Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 51 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TRẦN ÂN

VẬN DỤNG QUY TẮC TAYLOR
TRONG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI
SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƢỚC VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS., TS. LÝ HOÀNG ÁNH

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016


1

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết và ý nghĩa của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang ngày trở nên toàn cầu hóa mạnh mẽ với
sự hội nhập tài chính sâu rộng, vai trò của ngân hàng trung ương (NHTW) ngày càng
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát
triển của NHTW các nước trên thế giới, vấn đề quan tâm hàng đầu vẫn là công cụ
chính sách tiền tệ (CSTT) nào là hiệu quả nhất và cách thức vận dụng như thế nào, cơ
chế vận hành và kiểm soát. Thực tế hiện nay do bởi tính phức tạp của việc sử dụng
khối lượng tiền là công cụ điều hành do khả năng không bền vững của cầu tiền một
phần do sự bất ổn trong ngắn hạn hoặc phần khác bởi sự thay đổi liên tục tạo ra từ các


đổi mới tài chính, các NHTW của các nền kinh tế hiện đại đang dần chuyển sang điều
hành lãi suất mục tiêu thay cho khối lượng tiền tệ mục tiêu.
Đa số NHTW trên thế giới, bao gồm cả Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)
xác định mục tiêu đầu tiên của CSTT là ổn định giá trị của nội tệ của quốc gia, thông
qua việc kiểm soát lạm phát. Lãi suất là một trong những công cụ được sử dụng để
kiểm soát lạm phát một cách hữu hiệu. Thông qua cơ chế truyền dẫn CSTT, NHTW
khi quyết định mở rộng (thắt chặt) CSTT sẽ giảm (tăng) mức lãi suất chính sách
(LSCS) thông qua tăng (giảm) cung tiền. LSCS thay đổi sẽ tác động đến các thị trường
làm thay đổi lãi suất thị trường, qua đó tác động làm thay đổi nhu cầu chi tiêu dùng
(C), nhu cầu chi đầu tư (I) và xuất khẩu ròng (NX) của nền kinh tế, kéo theo tổng cầu
thay đổi. Khi tổng cầu tăng sẽ làm tăng GDP thực và mức giá chung và ngược lại. Sự
tác động dẫn truyền của lãi suất trong cơ chế truyền dẫn CSTT cho thấy lãi suất là
công cụ được lựa chọn để kiểm soát lạm phát hữu hiệu cũng như kích thích tăng
trưởng kinh tế.
Việt Nam do chưa hội nhập đầy đủ vào thị trường tài chính thế giới nên ít chịu
ảnh hưởng bởi các cơn bão khủng hoảng tài chính song ít nhiều cũng có tác động đến
nền kinh tế, cụ thể là tốc độ phát triển kinh tế chậm lại, chỉ số tiêu dùng năm 2008 tăng
19,89% và năm 2011 là 18,13%1 so với năm trước đó, nhiều dự án đã phải đình lại, giá
cả tăng cao do đó mục tiêu kìm chế lạm phát ưu tiên so với mục tiêu phát triển kinh tế.
Thị trường bất động sản đóng băng, thị trường chứng khoán đỏ liên tục, ảm đạm.
Trong bối cảnh đó, hệ thống ngân hàng – hệ thống mạch máu của nền kinh tế - đóng
vai trò quan trọng trong việc kìm chế hoặc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế mà
lãi suất là một trong những công cụ tài chính quan trọng và cần thiết để điều tiết dòng
chảy tiền tệ trong nền kinh tế. Lãi suất được điều chỉnh liên tục để phù hợp với từng
thời kỳ của nền kinh tế. Vai trò điều tiết của NHNN quan trọng hơn bao giờ hết. Vấn
đề đặt ra là loại lãi suất nào là lãi suất chủ đạo của CSTT và mức lãi suất bao nhiêu là
phù hợp trong từng giai đoạn để đảm bảo thực hiện tốt hai nhiệm vụ cơ bản của CSTT
là ổn định lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế. Một quyết định sai lầm về mức lãi
suất có thể làm cho nền kinh tế bị ngưng trệ hoặc tăng trưởng quá nóng. Do vậy cơ chế
điều hành lãi suất của NHNN trong từng thời kỳ có vai trò quan trọng giúp các tổ chức

tín dụng (TCTD) có thể chủ động thực hiện chính sách lãi suất của mình phù hợp mục
tiêu huy động và cho vay vốn. Quan trọng hơn, một khi Việt Nam hội nhập đầy đủ vào
1.

1

Số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam (www.gso.gov.vn)


2
nền kinh tế thương mại và tài chính thế giới, các ảnh hưởng từ nền kinh tế toàn cầu sẽ
tác động mạnh mẽ vào các lĩnh vực kinh tế trong nước.
Có nhiều mô hình liên quan đến việc xác lập LSCS từ đơn giản đến phức tạp, sử
dụng các hàm số kinh tế lượng nhiều biến nhằm tối ưu hóa công cụ lãi suất để thực
hiện CSTT một cách hiệu quả. Và trong nhiều mô hình đó, quy tắc của Giáo sư John
B. Taylor, trường Đại học Standford, Mỹ được công nhận đơn giản và sát với LSCS
của NHTW Mỹ (Cục Dự trữ Liên Bang - Fed), đặc biệt trong thời kỳ năm 1987 –
1992. Quy tắc Taylor xác định mức LSCS trên cơ sở sự thay đổi của chỉ số lạm phát,
độ lệch về tổng sản lượng nền kinh tế theo GDP và độ lệch giữa tỉ lệ lạm phát thực tế
và tỉ lệ lạm phát mục tiêu dài hạn.
Xuất phát từ sự quan tâm đến vai trò hữu dụng của quy tắc Taylor trong việc tính
toán mức LSCS làm cơ sở tham chiếu để đánh giá hiệu quả của CSTT của các nhà
hoạch định chính sách trong bối cảnh Việt Nam chưa công bố thông tin về CSTT định
kỳ và dư luận công chúng vẫn còn phải dự đoán tương lai lãi suất sẽ lên hay xuống mà
chưa có cơ sở tham khảo khoa học, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Vận dụng quy tắc
Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam” để
tìm hiểu và nghiên cứu chuyên sâu.
2.

Tổng quan về công trình nghiên cứu

Trên thế giới và tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về quy tắc Taylor. Vì vậy,
đề tài này không phải là một hướng nghiên cứu mới. Tuy nhiên, do tính chất của các
biến số kinh tế vĩ mô là lãi suất, tăng trưởng kinh tế và lạm phát trong từng thời điểm,
tại mỗi quốc gia đều khác nhau, do đó, nghiên cứu về các biến số này tại từng thời
điểm đều rất cần thiết và hữu ích đối với mỗi quốc gia. Hầu hết các nghiên cứu về quy
tắc Taylor trên thế giới và Việt Nam đi theo hướng kiểm định tính đúng đắn của CSTT
với công cụ LSCS, trong khi đó luận án của nghiên cứu sinh bên cạnh việc kiểm chứng
sự phù hợp của quy tắc Taylor đối với chính sách lãi suất của Việt Nam còn nghiên
cứu, tìm tòi sự vận dụng của quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của
NHNN. Đây là hướng đi mới trong nghiên cứu.
Trên thế giới đã có những nghiên cứu về quy tắc chính sách từ rất sớm, trước
khi quy tắc Taylor ra đời vào năm 1993. Các nghiên cứu này tập trung nghiên cứu
những CSTT có thể thực thi theo quy tắc nào đó và kết luận rằng CSTT nên được thực
thi theo quy tắc tốt hơn là theo sự chủ động tùy ý. Một số quy tắc tiêu biểu như quy tắc
Wicksell (1898) (Δi = θπ) cho rằng “lãi suất là biến thay đổi theo mức giá”, khi giá cả
tăng thì lãi suất tăng và ngược lại; quy tắc Friedman (1960) về khối lượng tiền trong
lưu thông được biết dưới tên gọi phương trình trao đổi nổi tiếng của Friedman (mv =
pq). Quy tắc McCallum năm 1988 đưa ra quan điểm về khối lượng tiền trong lưu
thông, theo đó sự biến thiên của khối lượng tiền trong lưu thông phụ thuộc vào sự biến
thiên của thu nhập danh nghĩa tự nhiên của một quốc gia (Δx*) tương ứng với sự biến
thiên của sản lượng tiềm năng tại mức lạm phát mục tiêu2.
Năm 1993, Giáo sư John B. Taylor đã đưa ra quy tắc đề xuất tính mức LSCS
trên cơ sở hai biến số kinh tế vĩ mô chính là lạm phát và mức tăng trưởng sản lượng,
được biết với tên gọi là quy tắc Taylor (1993). Kể từ sau năm 1993, rất nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế đã đưa ra các biến thể của quy tắc Taylor gốc (1993) tiêu biểu như
dạng quy tắc Taylor nhìn về quá khứ, dạng hướng về tương lai, dạng hỗn hợp và dạng
2

Quy tắc McCallum được biểu diễn qua phương trình Δmt = Δx* - Δvt*+ 0.5 (Δx* - Δxt-1) (McCallum 2000)



3
kết hợp với các mô hình khác như kết hợp với mô hình về mức tăng cơ số tiền cơ sở
được biết đến với tên quy tắc Taylor-McCallum, hoặc kết hợp với mô hình về mức
tăng cơ số tiền cơ sở, vòng quay tiền, lạm phát và mức tăng sản lượng. Bên cạnh đó,
mục tiêu của các NHTW là tối thiểu hóa sự biến động của lạm phát và sản lượng trong
nền kinh tế sao cho giá trị hàm tổn thất đạt được là thấp nhất, được tính toán theo các
giá trị dự báo của mức lạm phát và độ lệch sản lượng theo một lộ trình LSCS ước tính
và NHTW sẽ chọn lựa giải pháp nào có giá trị hàm tổn thất tối ưu (có giá trị nhỏ nhất).
Theo đó, các NHTW sẽ sử dụng quy tắc mục tiêu (targeting rules) là công cụ hướng
dẫn thay cho quy tắc công cụ (instrument rules) thông qua việc sử dụng các quy tắc
công cụ gắn liền với hàm tổn thất để tạo ra quy tắc mục tiêu với giá trị nhỏ nhất của
hàm tổn thất mục tiêu.
Bên cạnh các lý luận về quy tắc Taylor và các dạng phát triển mô hình dạng
Taylor, có nhiều công trình nghiên cứu định lượng về quy tắc Taylor với các phương
pháp hồi quy khác nhau và ở tại các quốc gia khác nhau. Để phục vụ cho nhu cầu
nghiên cứu của đề tài, nghiên cứu sinh đã tìm hiểu một số công trình tiêu biểu trên thế
giới nghiên cứu về phân tích định lượng, khả năng vận dụng, đánh giá hiệu quả của
CSTT thông qua các mô hình có dạng quy tắc Taylor liên quan đến nội dung của đề tài
nghiên cứu, cụ thể là công trình của Soderlind, Soderstrom, và Vredin năm 2004 đã
thực nghiệm phân tích quy tắc Taylor dạng làm phẳng lãi suất, hướng về tương lai ở
bậc (t+1) và sử dụng kết hợp phương trình đường cung Phillips và phương trình đường
cầu dạng IS theo mô hình New Keynesian của Rudebusch; công trình của Siklos và
Wohar năm 2004 đã thực nghiệm phân tích quy tắc Taylor dạng làm phẳng lãi suất,
nhìn về quá khứ ở bậc (t-1) với phương pháp hồi quy là bình phương nhỏ nhất (OLS);
và công trình của Driffill và Rotondi năm 2007 đã thực nghiệm phân tích quy tắc
Taylor dạng làm phẳng lãi suất, nhìn về quá khứ bậc (t-1) kết hợp mô hình dự báo lạm
phát và sản lượng và đề cập đến hàm tổn thất. Phương pháp hồi quy OLS được sử
dụng để dự báo tỉ lệ lạm phát và độ lệch sản lượng. Cả ba công trình nghiên cứu trên
đều sử dụng mô hình làm phẳng lãi suất với các biến ở bậc 1 để kiểm định CSTT của

