái đặc thù –
định hướng xã hội chủ nghĩa, không thể lấy KTTT làm chủ đạo. Đây là
nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ kết hợp giữa cái chung và cái đặc thù, vì
chính ta không chủ trương xây dựng mô hình KTTT bất kỳ , trừu tượng, càng
không chủ trương xây dựng KTTT tư bản chủ nghĩa, mà chủ trương xây dựng
KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải lấy định hướng xã hội chủ
nghĩa làm chủ đạo. Hơn nữa KTTTcó nhiều yếu tố tích cực, và hạn chế tiêu
cực nhất định, muốn phát huy yếu tố tích cực và hạn chế tiêu cực không thể
không định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng và phát triên
KTTT. Xa rời nguyên tắc này sẽ làm cho việc xây dựng KTTT rễ đi chệch
hướng XÃ HộI CHủ NGHĨA . vì vậy lấy định hướng xã hội chủ nghĩa làm
chủ đạo trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối lương tâm trách nhiêm đối với
các ngành, các cấp và các chủ doanh nghiệp trong việc ban hành và thực hiện
các chủ trương, quyết định về sản xuât kinh doanh trong tiến trình xây dựng
KTTT ở nước ta.
3. Các đặc điểm chủ yếu của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các đặc điểm chủ yếu của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa có quan
hệ mật thiết với nhau được tiếp cận đi từ lực lượng sản xuất đến cơ sở kinh
tế, chế độ phân phối, cơ chế vận hành, văn hóa và mở cửa.

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

16

Thứ nhất: Lấy sự phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại

làm cơ sở vật chất – kỹ thuật nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH; dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ hai: Lấy nền kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
và thành phần kinh tế làm cơ sở kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.
Thứ ba: Dựa trên chế độ phân phối đa dạng bao gồm các nguyên tắc
phân phối theo kiểu CNXH với phân phối theo kiểu KTTT. Trong đó, lấy
phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối qua
phúc lợi tập thể và xã hội làm chủ đạo.
Thứ tư: Lấy cơ chế thị trường có sự qửan lý Nhà nước làm cơ chế vận
hành, nhưng không phải là Nhà nước tư sản mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước của dân do dân và vì dân.
Thứ năm: Kết hợp hài hòa văn hóa dân tộc truyền thống với văn hóa
hiện đại có chọn lọc. Trong đó phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc.
Thứ sáu: Không dựa trên cơ cấu kinh tế khép kín, mà dựa trên cơ cấu
mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế vào khu vực, song phải đảm bảo
độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
Cần nhận thức các đặc điểm nói trên ở trạng thái động và đang trong
quá trình hình thành; đang phát triển đi từ thấp đến cao, từ chỗ chưa định hình
đến định hình, gắn liền với giai đoạn CNH - HĐH và sẽ định hình vào năm
2020 ở nước ta.
4. Nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa.
4.1 Mục đích.
Mục đích của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH, nâng cao đời sống nhân dân.
SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A



Tiểu luận triết học

17

4.2 Các nội dung định hướng chính.
Ngoài những giá trị đặc trưng chung của nền KTTT, nền KTTT định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn mang những đặc trưng riêng dự trên
nguyên tắc của bản chất của CNXH, dựa trên tính đặc thù về tình hình kinh
tế- chính trị- xã hội Việt Nam. Tính đặc thù ấy thể hiện ở chỗ sự phát triển
KTTT nước ta diễn ra với 2 bước chuyển cơ bản: Từ mô hình kinh tế chỉ huy
sang nền KTTT và nền kinh tế tự nhiên của người tiểu nông sang KTTT.
Từ thực tiễn hơn 15 năm xây dựng và phát triển KTTT, có thể rút ra nội
dung định hướng XÃ HộI CHủ NGHĨA đối với nền KTTT nước ta là:
Thứ nhất, nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền
kinh tế kết hợp hai mặt kinh tế- xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Trong nhiều đặc tính có thể làm tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền
KTTT khác, phải nói đến mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nhà nước và nhân dân
đã chọn làm định hướng chi phối sự vận động, phát triển của nền KTTT. Mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bàng, dân chủ, văn minh đã qui định
tính tất yếu khách quan phải định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền KTTT ở
nước ta: Đó chính là sự khác biệt rõ nét nhất giữa KTTT nước ta với các nước
khác.
Cái khác cơ bản của thị trường xã hội chủ nghĩa là thu hẹp dần sự phân
biệt giàu nghèo. Công bằng về phân phối về thu nhập đã tạo ra và là nguồn
gốc của mọi công bằng khác như công bằng về chăm sóc về kinh tế, về học
hành…Muốn vậy phải vận dụng các qui luật thị trường để kiên trì thực hiện
công bằng xã hội chứ không phải là những mệnh lệch hành chính thay cho thị
trường hay dùng một bộ máy phân phối thay cho thị trường, phải dùng luật
pháp để cho qui luật phân phối theo lao động dần dần phát huy tác dụng ngày