Fed và sử dụng mô hình New Keynesian để tính toán giá trị hàm tổn thất thông qua
việc dự báo sản lượng và tỉ lệ lạm phát bằng các mô hình kinh tế lượng.
Tại Việt Nam, số lượng nghiên cứu về quy tắc Taylor và hàm tổn thất còn ít và
phạm vi nghiên cứu cũng giới hạn bởi một loại lãi suất cố định của NHNN. Một số
nghiên cứu khá chi tiết về quy tắc Taylor bao gồm các bài viết như sau:
Tác giả Nguyễn Thị Hương Liên với đề tài “Taylor rule and Optimal monetary
policy in Vietnam” đăng trên tạp chí Yokohama Journal of Social, quyển thứ 15 năm
2010 với dữ liệu quý ở giai đoạn 2000 – 2008 sử dụng các biến lãi suất công trái, độ
lệch lạm phát, độ lệch sản lượng và chênh lệch tỉ giá hối đoái danh nghĩa với phương
pháp hồi qui OLS, đã kết luận không có bằng chứng cho thấy NHNN tuân theo quy tắc
Taylor. Bên cạnh đó tác giả Liên đã sử dụng phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên để
tính toán hệ số tối ưu của CSTT theo giá trị hàm tổn thất nhỏ nhất và đã đưa ra kết quả
từ phương pháp mô phỏng cho thấy CSTT tối ưu có hệ số độ lệch sản lượng là 0,3 và
hệ số lạm phát là 0,7. Nghiên cứu có đề cập đến hàm tổn thất để xác định hệ số tối ưu
của quy tắc Taylor áp dụng cho một loại lãi suất là lãi suất công trái không phải là
LSCS của NHNN.
Tác giả Vũ Xuân Hòa với đề tài Taylor rule and optimal interest rate policy in
Vietnam năm 2012 sử dụng dữ liệu quý giai đoạn 2000 – 2011 nghiên cứu ảnh hưởng
của độ lệch lạm phát, độ lệch sản lượng và tỉ giá hối đoái đến lãi suất ngắn hạn và kết


4
luận rằng không có bằng chứng cho thấy chính sách lãi suất Việt Nam tuân theo quy
tắc Taylor. Nếu Việt Nam tuân theo quy tắc Taylor sẽ cải thiện được chính sách lãi
suất. Về dài hạn NHNN nên tiếp tục tăng trưởng kinh tế và tiếp theo là kiểm soát lạm
phát.
Các tác giả Đào Mạnh Trường, Vũ Xuân Hòa và Nguyễn Thị Loan với đề tài
Assessing Vietnam’s monetary policy through the perspective of monetary rules vào
tháng 7 năm 2012 thực nghiệm quy tắc Taylor với dữ liệu quý trong thời gian năm
1996 – 2011, tỉ lệ lạm phát tính theo CPI, sản lượng tiềm năng tính theo bộ lọc HP,

hiệu chỉnh thời vụ X12, lãi suất được chọn là lãi suất tái chiết khấu, quy tắc Taylor áp
dụng ở dạng mô hình gốc và có sử dụng độ trễ bằng 1 với các biến ở bên phải của quy
tắc. Nhóm tác giả đã kết luận là chính sách lãi suất của NHNN không tuân theo quy
tắc Taylor mà thiên về chính sách chủ động tùy ý và chính sách lãi suất tập trung vào
kiểm soát lạm phát. Nghiên cứu chỉ tập trung làm rõ quy tắc Taylor đối với lãi suất tái
chiết khấu và kết luận về CSTT chưa đầy đủ.
Qua ba nghiên cứu trên tại Việt Nam cho thấy các tác giả chỉ sử dụng một loại
lãi suất duy nhất của NHNN để tính toán với quy tắc Taylor, trong đó không đề cập
đến lãi suất cơ bản (LSCB) và trần lãi suất là loại lãi suất đặc trưng của NHNN được
sử dụng đặc biệt trong thời kỳ lạm phát cao. Việc kết luận chính sách lãi suất của
NHNN chỉ dựa trên một loại lãi suất mà không xem xét đến các loại lãi suất khác là
chưa thể hiện đầy đủ vai trò và tác dụng của chính sách lãi suất của NHNN.
Tóm lại, hầu hết các nghiên cứu về quy tắc Taylor trên thế giới và Việt Nam
đều tập trung đánh giá tính đúng đắn của CSTT qua lăng kính quy tắc Taylor mà chưa
đề cập nhiều đến hướng nghiên cứu khả năng vận dụng của quy tắc Taylor trong việc
hoạch định và thực thi CSTT hay cụ thể hơn là chính sách lãi suất, đặc biệt ở Việt
Nam. Vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất là hướng đi mới mà
nghiên cứu sinh mong muốn làm rõ để có thể ứng dụng linh hoạt và phù hợp quy tắc
Taylor trong việc hoạch định chính sách lãi suất trong điều kiện kinh tế Việt Nam. Do
đó đề tài không trùng lắp với các công trình nghiên cứu và công bố trước đây.
3.

Mục tiêu nghiên cứu
- Khả năng và cách thức vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi
suất của NHNN nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu cơ bản của CSTT là ổn định
lạm phát và tăng trưởng kinh tế bền vững.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều
hành lãi suất của NHNN.
Luận án sẽ tập trung nghiên cứu những nội dung chính sau đây:
- Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về quy tắc Taylor.

- Nghiên cứu kinh nghiệm phân tích và vận dụng quy tắc Taylor trong chính
sách lãi suất của một số NHTW trên thế giới, từ đó đúc kết bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam và các điều kiện chính yếu để vận dụng quy tắc Taylor đối với các NHTW.
- Phân tích thực trạng của chính sách lãi suất của NHNN từ năm 2000 đến năm
2015 bằng quy tắc Taylor để giải thích những hợp lý và bất hợp lý của chính sách lãi
suất, nêu bật các thuận lợi và khó khăn khi vận dụng quy tắc Taylor ở Việt Nam đối
chiếu với các điều kiện vận dụng quy tắc Taylor, qua đó đề xuất các giải pháp cơ bản
để vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN.


5
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sự vận dụng của quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành
lãi suất của NHNN.
Phạm vi nghiên cứu về nội dung là lý luận chung về quy tắc Taylor và vai trò của
quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHTW; kinh nghiệm vận dụng quy
tắc Taylor của các NHTW Mỹ, Châu Âu, Anh, Úc và Nhật trong việc hoạch định và
điều hành chính sách lãi suất; các điều kiện áp dụng; các thuận lợi và khó khăn khi vận
dụng quy tắc Taylor tại Việt Nam; và các phương pháp phân tích chính sách lãi suất sử
dụng quy tắc Taylor.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ năm 2000 đến năm 2015. Các giải pháp đề
xuất dựa trên định hướng phát triển kinh tế xã hội và CSTT đến năm 2020.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm phương
pháp thống kê, so sánh đối chứng, phương pháp phân tích định lượng bao gồm phương
pháp tính toán thông thường và phương pháp phân tích kinh tế lượng (hồi quy mô hình
đa biến bằng phương pháp bình phương tối thiểu OLS, phương pháp TSLS -Two-stage
least quare, mô hình vec-tơ tự hồi quy VAR, phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên).

5.

Những đóng góp và hạn chế của luận án
Theo quan điểm của tác giả, đóng góp chính của luận án gồm có:
- Nghiên cứu quy tắc Taylor một cách tương đối chi tiết, đầy đủ với mô hình
gốc và các dạng phát triển quy tắc Taylor hiện nay.
- Việc vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành chính sách lãi suất của
NHNN dựa trên kinh nghiệm vận dụng quy tắc Taylor của một số NHTW trên thế giới
như NHTW Mỹ (Fed), Châu Âu, Anh, Nhật Bản và Úc áp dụng vào điều kiện kinh tế
đặc thù của Việt Nam, đúc kết các điều kiện cần thiết để có thể vận dụng quy tắc
Taylor của một NHTW.
- Kiểm định đầy đủ các loại lãi suất điều hành của NHNN là LSCB, trần lãi suất
huy động (TLS), lãi suất tái chiết khấu (LSTCK), và lãi suất tái cấp vốn (LSTCV) theo
quy tắc Taylor trên cả hai phương cách là (i) phương pháp tính thông thường không
hồi quy theo các hệ số cố định và (ii) phân tích mô hình kinh tế lượng. Từ đó đưa ra
kết luận về thực trạng chính sách lãi suất của NHNN trong thời kỳ năm 2000 – 2015
và tính hiệu quả của quy tắc Taylor khi áp dụng trong chính sách lãi suất của NHNN.
Kết quả phân tích chính sách lãi suất với các bằng chứng thực nghiệm minh chứng tính
hiệu quả khi ứng dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN.
- Tính toán hàm tổn thất theo ba dạng khác nhau dựa trên phương pháp mô
phỏng ngẫu nhiên để rút ra hệ số độ lệch lạm phát và hệ số độ lệch sản lượng của
CSTT tối ưu và kiểm định các hệ số đó trong điều kiện kinh tế vĩ mô thực tế ở Việt
Nam giai đoạn năm 2000 - 2015.
- Các giải pháp tổng thể về vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi
suất của NHNN nhằm nâng cao hiệu quả, độ tin cậy và sự minh bạch trong chính sách
lãi suất của NHNN.
Ngoài ra, luận án cũng có một số hạn chế nhất định:
- Do nguồn dữ liệu kinh tế vĩ mô của Việt Nam chưa đảm bảo sự thống nhất và
độ chính xác nên kết quả nghiên cứu định lượng chịu ảnh hưởng nhất định từ tính chất
của dữ liệu.

6.


6
- Quy tắc Taylor được các nhà kinh tế trên thế giới nghiên cứu chuyên sâu dưới
nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều quốc gia từ năm 1993 đến nay nên
trong thời hạn nghiên cứu cho phép, nghiên cứu sinh chỉ có thể tiếp cận các công trình
nghiên cứu tiêu biểu trên thế giới nên mặc dù cố gắng trình bày các vấn đề cốt lõi liên
quan đến quy tắc Taylor, có thể còn một số khía cạnh về lĩnh vực này nghiên cứu sinh
chưa đề cập đến.
- Quy tắc Taylor được các nhà kinh tế sử dụng với mục đích chính là kiểm
nghiệm lại CSTT hay chính sách lãi suất đã được hoạch định trước đó nên việc nghiên
cứu vận dụng quy tắc này vào cơ chế điều hành lãi suất là một hướng đi mới, do đó
không khỏi có những vấn đề còn tranh luận. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu,
nghiên cứu sinh đã cố gắng đề xuất một số giải pháp cơ bản để có thể vận dụng quy
tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN.
7.

Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục các bảng, danh
mục các hình, danh mục các công trình công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận án bao gồm bốn chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quy tắc Taylor và vai trò quy tắc Taylor trong cơ chế
điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương – Sự vận dụng ở các nước và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
Chương 2: Phương pháp phân tích thực trạng chính sách lãi suất của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam bằng quy tắc Taylor.
Chương 3: Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam qua phân tích bằng quy tắc Taylor.
Chương 4: Các giải pháp cơ bản vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành

lãi suất của NHNN.
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY TẮC TAYLOR VÀ VAI TRÒ QUY
TẮC TAYLOR TRONG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG
TRUNG ƢƠNG – SỰ VẬN DỤNG Ở CÁC NƢỚC VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CHO VIỆT NAM
1.1 Những vấn đề cơ bản về quy tắc Taylor
1.1.1 Khái niệm
Quy tắc Taylor là mô hình CSTT được giới thiệu bởi Giáo sư Taylor năm 1993
mô tả LSCS ngắn hạn (FFR) của Fed được đo lường bằng hai thành tố chủ yếu là độ
lệch lạm phát giữa mức lạm phát thực tế so với tỉ lệ lạm phát mục tiêu và độ lệch sản
lượng giữa mức sản lượng thực tế so với sản lượng tiềm năng. Một cách khái quát, quy
tắc Taylor là hàm phản ứng của NHTW trước cục diện kinh tế thay đổi (tỉ lệ lạm phát
và độ lệch sản lượng).
1.1.2 Quy tắc Taylor tính lãi suất chính sách
Công thức nguyên thủy của Giáo sư Taylor (1993) như sau:
it = πt + 0,5(yt)+ 0,5(πt – 2) + 2
(1.1)
và dạng tổng quát:
it = πt + r* + α(πt – π*) + β(yt)
(1.2)


7
Trong đó: it : LSCS của Fed; r*: Lãi suất thực cân bằng (equilibrium real
interest rate); πt: Tỉ lệ lạm phát bình quân qua 4 quý liên tiếp (Judd và Rudebusch
1998); π*: Tỉ lệ lạm phát mục tiêu dài hạn; yt: Độ lệch sản lượng (output gap), yt =
100 x Ln(GDP thực/GDP tiềm năng) (Kozichi 1999); α: hệ số độ lệch lạm phát; β: hệ
số độ lệch sản lượng
Biến đổi công thức (1.2) ta có dạng như sau:
it = π* + r* + 1,5(πt – π*) + 0,5 (yt)

(1.3)
Từ công thức (1.3) cho thấy “nguyên tắc Taylor” gắn với quy tắc Taylor yêu
cầu LSCS thực phải tăng khi tỉ lệ lạm phát thực vượt qua mức lạm phát mục tiêu.
Dạng tổng quát của (1.3) sẽ là:
it = π* + r* + βπ(πt – π*) + βy(yt)
(1.4)
Trong đó, βπ=1+α, βy = β.
Billi (2011) trình bày một dạng biến thể của quy tắc Taylor như sau:
it = π* + r* + βπ(πt – π*) + βy(gt – g*)
(1.5)
Trong đó: gt là mức tăng trưởng GDP thực và g* là xu hướng tăng trưởng của
GDP thực được đo lường bằng mức bình quân tỉ lệ tăng trưởng GDP trong giai đoạn
dài.
+ Nếu πt > π* hoặc GDP thực > GDP tiềm năng (hay yt > 0) thì it sẽ tăng.
+ Nếu πt < π* hoặc GDP thực < GDP tiềm năng (hay yt < 0) thì it sẽ giảm.
+ Nếu πt > π* và GDP thực < GDP tiềm năng (hay yt < 0):
Xảy ra khi tỉ lệ lạm phát thực vượt mức lạm phát mục tiêu trong khi mức sản
lượng thực dưới sản lượng tiềm năng. Đây là tình trạng lạm phát đình trệ (stagflation)
của nền kinh tế. Trong trường hợp này, quy tắc Taylor đóng vai trò trung hòa giữa hai
thành tố xảy ra theo hướng nghịch nhau là lạm phát và tăng trưởng kinh tế, đưa ra một
mức LSCS phù hợp mang tính chất chỉ dẫn.
Xét hai mô hình sau:
a1. it = π* + r* + 1,5(πt – π*) + 0,5 (yt)
a2. it = π* + r* + 0,5(πt – π*) + 0,5 (yt)
Sự khác biệt giữa hai mô hình (a1) và (a2) được xác định như sau:
- it của (a1) lệch với it của (a2) một khoảng bằng (πt – π*). Điều này cho thấy
khi tỉ lệ lạm phát thực càng lớn hơn so với lạm phát mục tiêu, sự cách biệt giữa it theo
quy tắc Taylor (a1) càng lớn so với it theo quy tắc Taylor (a2). Khi lãi suất trở nên quá
cao sẽ tác động rất mạnh đến tiêu dùng và đầu tư, tín dụng bị hạn chế, chi tiêu dùng và
chi đầu tư giảm mạnh, các doanh nghiệp lo ngại kinh doanh không có lãi nên không

phát triển kinh doanh sản xuất, hàng hóa khan hiếm, cung hàng hóa giảm sẽ tiếp tục
gây áp lực lên lạm phát. Điều đó giải thích lý do tại sao một số NHTW thận trọng khi
áp dụng nguyên lý “lãi suất cao chống lạm phát cao”.
- Khi πt = π*: không có sự khác biệt của it giữa (a1) và (a2).
- Khi πt < π*: giá trị it tính theo (a1) sẽ nhỏ hơn so với it tính theo (a2).
Ví dụ về tính toán LSCS theo quy tắc Taylor của NHTW Iceland (với các dữ
liệu từ tháng 11 năm 2000 đến tháng 3 năm 2001: π*=2,5%, r*=4%, πt = 9% và ước
lượng yt = 3%; NHTW Iceland đã áp dụng mức LSCS là 11,4%, sát với mức lãi suất
tính từ mô hình a2: 11,25% hơn mô hình a1: 17,75%) và NHTW Romania (dữ liệu từ
năm 2002-2010: độ lệch trung bình giữa LSCS của NHTW Romania và lãi suất tính
theo quy tắc Taylor từ mô hình a1: -3,46, từ a2: -1,53) cho thấy LSCS của các NHTW
này sát với mức lãi suất tính từ mô hình (a2) với cặp hệ số (βπ, βy) là (0,5; 0,5).


8
1.2 Các thành tố quyết định tính chính xác của quy tắc Taylor
1.2.1 Lãi suất thực cân bằng (r*) hay Lãi suất tự nhiên3
Lãi suất tự nhiên (LSTN) tương đương với mức lãi suất thực cân bằng đối với
nền kinh tế, là mức lãi suất tại đó CSTT là trung tính, không thắt chặt cũng như không
nới lỏng. Tổng quát hơn, LSTN được định nghĩa như là mức lãi suất phù hợp với mức
sản lượng hội tụ về mức sản lượng tiềm năng, tại đó mức sản lượng phù hợp với mức
lạm phát ổn định.
Một NHTW mong muốn giữ giá cả bền vững phải hành động nhằm giữ mức lãi
suất thực tế của ngân hàng bằng với mức LSTN. Quan điểm này gần đây trở thành một
phần quan trọng trong học thuyết kinh tế Keynes mới. Khi NHTW giữ LSCS thấp hơn
mức LSTN nhằm gia tăng sử dụng các tài nguyên, đó là sự thể hiện CSTT nới lỏng;
ngược lại nếu NHTW giữ LSCS cao hơn mức LSTN nhằm hạn chế sử dụng các tài
nguyên thể hiện CSTT thắt chặt. LSTN thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào mức độ
biến động của kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến nền kinh tế và phải được xác định trước
khi có thể quyết định CSTT nới lỏng hay thắt chặt. Trong thực tế, việc xác định mức

LSTN là khó khăn, phụ thuộc vào việc chọn lựa phương pháp ước lượng, ví dụ như
ước lượng LSTN căn cứ vào các giá trị lãi suất lịch sử hoặc trên cơ sở LSTN của các
quốc gia khác, phương pháp sử dụng mô hình kinh tế lượng dùng bộ lọc Kalman và
phương pháp tính bình quân lãi suất thực qua một thời kỳ.
1.2.2 Lạm phát mục tiêu
Lạm phát mục tiêu là ý muốn chủ quan của các nhà hoạch định kinh tế trên cơ
sở điều kiện kinh tế và các chỉ tiêu dự báo để ước lượng một mức lạm phát mong đợi
trong một giai đoạn kinh tế nhất định.
1.2.3 Độ lệch sản lƣợng
Độ lệch sản lượng được đo lường bằng sự khác biệt giữa sản lượng thực và sản
lượng tiềm năng qua công thức sau:
̅
(1.6)
̅
Trong đó: OGAP: độ lệch sản lượng; Yt: sản lượng thực tính theo giá năm gốc
năm thứ t; ̅ là sản lượng tiềm năng năm thứ t.
Sản lượng tiềm năng là số lượng hàng hóa và dịch vụ tối đa một nền kinh tế có
thể đạt được ở trạng thái hiệu quả nhất, đó là năng lực toàn dụng. Sản lượng tiềm năng
được xem như là năng lực sản xuất của một nền kinh tế. Bất kỳ phương pháp ước
lượng sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào điều kiện giả thiết của mô hình và chuỗi số
liệu. Các phụ thuộc này là chủ thể của sự không chắc chắn và sai số. Một số phương
pháp xác định sản lượng tiềm năng bao gồm phương pháp tách thành phần dữ liệu sử
dụng bộ lọc Hodrick-Prescott hoặc mô hình không gian-trạng thái của Watson hoặc
một số kỹ thuật phức tạp khác như mô hình MV (multivariate), SVAR (structural
vector auto-regression), multivariate unobserved components (UC), và phương pháp
dùng hàm sản xuất Cobb-Douglas.
Trong các điều kiện kinh tế khác không đổi, nếu OGAP dương, khi đó giá cả
bắt đầu tăng do phản ứng với áp lực cầu tăng trên thị trường, điều này thường xảy ra
trong nền kinh tế tăng trưởng nóng làm gia tăng áp lực lạm phát và NHTW có thể áp
3


Hai khái niệm này sử dụng tương đương. Trong luận án tác giả sử dụng thuật ngữ lãi suất tự nhiên


9
dụng CSTT thắt chặt để làm nguội nền kinh tế bằng cách tăng lãi suất. Ngược lại, nếu
OGAP âm, giá cả bắt đầu giảm tương ứng với việc áp lực cầu giảm, thường xảy ra
trong thời kỳ suy thoái kinh tế, NHTW có thể áp dụng CSTT mở rộng bằng cách hạ
thấp lãi suất, thúc đẩy tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi OGAP bằng
không (0), nền kinh tế ở trạng thái việc làm đầy đủ. Đây là một trong những mục tiêu
CSTT của NHTW. Sản lượng thực tăng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng không phải
lúc nào cũng gây ra lạm phát. Nếu sự tăng trưởng sản lượng thực do kết quả của sự
tăng năng suất lao động, hay nếu có sự trì trệ trước đây trong nền kinh tế, các doanh
nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu gia tăng bằng cách sử dụng tốt hơn, hiệu quả hơn các
yếu tố sản xuất (các sốc cung hàng hóa), thường không gây áp lực gia tăng tỉ lệ lạm
phát. Tuy nhiên, nếu sản lượng thực tăng do cầu tăng vượt quá mức sản lượng tiềm
năng sẽ gây tăng tỉ lệ lạm phát.
1.2.4 Một số khái niệm kinh tế vĩ mô
+ Độ lệch lãi suất được định nghĩa là sự chênh lệch giữa lãi suất thực và LSTN.
+ Độ lệch thất nghiệp là sự chênh lệch giữa tỉ lệ thất nghiệp thực tế và tỉ lệ thất
nghiệp không gia tăng lạm phát (NAIRU). NAIRU là tỉ lệ thất nghiệp tương ứng với
mức lạm phát bền vững. Sự chênh lệch của tỉ lệ thất nghiệp so với NAIRU có liên
quan đến sự chênh lệch của sản lượng thực và mức sản lượng tiềm năng. Tỉ lệ thất
nghiệp xoay quanh giá trị NAIRU. Nếu các nhà hoạch định chính sách đạt được tỉ lệ
thất nghiệp ở mức bằng với NAIRU, nền kinh tế sẽ sản xuất ra giá trị sản lượng tối đa
mà không có hạn chế về nguồn lực, hay nói cách khác đi là trong điều kiện độ lệch sản
lượng bằng 0 và không có áp lực lạm phát (lạm phát ổn định).
+ Trạng thái cân bằng lý tưởng của nền kinh tế đạt được khi các độ lệch kinh tế
vĩ mô (độ lệch sản lượng, độ lệch lạm phát, độ lệch lãi suất và độ lệch thất nghiệp)
bằng không.

1.3 Quan hệ giữa các thành tố và ý nghĩa các hệ số trong quy tắc Taylor
1.3.1 Quan hệ giữa các thành tố
Từ công thức (1.2), biến đổi về phép tính đơn giản, ta có:
(1.7)
(it – πt) là lãi suất thực của nền kinh tế tại kỳ t hay bằng rt;
(rt – r*) là độ lệch lãi suất.
Như vậy phương trình (1.7) dạng tổng quát đơn giản của quy tắc Taylor có
nghĩa diễn đạt như sau:
Độ lệch lãi suất = α(độ lệch lạm phát) + β(độ lệch sản lƣợng)
Bên cạnh đó, phương trình (1.2) có thể biểu diễn bằng cách khác:
(1.8)
Gọi i**= πt + r* là mức lãi suất cơ sở, (1.8) có thể viết lại như sau:
(1.9)
Hay: Độ lệch LSCS = α(độ lệch lạm phát) + β(độ lệch sản lƣợng)
Như vậy, độ lệch LSCS là độ khác biệt giữa LSCS ngắn hạn danh nghĩa của
NHTW với mức lãi suất cơ sở là tổng của tỉ lệ lạm phát thực tế và LSTN hay là LSTN
danh nghĩa.4
4

Từ công thức Fisher: lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỉ lệ lạm phát kỳ vọng, tác giả đưa ra khái niệm về
LSTN danh nghĩa khi thay lãi suất thực bằng lãi suất (thực) tự nhiên (natural real interest rate) trong công thức
Fisher với tên tiếng Anh là nominal natural interest rate


10
1.4 Các dạng phát triển của quy tắc Taylor và mô hình kinh tế lƣợng
1.4.1 Dạng phát triển nhìn từ quá khứ (back-looking)
Quy tắc Taylor dạng nhìn từ quá khứ có dạng tổng quát như sau:
(1.10)
Trong đó: c = r* - απ*; βπ = 1 + α; 0

Nếu n=1, p=1, ta có quy tắc Taylor dạng nhìn từ quá khứ bậc 1 (Woglom 2003):
(1.11)
Để khảo sát ảnh hưởng của nhân tố làm phẳng ρ (smoothing) biến lãi suất hoặc
tính ỳ của chính sách (policy inertia), các nhà kinh tế học đã đưa ra phương trình làm
phẳng lãi suất như sau:
it = ρit-1 + (1 – ρ)it*
(1.12)
Đưa phương trình (1.10) vào phương trình (1.12), ta có:
(1.13)
Trong trường hợp có yếu tố tỉ giá hối đoái (h), phương trình (1.13) có dạng:
(1.14)
Trong đó ht-q là giá trị (trễ) kỳ (t-q) của biến h với điều kiện 0 < q < t.
Phương trình (1.13) là dạng tổng quát của quy tắc Taylor dạng nhìn từ quá khứ
bậc (n, p) có yếu tố làm phẳng biến lãi suất. Dạng công thức này thường được sử dụng
để đánh giá CSTT qua thời gian lịch sử, từ đó đưa đến kết luận cho chính sách lãi suất
danh nghĩa ngắn hạn trong tương lai.
1.4.2 Dạng phát triển hƣớng về tƣơng lai (forward-looking)
Quy tắc Taylor dạng hướng về tương lai (không bao gồm thành tố tỉ giá hối đoái)
có dạng tổng quát như sau:
(1.15)
Trong đó: Etπt+n là mức lãi suất kỳ vọng trong giai đoạn (t, t+n) tại thời điểm t;
Etyt+p là độ lệch sản lượng trung bình kỳ vọng trong giai đoạn (t, t+p) tại thời
điểm t.
Nếu n=1 và p=1, ta có quy tắc Taylor dạng hướng về tương lai bậc 1 (Qin và
Enders 2008):
(1.16)
Khi đưa phương trình (1.12) kết hợp công thức (1.15), ta có:
(1.17)
Trong trường hợp có yếu tố tỉ giá hối đoái (h), phương trình (1.17) có dạng:
(1.18)

1.4.3 Dạng hỗn hợp (hybrid)
Dạng biến thể hỗn hợp của quy tắc Taylor được xác định theo Barnett và Duzhak
(2008) (không bao gồm thành tố tỉ giá hối đoái) như sau:
it = Aπt+n + Byt-p
(1.19)
Trong đó:
A là vector (a1, a2, …,an) tương ứng với thời kỳ (t+1, t+2, …, t+n);
B là vector (b1, b2, …, bp) tương ứng với thời kỳ (t-1, t-2, …, t-p);
0 < p < t.
Vector A đại diện hệ số phản ứng của NHTW đối với mức lạm phát kỳ vọng và
vector B đối với độ lệch sản lượng quá khứ (độ trễ).


11
1.4.4 Dạng kết hợp với các mô hình khác
1.4.4.1 Mô hình kết hợp giữa cơ số tiền, lạm phát và mức tăng sản lƣợng
Danfeng (2008) đề cập đến mô hình dạng này như sau:
(
)
(1.20)
Trong đó, [Δm = ln(mt) – ln(mt-1)] là tỉ lệ tăng của cơ số tiền cơ sở;
là tốc
độ vòng quay tiền cơ sở bình quân trong 16 quý (theo McCallum); Δx* là tỉ lệ tăng
GDP danh nghĩa mục tiêu, được tính bằng tổng của tỉ lệ lạm phát mục tiêu và tỉ lệ tăng
bình quân của GDP thực dài hạn; (Δx* - Δxt-1) là độ lệch mức tăng sản lượng GDP
danh nghĩa; λ là hệ số của độ lệch (Δx* - Δxt-1).
1.4.4.2 Mô hình kết hợp giữa cơ số tiền, độ lệch lạm phát, độ lệch sản lƣợng và
độ lệch tỉ giá hối đoái
Mehrotra and Sánchez-Fung (2010) đưa ra dạng mô hình kết hợp như sau:
(1.21)

Trong đó: (π - π*): độ lệch lạm phát giữa tỉ lệ lạm phát thực tế và mức lạm phát
mục tiêu; (y - y*): độ lệch sản lượng giữa sản lượng (GDP) thực tế so với sản lượng
tiềm năng; (e - e*): độ lệch tỉ giá hối đoái đo lường sự cách biệt giữa tỉ giá hối đoái
theo trọng số thương mại và xu hướng của nó.
1.5 Vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW
1.5.1 Các mục tiêu và công cụ chính sách của ngân hàng trung ƣơng
NHTW thực hiện các mục tiêu CSTT trên cơ sở các công cụ của mình thông
qua các chỉ tiêu hoạt động và chỉ tiêu trung gian theo Bảng 1.1.
Bảng 1.1: Các công cụ, chỉ tiêu và mục tiêu chính sách tiền tệ của NHTW
Các công cụ
Chỉ tiêu hoạt
Chỉ tiêu trung
Mục tiêu chính
của NHTW
động (policy
gian
sách tiền tệ
instruments)
-Nghiệp vụ thị
-Tổng lượng dự trữ
-Tổng lượng
-Ổn định giá cả
trường mở
(dự trữ, dự trữ
tiền tệ (M1,
-Việc làm cao
-Chính sách
không vay, cơ số
M2)
-Tăng trưởng

chiết khấu
tiền tệ, cơ số không
-Lãi suất (ngắn
kinh tế
-Dự trữ bắt
vay
hạn và dài hạn)
-Ổn định thị
buộc
-Lãi suất ngắn hạn
trường tài chính
ví dụ như FFR
-Ổn định lãi suất
(federal funds rate)
-Ổn định thị
trường ngoại hối
Nguồn: Mishkin (2010)
1.5.2 Chính sách lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ƣơng
“Cơ chế quản lý (điều hành) là việc sử dụng các công cụ để điều tiết các hoạt
động kinh tế theo hướng kích hoạt hướng dẫn hoặc hạn chế các hoạt động kém hiệu
quả hoặc không có lợi cho quốc kế dân sinh”, và “chính sách được hiện thực hóa bằng
việc sử dụng các công cụ điều hành (cơ chế quản lý)” (Nguyễn Thanh Tuyền và
Nguyễn Lê Anh 2015). Do vậy, cơ chế điều hành lãi suất của NHTW có thể được hiểu
là cách thức sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết các hoạt động kinh tế nhằm đạt được


12
các mục tiêu của CSTT, và chính sách lãi suất được thực thi thông qua cơ chế điều
hành lãi suất.
NHTW ở mỗi quốc gia tùy thuộc vào tình hình và đặc điểm nền kinh tế có

những loại lãi suất khác nhau và cách thức điều hành khác nhau ví dụ như LSCB,
LSTCK, LSTCV, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất chính thức, v.v.
Xét về phương diện đối tượng tác động, theo tác giả, cơ chế điều hành lãi suất
được phân loại như sau:
- Cơ chế điều hành trực tiếp: NHTW sử dụng công cụ lãi suất tác động trực tiếp
đến các hoạt động đầu tư, tiết kiệm, chi tiêu của các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền
kinh tế, ví dụ cơ chế điều hành LSCB của NHNN. Cơ chế điều hành lãi suất dạng này
mang tính mệnh lệnh hành chính.
- Cơ chế điều hành gián tiếp: NHTW sử dụng công cụ lãi suất tác động đến các
TCTD, ngân hàng thương mại (NHTM), các tổ chức trung gian tài chính thông qua thị
trường tài chính qua đó điều tiết quan hệ cung-cầu vốn trong nền kinh tế, ví dụ như cơ
chế điều hành lãi suất điều hòa vốn dự trữ (FFR) của Fed, cơ chế điều hành LSCB
chính thức của NHTW Anh. Cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp mang tính thị trường,
định hướng.
Thông qua cơ chế truyền dẫn CSTT, sự thay đổi LSCS của NHTW được dẫn
truyền qua các kênh truyền dẫn tác động đến tổng cầu, cuối cùng là ảnh hưởng đến
mức lạm phát.
1.5.3 Cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ
Cơ chế truyền dẫn CSTT với công cụ CSTT là lãi suất ngắn hạn bắt đầu từ sự
thay đổi về LSCS ngắn hạn tác động đến thị trường tài chính với sự thay đổi của lãi
suất thị trường và giá cả tài sản, dẫn truyền tác động từ thị trường tài chính đến thay
đổi hành vi tiêu dùng của cá nhân và doanh nghiệp làm thay đổi GDP và mức lạm
phát. Như vậy, việc thay đổi cách thức điều hành lãi suất của NHTW sẽ tác động đến
các hoạt động của nền kinh tế thông qua cơ chế truyền dẫn CSTT. Quy tắc Taylor mô
tả cách thức tính toán mức LSCS dựa trên sự thay đổi của độ lệch lạm phát và độ lệch
sản lượng tùy thuộc vào điều kiện kinh tế vĩ mô của từng quốc gia trong từng thời kỳ,
do đó việc vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW có vai trò
quan trọng nhất định trong hoạch định và điều hành CSTT.
1.5.4 Vai trò của quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW
Thứ nhất, quy tắc Taylor mang tính định hướng về LSCS, làm cơ sở để các

NHTW quyết định mức lãi suất phù hợp với từng thời kỳ kinh tế.
Thứ hai, quy tắc Taylor cung cấp độ tin cậy đủ để các NHTW ra các quyết định
về chính sách lãi suất hay bao quát hơn là CSTT. Điều này chứng minh qua các nghiên
cứu và ứng dụng quy tắc Taylor trên toàn thế giới5.
Thứ ba, LSCS đang dần trở thành công cụ thực thi CSTT, do đó vai trò của quy
tắc Taylor trong việc hoạch định và đánh giá sự phù hợp của chính sách lãi suất hay
rộng hơn là CSTT ngày càng trở nên quan trọng. Công cụ kiểm soát qua khối lượng
tiền lưu thông ngày nay càng trở nên ít tác dụng so với mục tiêu kiểm soát lãi suất.