càng cao hơn kiểu tư bản.

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

18

Để đạt tới công bằng trong phân phối thu nhập, chúng ta thực hiện
nhiều hình thức phân phối thu nhập: Phân phối theo kết quả lao đọng và hiệu
quả kinh tế, hiệu xuất công tác, phân phối theo mức góp vốn và các nguồn
kực khác vào sản xuất kinh doanh, phân phối thông qua các quĩ phúc lợi xã
hội, trong đó, hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý nhằm thu
hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, vừa khuyến khích lao động vừa đảm
bảo những phúc lợi xã hội cơ bản.
Để phát triển công bằng, cần có nhìn nhận mới hơn đối với phạm trù lợi
ích với tư cách là động lực cho phát triển, về mối quan hệ với lợi ích cá nhân,
lợi ích tập thể và xã hội. Sự thiên lệch về lợi ích nào đó cũng triệt tiêu động
lực của sự phát triển. Cần có chính sách tôn vinh những người tổ chức sản
xuất kinh doanh theo luật pháp tạo được nhiều việc làm cho xã hội, dù ở
thành phần kinh tế nào.
Thứ hai, nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo.
Nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta láy việc giải phóng sức sản
xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức

sở hữu. Trong nền KTTT nước ta tồn tại ba laọi hình sở hữu cơ bản: SH toàn
dân, SH tập thể, SH tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành
nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh.Do đó không
chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế,của chế độ công hữu, mà còn phải
khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hưu tư nhân để hình
thành nền KTTT rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu,
các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và
ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

19

phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường
bình đẳng.
Thứ ba, Nhà nước quản lý nền KTTT ở nước ta là nhà nước của dân do
dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Trong nền KTTT hiện đại, nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế
là xu hướng khách quan. Nhưng khác với bản chất của nhà nước tư sản, nhà
nước ta là nhà nước của dân, do dân vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng cộng
sản. Chính điều này làm cho mô hình kinh tế thị trường của nước ta khác về
bản chất với mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế ấy đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sả, dưới sự quản lý của nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nhằm hạn chế, khắc phục những thất bại của thị trường, thực
hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không làm được.

Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa đã tìm ra mô hình kinh tế thị
trường của riêng mình. Đây là một nội dung quan trọng không thể thiếu trong
định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, sự vận hành của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là sự
kết hợp chặt chẽ giữa thị trường và kế hoạch.
Trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta sử dụng cơ chế thị
trường để kích thích sản xuất, phát huy tính năng động sáng tạo của người
lao động, giải phong sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời chúng ta lãnh đạo, quản lý nền kinh tế
phát triển đúng hướng đi lên CNXH để khắc phục những thất bại của thị
trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không
làm được.
Trong quá trình phát triển KTTT bất cứ sự thiên lệch về cơ chế nào dều
biểu hiện sự chệch hướng. Với sự song hành của hai cơ chế, mọi hoạt động
của sản xuất kinh doanh phải được thông qua thị trường, song phải đặt dưới
sự điều tiết của nhà nước bằng kế hoạch và các công cụ quản lý vĩ mô khác.
SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

20

PHẦN V:
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1/ Thực trạng nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang KTTT theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

1.1/ Kinh tế hàng hóa còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính
chất tự cung tự cấp
Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn yếu kém.
Hệ thồng kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất xã hội chưa đủ để phát triển kinh
tế trong nước và chưa có khả năng giao lưu với thị trường quốc tế.
Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối kèm hiệu quả. Từ điểm xuất phát thấp, nền
kinh tế nhỏ nên đăc trưng nước ta là kinh tế nông nghiệp.
Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần ở nước ta đang được hình thành và phát triển. Chung ta từng có thị
trừong hàng hóa nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông
thường. Về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động. Trong khu
vực kinh tế nhà nước vẫn còn sử dụng chế độ lao động theo biên chế, chưa có
thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Năng xuất lao động xã hội còn thấp và thu nhập quốc dân tính theo đầu người
còn thấp.
1.2/ Ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế quan liêu bao cấp
Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cho
nên trong nhiều thập kỉ qua ở qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy
với cơ chế quan liêu tập trung bao cấp. Thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng
minh mô hình này có nhiều nhược điểm.