5

Tham khảo phần 1.4


13
1.5.5 Quy tắc Taylor trong nền kinh tế mở
Trong một nền kinh tế mở, vai trò của tỉ giá hối đoái được xem là quan trọng do
sự trao đổi thương mại của các quốc gia tác động đến CSTT. Thông qua cơ chế truyền
dẫn CSTT, tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát. Do vậy một số nhà kinh tế
học đã đưa yếu tố tỷ giá hối đoái vào quy tắc Taylor để xem xét tác động của nó đến
việc thay đổi LSCS như mô hình của Ball (1999), Batini và Millard (2001), Woglom
(2003), Qin và Enders (2008), Barnett và Duzhak (2008) hay của Mehrotra và
Sánchez-Fung (2010). Tuy nhiên, Giáo sư Taylor (2007) cho rằng quyết định CSTT
tối ưu nên phản ứng chủ yếu với tỉ lệ lạm phát và GDP thực mà không phản ứng trực
tiếp với tỉ giá hối đoái. Hay nói cách khác, để tối thiểu hóa hàm mục tiêu, quy tắc
chính sách của NHTW bao gồm tỉ lệ lạm phát thực (so với mức lạm phát mục tiêu) và
GDP thực (so với GDP tiềm năng) mà không bao gồm sự thay đổi trong tỉ giá hối đoái.
Nhiều nghiên cứu về các mô hình của nền kinh tế mở, quy mô nhỏ như quy tắc Ball
(1999) chỉ ra CSTT phản ứng với tỷ giá hối đoái có thể cải thiện thành quả kinh tế
nhưng kết quả đạt được nhỏ. Các nghiên cứu bởi Batini, Levine, và Pearlman năm

2007 cho thấy CSTT không phản ứng với tỉ giá hối đoái là gần như tối ưu. Tương tự,
Coenen, Lombardo, Smets, và Straub năm 2007 nghiên cứu về lợi ích của việc liên kết
CSTT giữa các quốc gia và thấy rằng lợi ích đạt được là nhỏ. Vai trò không đáng kể
của tỷ giá hối đoái trong quy tắc Taylor được giải thích như sau:
i. Tỷ giá hối đoái biến động hơn GDP thực và tỉ lệ lạm phát. Do vậy, phản ứng
theo tỷ giá hối đoái có thể làm cho lãi suất dao động nhiều hơn, từ đó có thể gây tác
hại cho nền kinh tế.
ii. Phản ứng với tỉ lệ lạm phát tự động đưa đến phản ứng đối với tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái giảm đến một mức nào đó sẽ truyền dẫn đến lạm phát. Do vậy, tăng lãi
suất khi tỉ lệ lạm phát tăng là một phần của phản ứng đến việc tỷ giá hối đoái giảm.
1.6 Vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của một số ngân hàng
trung ƣơng trên thế giới
1.6.1 Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed)
Mục tiêu CSTT của Fed bao gồm ba mục tiêu chính là ổn định giá cả, mức lãi
suất dài hạn vừa phải, và tối đa việc làm. Công cụ CSTT của Fed hiện nay là lãi suất
của các khoản vay qua đêm trên thị trường vốn dự trữ (FFR).
Sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của Fed
Việc trao đổi và vận dụng quy tắc Taylor tại các cuộc họp của Ủy ban Thị trường
mở Liên bang Mỹ (FOMC) tập trung ở các nội dung: (i) Quy tắc Taylor là sự hướng
dẫn cho chính sách tiền tệ; (ii) Quy tắc Taylor là khung để phân tích các vấn đề. Thông
qua phân tích việc vận dụng quy tắc Taylor của Fed, một số vấn đề chính có thể được
rút ra như sau:
+ Quy tắc Taylor được xem là công cụ hướng dẫn đối với việc quyết định CSTT
và được các nhà lãnh đạo Fed tin tưởng như Janet Jellen, Lawence Meyer, Edward
Gramlich, Robert Parry.
+ Các vấn đề đặt ra khi vận dụng quy tắc Taylor: chọn chỉ tiêu đo lường tỉ lệ lạm
phát: chỉ số giảm phát GDP hay CPI; sự chính xác trong đo lường sản lượng tiềm năng
và LSTN do hai đại lượng này không quan sát được và thay đổi theo thời gian.
+ Chọn lựa mô hình quy tắc Taylor: mô hình khác nhau sẽ dẫn đến kết quả khác
nhau; dạng hướng về quá khứ cho kết quả tính toán gần sát với LSCS thực tế của Fed

thời kỳ năm 2003 – 2004; sử dụng độ trễ với các thành tố bên phải quy tắc Taylor cho


14
kết quả hồi qui có ý nghĩa thống kê cao và gia tăng khả năng giải thích của quy tắc
Taylor; quá trình điều chỉnh LSCS bằng các bước nhỏ nên sử dụng mô hình làm phẳng
lãi suất.
+ Trường hợp giới hạn lãi suất bằng 0: khi lãi suất bằng 0, công cụ lãi suất hầu
như không có tác dụng nên các nhà hoạch định CSTT sử dụng các công cụ khác để
kích thích tăng trưởng kinh tế như tăng cơ số tiền, tăng tỉ lệ tín dụng, v.v.
1.6.2 Ngân hàng Trung ƣơng Anh
Một trong bốn mục tiêu CSTT của NHTW Anh là lãi suất thị trường qua đêm
phải phù hợp với mức LSCB chính thức của NHTW (official Bank rate). NHTW Anh
hoạt động dưới chế độ CSTT lạm phát mục tiêu chính thức kể từ tháng 10 năm 1992.
Theo đó, NHTW Anh hoạt động theo quy tắc lạm phát mục tiêu hơn là qui tắc công cụ
chính sách giống như quy tắc Taylor. Công cụ CSTT của NHTW Anh là LSCB chính
thức của NHTW trả trên dự trữ của NHTM kể từ ngày 18 tháng 5 năm 2006 cho đến
hiện nay6. Khuôn khổ CSTT của NHTW Anh là sự cam kết tỉ lệ lạm phát thấp được
duy trì ở mức 2,5%/năm.
Sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW Anh
NHTW Anh không sử dụng quy tắc công cụ chính sách để hoạch định chính
sách. Các thành viên NHTW và Ủy ban CSTT (MPC) xem xét cách thức tính toán
công cụ chính sách của một số mô hình làm cơ sở so sánh với với LSCS hiện hành.
Các quy tắc đó là quy tắc Taylor, quy tắc McCallum và quy tắc Brainard. Thông qua
việc phân tích sự vận dụng quy tắc Taylor của NHTW Anh, một số vấn đề chính được
rút ra như sau:
+ Quy tắc Taylor là một trong ba quy tắc được sử dụng để tính toán LSCS theo lý
thuyết so sánh với LSCS thực tế.
+ Dạng quy tắc Taylor sử dụng có hệ số cố định: hệ số lạm phát bằng 1,5 và hệ
số độ lệch sản lượng là 0,5.

+ Sử dụng độ trễ bằng 1 với các biến số lạm phát và sản lượng. Trong trường hợp
này kết quả tính toán cho thấy hệ số sản lượng dao động trong khoảng (0,25, 0,75).
1.6.3 Ngân hàng Trung ƣơng Châu Âu (ECB)
Mục tiêu cơ bản của CSTT của ECB là duy trì sự ổn định giá cả, tỉ lệ lạm phát
thấp hơn nhưng gần ở mức 2% trong thời kỳ trung hạn ( />ECB: Monetary Policy ).
Công cụ CSTT của ECB bao gồm các loại lãi suất chủ yếu:
- Lãi suất trên nghiệp vụ tài trợ chính (MRO – main refinancing operations) để
cung cấp tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng.
- Lãi suất tiền gửi mà các ngân hàng có thể sử dụng để tạo các khoản tiền ký
gửi qua đêm với cơ quan quản lý tiền tệ khu vực đồng Euro (Eurosystem).
- Lãi suất tiền vay biên tế đối với các khoản cho vay qua đêm đối với các ngân
hàng từ cơ quan quản lý tiền tệ khu vực đồng Euro.
Sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW Châu Âu
Thông qua các dự án tính toán trong phần phân tích kinh tế từ các nhân viên của
ECB, quy tắc Taylor cũng có khả năng được xem xét dưới việc thực hiện các dự án
kinh tế vĩ mô. ECB đã sử dụng mô hình theo vùng (AWM – Area-wide model) để
đánh giá các điều kiện kinh tế, dự báo và phân tích chính sách. Trong đó lãi suất ngắn
6

/>

15
hạn danh nghĩa được tính toán theo dạng của công thức tính lãi suất đơn giản có dạng
log-linear về cơ bản dựa trên độ lệch lạm phát và độ lệch sản lượng. Lãi suất ngắn hạn
được quyết định bởi một quy tắc Taylor chuẩn tắc (Asso, Kahn và Leeson 2010).
Lee và Crowley (2010) đã đánh giá CSTT của ECB đối chiếu với quy tắc Taylor
qua dữ liệu của 12 nước thành viên ECB trong giai đoạn từ năm 1999 – 2009 với
LSCS (it) là Euribor 3 tháng là loại LSCS đối với tất cả các nước thành viên ECB sau
khi họ trao trách nhiệm hoạch định CSTT cho ECB vào năm 1999. Sử dụng ba mô
hình tính toán LSCS là quy tắc Taylor gốc với các hệ số mặc định, quy tắc Taylor tối

ưu biến thể từ quy tắc Taylor gốc với các hệ số tối ưu rút ra từ quy tắc Taylor gốc gần
với mô hình và quy tắc chính sách tối ưu với sự cân chỉnh trên cơ sở mô hình New
Keynesian sử dụng thuật toán kinh tế lượng dưới dạng không gian – trạng thái, với giả
định π* là 2%.
Một số vấn đề chính được rút ra qua phân tích sự vận dụng quy tắc Taylor tại
ECB:
+ ECB đã đưa ra sáu điểm lo ngại về việc áp dụng quy tắc Taylor, trong đó có
quan điểm cho rằng CSTT không chỉ bao gồm hai yếu tố duy nhất là tỉ lệ lạm phát và
độ lệch sản lượng mà còn phải quan tâm đến các dữ liệu kinh tế vĩ mô khác như tỉ lệ
tăng trưởng tiền, tín dụng, giá cả tài sản tài chính, giá cả hàng hóa và tiền lương. CSTT
phản ứng với các cú sốc cung và cầu khác nhau.
+ Giống như Fed, NHTW Châu Âu lo ngại về độ chính xác trong việc đo lường
sản lượng tiềm năng và LSTN do hai biến này không thể quan sát được.
+ ECB vẫn nhìn nhận quy tắc Taylor đã và đang trở nên một công cụ để so sánh
CSTT giữa lý thuyết và thực tiễn trong nhiều mặt khác nhau và trong công tác dự báo
các sốc của nền kinh tế cùng với các mô hình kinh tế vĩ mô khác.
+ Nghiên cứu của Lee và Crowley (2010) chỉ ra CSTT gần như tương thích với
đề xuất từ quy tắc Taylor gốc đối với các quốc gia có tỉ lệ lạm phát thấp như Pháp,
Đức. Đối với các quốc gia có tỉ lệ lạm phát cao như Hy Lạp và Ireland, nghiên cứu chỉ
ra CSTT thực tế là quá nới lỏng so với đề xuất từ quy tắc Taylor gốc. Lee và Crowley
đã sử dụng lý thuyết mô hình cân bằng tổng thể ngẫu nhiên (DSGE) vào quy tắc
Taylor dạng New Keynesian để xác định hệ số của quy tắc Taylor sao cho hàm phúc
lợi tổn thất có giá trị nhỏ nhất. Khi đó hình thành quy tắc Taylor tối ưu.
1.6.4 Ngân hàng Trung ƣơng Nhật Bản
Mục tiêu CSTT của NHTW Nhật Bản (BoJ) là đạt được sự ổn định giá cả và
qua đó đóng góp đến sự phát triển vững mạnh của nền kinh tế. Vào tháng 1 năm 2013
BoJ đã thiết lập mục tiêu ổn định giá cả là 2% so với cùng kỳ năm trước tính theo chỉ
số giá tiêu dùng CPI. Công cụ CSTT của BoJ là cơ số tiền tệ. LSCS của BoJ là lãi suất
cho vay qua đêm giữa các ngân hàng (overnight call rate).
Sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW Nhật Bản (BoJ)

Vào đầu và giữa thập niên 1990, trong khi Fed và các NHTW khác đưa quy tắc
Taylor vào quá trình hoạch định CSTT thì BoJ lại hướng về chính sách lãi suất bằng
không (0). Nới lỏng định lượng chỉ bắt đầu được thực hiện từ tháng 3 năm 2001.
Trong khoảng thời gian từ năm 1999 – 2001, quy tắc Taylor đã được sử dụng để chứng
minh cho cả hai lý do nên tiếp tục hay chấm dứt chính sách lãi suất bằng không (0) của
BoJ. Quy tắc Taylor cũng được dùng để đánh giá CSTT trong thập niên 1980 và 1990
của Nhật Bản. Có rất nhiều nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà kinh tế trong và


16
ngoài nước Nhật. Họ phát hiện bằng chứng rằng khi so sánh với quy tắc Taylor, CSTT
có phần quá chặt ở Nhật kể từ năm 1993 (Asso, Kahn và Leeson 2010).
Việc nghiên cứu quan điểm của NHTW Nhật Bản đối với quy tắc Taylor có ích
trong việc nghiên cứu lãi suất tiến gần tới giới hạn không, điểm mà quy tắc Taylor gần
như mất ý nghĩa áp dụng thực tế do lãi suất không còn phát huy tác dụng. Tuy nhiên,
quy tắc Taylor vẫn được sử dụng để kiểm tra làm rõ quyết định nên thực thi chính sách
lãi suất bằng không (0) hay không.
1.6.5 Ngân hàng Trung ƣơng Úc (RBA)
Mục tiêu CSTT của NHTW Úc (theo Luật NHTW Úc năm 1959) bao gồm: ổn
định đồng nội tệ Úc; duy trì việc làm đầy đủ tại Úc; và sự thịnh vượng của nền kinh tế
và phúc lợi của người dân Úc. Kể từ đầu thập niên 1990, các mục tiêu này đã được
diễn tả bằng mục tiêu tỉ lệ lạm phát giá tiêu dùng khoảng 2-3%/năm, bình quân theo
chu kỳ kinh tế trung hạn. Công cụ CSTT của RBA là mức lãi suất cho vay qua đêm
giữa các tổ chức trung gian tài chính trên thị trường tiền tệ (cash rate). RBA thực thi
việc kiểm soát chặt chẽ lãi suất cho vay qua đêm thông qua các hoạt động thị trường
tài chính. Lãi suất cho vay qua đêm tạo nên cơ sở để xây dựng cấu trúc của các loại lãi
suất trong nền kinh tế. Sự thay đổi của CSTT có nghĩa là sự thay đổi của mục tiêu hoạt
động đối với lãi suất cho vay qua đêm và từ đó sự thay đổi về cấu trúc lãi suất lan tỏa
khắp hệ thống tài chính7. Lãi suất cho vay qua đêm được quyết định trên thị trường
tiền tệ hình thành từ sự tương tác giữa cung và cầu khối lượng tiền qua đêm. RBA sử

dụng nghiệp vụ thị trường mở để duy trì mức lãi suất cho vay qua đêm gần với mục
tiêu thiết lập bởi Hội đồng RBA.
Sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW Úc
Stevens (2001) đã phát biểu về quá trình ra quyết định CSTT tại RBA, trong đó
đề cập đến sự quan tâm về vị thế của chính sách có thể được bổ trợ bởi hai nguồn phân
tích. Một là kết quả tính toán từ công thức dạng quy tắc Taylor, hai là việc sử dụng
một mô hình kinh tế lượng vĩ mô của nền kinh tế được phát triển bởi Phòng Nghiên
cứu Kinh tế.
De Brouwer và O’Regan (1997) đánh giá các qui luật CSTT giản đơn đối với nền
kinh tế Úc đã kiểm định 7 mô hình tính lãi suất ngắn hạn đơn giản để xác định xem mô
hình nào hoạt động tốt nhất với lãi suất kiểm định là lãi suất cho vay qua đêm danh
nghĩa, dữ liệu kinh tế vĩ mô của Úc trong giai đoạn năm 1980 – 1996 với các biến theo
quý có độ trễ là 1. Giả thiết trong kiểm định mô hình của de Brouwer và O’Regan
(1997) là mục tiêu lạm phát bằng 2½%/năm, mức tăng giá mục tiêu là 2½%/năm, sản
lượng tiềm năng tăng bình quân khoảng 3%/năm trong vòng 15 năm, mục tiêu tỉ lệ
tăng thu nhập danh nghĩa là 5½%/năm. Phương pháp kiểm định sử dụng là phân tích
mô phỏng đối với từng mô hình với các giá trị hệ số khác nhau trong hàm phản ứng.
Sử dụng phương pháp mô phỏng với các hệ số cố định nằm trong dãy (0, 2), bước
nhảy là 0,1, qua đó tính toán độ lệch chuẩn của độ lệch lạm phát và độ lệch sản lượng,
từ đó xây dựng đường biên đồ thị của các độ lệch chuẩn để so sánh hiệu quả của các
mô hình.
Một số vấn đề chính được rút ra qua phân tích sự vận dụng quy tắc Taylor tại
RBA và từ kết quả kiểm định bảy mô hình:
- Quy tắc Taylor giản đơn có kết quả tốt nhất so với các quy tắc còn lại.
7

www.rba.gov.au/monetary-policy/about.html


17

- Quy tắc Taylor thích nghi với sự tăng trưởng nhanh trong thời kỳ đầu bởi vì
vấn đề quan trọng không phải là tăng trưởng nhanh hay chậm mà ở chỗ năng lực còn
thừa của nền kinh tế.
- Lạm phát được quyết định phần lớn do nhu cầu vượt quá, trực tiếp hay gián
tiếp thông qua tiền lương, do đó nhu cầu hiện tại là yếu tố quan trọng để dự báo về lạm
phát tương lai.
- Giống như Fed và ECB, RBA lo ngại về độ chính xác của việc đo lường
LSTN và sản lượng tiềm năng và hai đại lượng này thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên
qua kiểm định cho thấy ngay cả trong trường hợp NHTW áp dụng quy tắc Taylor một
cách máy móc khi xác định LSCS theo tính toán cao hơn thực tế, nếu NHTW phản
ứng mạnh với lạm phát, kết cuộc lạm phát sẽ tiến gần hơn đến mức lạm phát mục tiêu.
- Việc vận dụng quy tắc Taylor là một quá trình rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn
trên cơ sở nghiên cứu cấu trúc thực sự của nền kinh tế.
1.7 Điều kiện vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của ngân
hàng trung ƣơng
Một là, ổn định lạm phát, và tăng trưởng kinh tế bền vững (hoặc tối đa việc
làm) là các mục tiêu chính, cơ bản của CSTT của NHTW được thực hiện chủ yếu bằng
công cụ của CSTT là loại lãi suất ngắn hạn hay LSCS. Theo Asso, Kahn, và Leeson
(2010), quy tắc Taylor có thể áp dụng trong chế độ tiền tệ thực hiện mục tiêu kép là ổn
định giá cả và tăng trưởng kinh tế hoặc trong chế độ tiền tệ qui định lạm phát là mục
tiêu chính yếu như ở các quốc gia áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu.
Hai là, phân tích chính sách lãi suất của NHTW trong lịch sử bằng quy tắc
Taylor với các kết quả thực nghiệm cho thấy sự hợp lý và/hoặc bất hợp lý của chính
sách lãi suất của NHTW có thể giải thích bằng quy tắc Taylor. Giá trị hàm tổn thất của
NHTW được tính toán theo mô hình kinh tế vĩ mô đặc thù nhỏ đi khi NHTW vận dụng
quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của mình so với khi không áp dụng quy tắc
Taylor. Bằng chứng thực nghiệm là kết quả nghiên cứu khoa học minh chứng hiệu quả
của việc vận dụng quy tắc Taylor của NHTW trong cơ chế điều hành lãi suất.
Ba là, NHTW có sự độc lập về thực thi CSTT. Một NHTW độc lập về thực thi
CSTT có thể cam kết đáng tin cậy hơn trong việc thực hiện mục tiêu giá cả bền vững

và tối đa hóa việc làm8. Điều kiện này giúp NHTW chủ động trong việc điều hành
công cụ lãi suất và các công cụ CSTT khác nhằm đảm bảo tính hiệu quả của việc vận
dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất góp phần thực hiện tốt các mục
tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định lạm phát và tăng trưởng kinh tế bền vững.
Bốn là, sự minh bạch về CSTT. Mức độ công bố thông tin về CSTT ảnh hưởng
đến kỳ vọng lạm phát của công chúng và các tổ chức kinh tế thông qua sự hiểu biết về
cách thức điều hành CSTT của NHTW. Sự minh bạch về CSTT giúp công chúng hiểu
rõ hơn về mức độ cam kết của NHTW trong việc thực hiện các mục tiêu CSTT và cách
thức điều hành công cụ CSTT.
Điều kiện (1) và (2) là điều kiện cần thiết để có thể vận dụng quy tắc Taylor
trong hoạch định chính sách lãi suất; điều kiện (3) và (4) giúp nâng cao hiệu quả của
việc vận dụng quy tắc Taylor trong quá trình điều hành lãi suất. Ngoài bốn điều kiện
trên, đối với các nền kinh tế mở có qui mô nhỏ, các yếu tố về khung pháp lý của
CSTT, dạng quy tắc Taylor sử dụng (hướng về tương lai hay nhìn về quá khứ), việc
chọn lựa quy tắc chính sách (công cụ - instrument rules hay mục tiêu – targeting rules)
8