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

21


Về quan hệ tổ chưc hành chính, đó là cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập
trung nhưng lại được điều hành bởi nhiều đầu mối khac nhau. Kiểu quản lý
như vậy mang tính chất phân tán.
Về quan hệ kinh tế, cơ chế tập quan liêu thê hiện quan hệ giao nộp, thu mua,
cấp phát. Hậu quả của nó hết sức nặng nề:
Làm mất sức mạnh của tổ chức kinh tế Nhà nước.
Suy yếu tính sáng tạo, lãnh phí gây thất thoát tài sản quốc gia.
Cản trở mục tiêu ổn định, cải thiện đời sống phát triển sản xuất.
2/ CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HÓA MÔ HÌNH KTTT ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.2/ Tạo lập, duy trì và phát triển tự do hóa kinh tế
Đây là một điều kiện cố tầm quan trọng đến sự hình thành và phát triển
KTTT ở nước ta. Tự do hóa kinh tế là một điều kiện tất yếu dể sản sinh và
nuôi dướng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ, rất cần thiết cho các
chủ doanh nghiệp với tư cách là những nền kinh tế tử chủ.
Tương ứng với điều kiện này, các giải pháp cần có là:
Tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách nền kinh tế đa dạng hóa về
hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Có chính sách và cơ chế đủ sức xóa
bỏ nhanh chóng sự kì thị và phân biệt đối xử, thực hiện khuyến khích đầu tư
và tôn vinh vai trò của các doanh nhân trong tất cả các thành phần kinh tế.
Trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế,
tiếp tục xây dựng phát triển đồng bộ các loại thị trường . Cụ thể:
Thực hiện đồng bộ giữa thị trường trong nước với thị trường ngoài
nước, trong đó lấy thị trường trong nước làm cơ sở, thị trường ngoài nước là
quan trọng,Coi trọng việc phát triển thị trường nông thôn ở nước ta, một thị
trường rộng lớn với gần 80% dân cư sinh sống, nhưng sức mua hiện tại còn

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A



Tiểu luận triết học

22

rất thấp, một cản trở đối với ngành công nghiệp và các ngành khác. Trong
thời gian tới cần thông qua việc phát triển KTTT và đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn để tăng sức mua của thị trường này.
Tạo dựng môi trường chính trị kinh tế, xã hội tương đối ổn định và
thông thoáng để các chủ thể kinh tế trong nước và ngoài nươc yên tâm, phấn
khởi các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh. Môi trường chính trị tương đối
ổn định bao gồm :
a, Đường lối chính trị đúng đắn và ổn định
b, Đất nước yên bình
c, Bộ máy chính phủ có uy tín đối với các chủ doanh
nghiệp và dân cư .
Môi trường kinh tế tương đối ổn định thể hiện trước hết ở chính sách tài
chính và chính sách tiền tệ:
+ Về chính sách tài chính : Ngân sách nhà nước với tư cánh là nguồn lực và
lớn nhất phải lành mạnh, không bội chi vượt quá mức Quốc hội cho phép; có
một chính sách thuế thích hợp vừa thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng
kinh tế, vừa tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước, giảm tình trạng thất thu
và kinh tế “ ngầm”.
+ Về chính sách tiền tệ và giá cả, khống chế và kiểm soát lạm phát, giữ vững
tương đối giá trị và sức mua của tiền tệ, ổn định tương đối giá cả hàng hóa,
dịch vụ trên thị trường.
+ Về môi trường xã hội tương đối ổn định phải là môi trường xã hội mà ở đó
con người sống và làm theo pháp luật, sống có văn hóa có hoài bão và lành
mạnh.


SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

23

2.2/ Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, mội điều kiện cho sự phát triển KTTT
định hướng xã hội chủ nghĩa
Một nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa được coi là định hình khi
nó đạt trình độ KTTT hỗn hợp hiện đại, ngang với trình độ các nước có nền
kinh tế phát triển. Một nền kinh tế như vậy chỉ có thể dựa trên cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, tương ứng với trình độ văn minh có sự giao thoa giữa văn
minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Với tư
cách là một điều kiện của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ sơ vật chất
kỹ thuật đó phải được thực hiện thông qua khi sự nghiệp CNH, HĐH thông
công ở nước ta.
2.3/ Tạo dựng hành lang và cơ chế bảo đảm giữ vững định hưỡng xã hội
chủ nghĩa đối với KTTT
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng mọtt cách trực tiếp hoăc gián tiếp trong
các ngành, các cấp, hệ thống các trường và các tổ chức kinh tế. Thông qua
giáo dục học tập cho tất cả các tổ chức nói trên về chủ nghĩa yêu nước, chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM với tư cách là nền tảng của cách mạng xã
hội chủ nghĩa, nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa và sự cần thiết phải giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa đối với KTTT.
+ Củng cố và tăng cường năng lực và hiệu lực của Quốc hội, ban hành các
luật phát còn thiếu, điều chỉnh bổ sung và hoàn thiện các luật pháp đã có sao

cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và tính đến sự phù hợp với thông lệ quốc
tế, trên cơ sở quyền lực thống nhất, cần cường tính độc lập tương đối và năng
lực của các cơ quan tư pháp trong sử lý nghiêm minh và kịp thời những vi
phạm pháp luật đối với các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và dân cư.
+ Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách đa dạng hóa về sở hữu và thành
phần kinh tế, tăng cường vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước
nắm những khâu, ngành then chốt trọng yếu, tạo thực lực kinh tế để Nhà nước

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

24

điều tiết tính tự phát của KTTT, thực sự gương mẫu chấp hành luật pháp, hỗ
trợ và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.4 Tạo lập bộ máy nhà nước vững mạnh
Có thể quan niệm sự vững mạnh của nhà nước qua các tiêu chuẩn sau:
Trung thành với chủ nghĩa Mac- Lênin, tư tưởng HCM, với lợi ích dân tộc.
Trong sạch về phẩm chất đạo đức; Cần thiết, liêm chính, chí công vô tư; có
năng lực chuyên môn, có uy tín đối với chủ doanh nghiệp và nhân dân trong
việc thực hiện tốt chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với KTTT.
Tính thực hiện của các tiêu chuẩn nói trên sẽ đươc thực hiện qua các
giải pháp như: Giáo dục rèn luyện; Trong nâng cấp, nâng bậc công chức ngoài
tiêu chuẩn năng lực cần đưa thêm tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức, liêm chính,
chí công vô tư để tuyển loại cán bộ viên chức.


SVTH: Đỗ Thị Lương Hà

Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


Tiểu luận triết học

25

KẾT LUẬN
Mô hình KTTT theo xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã và đang đem lại
những thành tựu đáng kể, cải thiện đời sống nhân dân, từng bước tạo điều
kiện hội nhập kinh tế thế giới. Sư khắc phục này dần khắc phục được những
khuyết tật của KTTT, tăng cường ảnh hưởng tích cực đồng thời ảnh hưởng
hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội.
Để ngày càng thu được những thành công to lớn nhăm nâng cao đời
sống dân cư và vị thế của nước ta trong khu vực và trên thế giới, trong tiến
trình thị trường hóa nền kinh tế đòi hỏi không chỉ có sự cố gắng nỗ lực của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta mà còn cần có một lý luận sắc bén về KTTT
và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là vai trò lý luận Mac-lênin về
KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa và vận dụng nó ở Việt Nam.
Như vậy, một lần nữa có thể khẳng định được rằng các lý luận của chủ
nghĩa Mac - Lênin về KTTT và sự vận dụng nó vào nền KTTT theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực sự có vai trò quan trọng, cần được
tuân thủ và áp dụng một cách linh hoạt vào thị trường Việt Nam, đảm bảo cho
nền kinh tế nước ta đạt được những thành công mong đợi, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên
CNXH.

SVTH: Đỗ Thị Lương Hà


Lớp: Tài chính Doanh nghiệp 2A


×