/>

18
trong quá trình ra quyết định về CSTT và công bố thông tin của NHTW cũng nên được
xem xét trong việc vận dụng quy tắc Taylor của các NHTW (Asso, Kahn, và Leeson
2010).
1.8 Các thuận lợi và khó khăn khi vận dụng quy tắc Taylor tại Việt Nam
1.8.1 Thuận lợi
+ Chương trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam do Quốc hội và Chính phủ
đề ra về dài hạn và ngắn hạn đều đưa ra mục tiêu tỉ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế
rõ ràng, cụ thể. Đây là định hướng chiến lượng kinh tế quốc gia ngắn hạn và dài hạn ở
VN thuận lợi cho việc vận dụng quy tắc Taylor để hoạch định CSTT vì hai mục tiêu
trên là biến số chính trong quy tắc Taylor để NHNN có thể sử dụng công cụ lãi suất

hợp lý nhằm ổn định lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế.
+ NHNN là NHTW được Luật NHNN năm 2010 cho phép có thể sử dụng các
công cụ CSTT một cách chủ động và phù hợp để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội do
Quốc hội và Chính phủ đề ra trong ngắn hạn và dài hạn.
+ Trên thế giới hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về quy tắc Taylor và
các mô hình kinh tế từ đơn giản đến phức tạp để phân tích và dự báo tình trạng kinh tế
trong ngắn hạn và dài hạn. Việt Nam có thể học tập và vận dụng phù hợp trong điều
kiện kinh tế vĩ mô của mình.
1.8.2 Khó khăn
+ Dữ liệu kinh tế vĩ mô ở Việt Nam về GDP, CPI, tỉ lệ thất nghiệp, FDI, tỉ lệ nợ
xấu…còn tồn tại vấn đề về sự thống nhất và chính xác, có sự khác biệt giữa công bố số
liệu trong nước so với công bố của các tổ chức quốc tế. Hậu quả của số liệu công bố
không phản ánh đúng thực trạng kinh tế sẽ dẫn đến kết quả nghiên cứu có thể bị sai
lệch, dẫn đến việc hoạch định chính sách không đúng hướng và do đó giảm tính hiệu
quả của việc ứng dụng chính sách.
+ Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN chưa cố định. NHNN đã công bố LSCB
là LSCS từ năm 2008. Tuy nhiên từ tháng 12 năm 2010 đến nay, NHNN không công
bố LSCB định kỳ nữa, thay vào đó là TLS và TLSCV, bên cạnh LSTCK và LSTCV.
+ Chế độ tiền tệ của Việt Nam chưa được công bố rõ ràng, khung CSTT chưa
được thể hiện rõ nét. NHNN áp dụng CSTT đa mục tiêu, linh hoạt trong việc điều
hành CSTT. Tuy nhiên quá nhiều mục tiêu có khả năng dẫn đến xung đột giữa các
mục tiêu ví dụ như mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, lãi suất giảm trong khi vẫn đảm
bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát, các yêu cầu và cân đối giữa các mục tiêu trở nên
nhạy cảm, lệch hoặc quá ở một mục tiêu, cân đối nào đều có thể dẫn đến xung đột cân
đối, mục tiêu khác.
1.8.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
+ NHTW các nước có khung pháp lý CSTT rõ ràng, xác định một loại lãi suất
làm LSCS, trên cơ sở đó hoạch định và điều hành CSTT, đảm bảo đạt được mục tiêu
CSTT, chủ yếu hai mục tiêu cơ bản là ổn định lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế.
+ NHTW các nước đã và đang vận dụng quy tắc Taylor như là công cụ hướng

dẫn thông qua sự kết hợp với các mô hình kinh tế khác để hoạch định CSTT (Fed,
BoE, RBA), quyết định sử dụng các công cụ kích thích tăng trưởng kinh tế khác khi lãi
suất tiến về mức không (BoJ), và đánh giá sự hợp lý của CSTT. Mặc dù còn một số
vấn đề tồn tại trong bản thân quy tắc Taylor, tuy nhiên, chi phí cho việc thắt chặt
CSTT trong khi việc không thắt chặt CSTT là hợp lý nhỏ hơn chi phí việc không thắt


19
chặt CSTT trong khi việc thắt chặt mới là hợp lý (Fed) cho thấy việc sử dụng quy tắc
Taylor để kiềm chế lạm phát là phù hợp. Suy cho cùng nếu NHTW phản ứng mạnh với
lạm phát, kết cục lạm phát sẽ tiến gần đến mức lạm phát mục tiêu (RBA).
+ Sự thống nhất về cơ sở dữ liệu kinh tế vĩ mô và phương pháp tính các biến
trong quy tắc Taylor, bảo đảm tính xuyên suốt của kết quả tính toán. Do LSTN và sản
lượng tiềm năng là hai đại lượng không thể quan sát và chỉ có thể ước lượng nên độ
chính xác mang tính chất tương đối. Sự thống nhất phương pháp ước lượng đảm bảo
các kết quả có thể so sánh được giữa các thời kỳ và sử dụng để dự báo cho tương lai.
Việc vận dụng quy tắc Taylor là một quá trình kinh nghiệm và đúc kết từ thực tiễn dựa
trên cấu trúc đặc thù của nền kinh tế (RBA).
+ Về quy tắc Taylor, mô hình được sử dụng ở dạng làm phẳng lãi suất và nhìn về
quá khứ (Fed), độ trễ của biến độc lập phổ biến là 1 (Fed, BoE, RBA). Mô hình New
Keynesian kết hợp quy tắc Taylor được sử dụng để tính toán hệ số lạm phát và hệ số
độ lệch sản lượng của quy tắc CSTT tối ưu với giá trị hàm tổn thất nhỏ nhất (ECB).
Phản ứng với sốc cung, hệ số độ lệch lạm phát có thể bằng hệ số độ lệch sản lượng;
với sốc cầu, hệ số độ lệch lạm phát nhỏ hơn hệ số độ lệch sản lượng (Fed).
+ Xem xét sự thay đổi của LSTN và tỉ lệ lạm phát mục tiêu trong trung và dài
hạn khi có sự thay đổi cấu trúc của nền kinh tế và/hoặc sự thay đổi của chu kỳ kinh tế
(Fed, ECB, RBA). NHTW các nước có xu hướng xây dựng tỉ lệ lạm phát mục tiêu ở
mức thấp từ 2%-3%/năm.
+ NHTW các nước họp định kỳ xem xét việc thay đổi CSTT và công bố thông
tin ngay sau khi ra quyết định về CSTT, góp phần minh bạch hóa chủ trương, đường

lối của NHTW, tăng niềm tin của công chúng vào cam kết thực hiện mục tiêu CSTT
của NHTW.
Kết luận chƣơng 1:
Chương 1 của luận án đã khái quát hóa những nét chung nhất và cơ bản nhất
của quy tắc Taylor cùng với vai trò, ý nghĩa của các thành tố của quy tắc gắn liền với
các quyết sách về CSTT trong quá trình hoạch định và ứng phó với các thay đổi của
nền kinh tế. Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh cũng trình bày nội dung cơ chế điều hành
lãi suất của NHTW, kinh nghiệm vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất
của một số NHTW trên thế giới, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi vận dụng quy
tắc Taylor cùng với các khó khăn và thuận lợi. Lý luận ở chương 1 là nền tảng cơ bản
để tiến hành công tác phân tích thực trạng chính sách lãi suất ở Việt Nam qua lăng
kính quy tắc Taylor với phương pháp và kỹ thuật phân tích được trình bày chi tiết ở
chương 2 của luận án, đồng thời là cơ sở đề xuất các giải pháp cơ bản để vận dụng quy
tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN.
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM BẰNG QUY TẮC
TAYLOR
2.1 Phƣơng pháp tính toán thông thƣờng
2.1.1 Quy tắc Taylor sử dụng trong phƣơng pháp tính toán thông thƣờng
Phương pháp tính toán thông thường dựa trên công thức (1.5) của Billi (2011),
một dạng biến thể của quy tắc Taylor (1993) có dạng it = π* + r* + βπ(πt – π*) + βy(gt –
g*) để tính toán mức LSCS và so sánh với các loại lãi suất của NHNN để kết luận về
sự phù hợp giữa quy tắc Taylor và chính sách lãi suất thực tế ở Việt Nam.


20
2.1.2 Phƣơng pháp phân tích chính sách lãi suất bằng quy tắc Taylor (1993) theo
tính toán thông thƣờng
+ Bước một: Thiết lập một số giả thiết điều kiện để áp dụng quy tắc Taylor.
+ Bước hai: Sử dụng công thức (1.5) để tính toán giá trị LSCS được đề xuất bởi

quy tắc Taylor (itTAYLOR) theo năm trong giai đoạn năm 2000-2014. Các hệ số βπ và βy
nhận các giá trị là bội số của 0,5 trong dãy giá trị từ 0,5 đến 1,5, cụ thể là 0,5, 1 và 1,5.
Tỉ lệ lạm phát mục tiêu có giá trị 5-7%/năm.
+ Bước ba: Tính toán độ lệch giữa các loại lãi suất và itTAYLOR được tính toán ở
bước hai theo công thức: Độ lệch = it - itTAYLOR. Biến it đại diện cho LSCB, TLS,
LSTCK và LSTCV. Giá trị trung bình tuyệt đối là giá trị bình quân của các giá trị
tuyệt đối (>0) của các độ lệch (ký hiệu t là n đối với dữ liệu năm, q đối với dữ liệu
quý).
+ Bước bốn: Kết quả các giá trị về hệ số βπ, βy và tỉ lệ lạm phát mục tiêu có độ
lệch giữa it và inTAYLOR có mức khác biệt thấp nhất (giá trị tuyệt đối nhỏ nhất) từ phân
tích theo năm sẽ áp dụng cho phân tích theo quý. Thực hiện các bước hai và ba đối với
các hệ số βπ, βy và tỉ lệ lạm phát mục tiêu đã xác định để phân tích theo quý.
+ Bước năm: Phân tích chính sách lãi suất của NHNN qua kết quả tính toán năm
và quý, từ đó đưa ra nhận xét về chính sách lãi suất của NHNN.
+ Bước sáu: Kiểm định và dự đoán lãi suất theo công thức (1.5) ở thời kỳ năm
2015 – 2016.
2.2 Phƣơng pháp phân tích chính sách lãi suất bằng mô hình kinh tế lƣợng
2.2.1 Mô hình kinh tế lƣợng theo quy tắc Taylor
Phương trình (1.4) được viết lại:
Đặt c = r* + (1 – βπ)π*, ta có biểu thức
it = c + βππt + βyyt + ut
(2.1)
Các biến được đưa vào mô hình hồi qui như sau:
+ INF: biến số tỉ lệ lạm phát bốn quý liền kề (πt).
+ OGAP: biến số độ lệch sản lượng (yt).
+ it nhận các giá trị lãi suất khác nhau là LSCB, TLS, LSTCK, LSTCV.
Trong đó, LSCB là biến số lãi suất cơ bản quý; TLS là biến số trần lãi suất huy động
quý (tính giá trị lớn nhất bằng 1,5 x LSCB khi áp dụng); LSTCK: biến số lãi suất tái
chiết khấu quý và LSTCV: biến số lãi suất tái cấp vốn quý. LSCB, TLS, LSTCK, và
LSTCV được tính theo quý, năm theo phương pháp bình quân gia quyền với quyền số

là tổng số ngày hiệu lực áp dụng các mức lãi suất tương ứng trong một quý hoặc một
năm. Như vậy, phương trình (2.1) có thể viết lại như sau:
it = c + βπINF + βyOGAP + ut
(2.2)
Phƣơng pháp ƣớc lƣợng mô hình kinh tế lƣợng ba biến theo quy tắc Taylor:
- Bước 1: Kiểm định tính dừng của các biến.
- Bước 2: Ước lượng mô hình hồi qui theo phương pháp bình phương tối thiểu
(OLS) đối với từng biến it (LSCB, TLS, LSTCK, và LSTCV).
- Bước 3: Chọn lựa mô hình ước lượng của it (LSCB, TLS, LSTCK, và LSTCV)
tương thích nhất với quy tắc Taylor thông qua việc xác định LSTN của mô hình phù
hợp nhất với LSTN theo số liệu kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong giai đoạn nghiên
cứu. Do it nhận các giá trị lãi suất khác nhau là LSCB, TLS, LSTCK, LSTCV nên việc
chọn lựa mô hình hồi qui tương thích nhất dựa trên các bước đánh giá sau:


21
(i) Các hệ số hồi qui của biến INF và OGAP phải có ý nghĩa thống kê.
(ii) Các hệ số hồi qui của biến INF và OGAP phải lớn hơn không.
(iii) Tính mức LSTN từ hệ số hồi qui đã ước lượng so sánh với mức LSTN ước
tính của Việt Nam, qua đó chọn lựa mức LSTN của mô hình gần nhất với mức LSTN
thực tế ở Việt Nam đã ước tính theo phương pháp bình quân các lãi suất thực trong
trung hạn. Sau khi ước lượng hồi qui mô hình theo công thức (2.2), ta có giá trị c và
βπ, từ đó tính được giá trị của r*:
c = r* + (1 – βπ)π*, suy ra r* = (1 – βπ)π* – c
(2.3)
- Bước 4: Tiến hành dự báo lãi suất đã chọn cho năm 2016.
Quy tắc Taylor (2.2) bao gồm ba biến chính là lãi suất, tỉ lệ lạm phát và độ lệch
sản lượng, do đó về cơ bản khó có thể bỏ biến hay thêm biến khác ngoài biến chính
vào mô hình để đảm bảo không làm mất bản chất của mô hình quy tắc Taylor gốc. Một
trong các giải pháp cơ bản là đưa độ trễ của các biến chính vào mô hình được sử dụng

rộng rãi trên thế giới theo phương pháp thử và sai (độ trễ từ 1 đến 4) cho đến khi tìm
được mô hình có độ trễ thích hợp của biến có các giá trị thống kê AIC, SC nhỏ nhất
được xem là mô hình tốt nhất.
2.2.2 Các mô hình dự báo tỉ lệ lạm phát và sản lƣợng
Mô hình dự báo tỉ lệ lạm phát
Theo Rudebusch và Svensson (1998) mô hình được biểu diễn dưới dạng sau:
πt+1 = φπ1πt + φπ2πt-1 + φπ3πt-2 + φπ4πt-3 + φyyt + єt+1
(2.4)
Trong đó: πt+1: tỉ lệ lạm phát quý thời kỳ t+1; єt+1: là sốc cầu tại thời kỳ t+1;
yt: độ lệch sản lượng ở thời kỳ t.
Mô hình dự báo sản lƣợng
Mô hình dự báo độ lệch sản lượng (yt) theo Svensson (1996) và Rudebusch và
Svensson (1998) được biểu diễn dưới dạng sau:
(2.5)
Trong đó, ηt+1 là sốc cung tại thời kỳ t+1.
2.3 Phân tích tác động giữa các biến it, INF và OGAP qua mô hình VAR(p)
Mô hình tự hồi qui theo vector (VAR) là một mô hình kinh tế được dùng để khảo
sát sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau giữa các biến trong mô hình theo thời gian.
Trong mô hình VAR, mỗi biến số phụ thuộc tuyến tính vào các giá trị trễ của biến số
chính nó và các giá trị trễ của các biến số khác trong mô hình. Hay nói một cách khác,
mô hình VAR được sử dụng để phân tích rõ hơn sự tác động do bởi thay đổi của một
biến lên các biến còn lại. Do các biến kinh tế vĩ mô là lãi suất it, lạm phát (INF), và độ
lệch sản lượng (OGAP) có thể có tác động quan hệ nhân quả lẫn nhau, do đó mô hình
VAR(p) với hai công cụ phân tích là hàm phản ứng đẩy và phân rã phương sai được sử
dụng để xem xét tác động qua lại giữa các biến.
Mô hình tổng quát của VAR có độ trễ p (ký hiệu là VAR(p)):
Đối với một chuỗi dữ liệu n biến thời gian dạng Yt = (y1t, y2t, …ynt), mô hình
VAR theo thứ tự p (VAR(p)) được biểu diễn dưới dạng:
; với p < t
(2.6)

Trong đó: yt = (y1t, y2t, …ynt)’ là các biến số của mô hình VAR(p); Ai là ma trận
hệ số (m x m); ut = (u1t, u2t, …, umt)’ là số dư ngẫu nhiên phân bố độc lập có trung bình
bằng 0 không quan sát được (unobservable independent identically-distributed (i.i.d.)
∑ và E(utu’t) = Ʃu, i ϵ (1,m).
zero mean error term) nghĩa là


22
2.3.1 Lựa chọn độ trễ tối ƣu của mô hình VAR
Để lựa chọn độ trễ tối ưu, việc chọn lựa mô hình tối ưu dựa trên các tiêu chuẩn
thông tin là LR, FPE, AIC, SC và HQ. Khi nghiên cứu về chọn lựa bậc của độ trễ thích
hợp trong mô hình VAR đối với phân tích phản ứng đẩy, Ivanov và Kilian (2005) đã đi
đến kết luận rằng với mô hình VAR theo tháng, tiêu chuẩn AIC hướng đến việc ước
lượng phản ứng đẩy chính xác nhất đối với các kích thước mẫu thực tế của mô hình
VAR bán cấu trúc và cấu trúc. Đối với mô hình VAR theo quý, chọn tiêu chuẩn HQ
hay SC là tùy thuộc vào cỡ mẫu. Với kích thước mẫu nhỏ hơn 120, tiêu chuẩn SC được
chọn là tốt nhất và cỡ mẫu lớn hơn 120 thì tiêu chuẩn HQ là tối ưu.
2.3.2 Kiểm định tính ổn định của mô hình VAR(p)
Xét mô hình VAR(p) biểu diễn theo độ trễ p như sau:
(2.7)
Trong đó:
yt = (y1t, …,yKt)’ là vector ngẫu nhiên (K x 1);
Ai là ma trận hệ số cố định (K x K);
v = (v1, …,vk)’ là vector của (K x 1) hệ số chặn cho phép khả năng trung
bình khác không (nonzero mean) của E(yt).
ut = (u1t, …,uKt)’ là nhiễu trắng K chiều qui chiếu (K-dimension white noise),
nghĩa là E(ui) = 0, E(ut, us’) là ma trận hiệp phương sai bằng 0 khi s ≠ t. E(ut, us’) được
giả sử là ma trận không suy biến (nonsingular matrix) trừ khi nói khác đi.
Theo Lutkepohl (1991) điều kiện để VAR(p) bền vững là các giá trị đặc trưng
của ma trận Ai có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn 1. Điều này tương đương với điều kiện sau:

det(IKp – Az) = det(IK – A1z - …- Apzp) ≠ 0, |z| ≤ 1
(2.8)
det(IKp – Az) được gọi là đa thức đặc trưng nghịch đảo (reverse characteristic
polynomial) của VAR(p). Đa thức (2.8) được xác định bởi các yếu tố quyết định của
nhân tố tự hồi qui (AR) không có nghiệm đơn vị và thuộc trên vòng tròn đơn vị phức
hợp. Nếu đa thức (2.8) có nghiệm đơn vị, nghĩa là các yếu tố quyết định bằng 0 khi
z=1, lúc đó tất cả hoặc vài biến có hiện tượng đồng liên kết.
2.3.3 Kiểm định quan hệ nhân quả (causality test) trong mô hình VAR(p)
Phương pháp kiểm định quan hệ nhân quả Granger (GCBEW) được áp dụng để
xem xét có hay không các biến trễ của một biến ảnh hưởng đến các biến khác trong
mô hình VAR. Giả thiết không (H0) là tất cả các biến trễ của một biến không có ảnh
hưởng đến một biến (mục tiêu) khác. Giả thiết đối (H1) là tất cả các biến trễ của một
biến ảnh hưởng đến một biến (mục tiêu) khác.
2.3.4 Hàm phản ứng đẩy (IRF)
Hàm phản ứng đẩy đo lường mức độ ảnh hưởng của cú sốc của phần dư (hay
còn gọi cú kích – innovation) của mỗi phương trình trong mô hình VAR tại một thời
điểm có ảnh hưởng đến các biến nội sinh ở hiện tại và tương lai. Trong mô hình VAR,
một cú sốc của biến i không chỉ có tác động đến biến i mà còn có tác động đến các
biến nội sinh khác thông qua cấu trúc động của mô hình VAR.
2.3.5 Phân rã phƣơng sai
Phân rã phương sai cho biết mức độ thay đổi của một biến cho trước dưới ảnh
hưởng của cú sốc của biến đó và cú sốc của các biến khác. Phân rã phương sai phân


23
tách sự thay đổi của sai số dự báo đối với từng biến trong mô hình hay nói cách khác,
mỗi biến được giải thích như là sự liên kết tuyến tính giữa cú sốc hiện tại của chính nó
và các cú sốc khác ở các giai đoạn trễ của tất cả các biến trong mô hình. Phân rã
phương sai cũng nhạy cảm đến thứ tự của các biến trong mô hình VAR. Việc thay đổi
thứ tự các biến ảnh hưởng đến kết quả từ phân rã phương sai. Do đó thứ tự trong phân

rã phương sai có tầm quan trọng. Phân rã phương sai cho biết tỉ trọng ảnh hưởng của
các biến ảnh hưởng đến thay đổi của một biến trong ngắn hạn và dài hạn.
2.4 Chính sách tiền tệ tối ƣu: tối thiểu hóa hàm tổn thất
CSTT tối ưu mà các NHTW hướng đến nhằm xác định các hệ số độ lệch lạm
phát và hệ số độ lệch sản lượng sao cho giá trị hàm tổn thất là nhỏ nhất. Các NHTW
thường đối diện với khả năng đánh đổi giữa việc cân bằng sự biến động của lãi suất
ngắn hạn và sản lượng trong ngắn hạn, do vậy việc xác định hệ số độ lệch lạm phát và
hệ số độ lệch sản lượng tối ưu giúp các nhà hoạch định CSTT có thể vận dụng tốt hơn
quy tắc Taylor trong việc ra quyết định về mức LSCS.
2.4.1 Mô hình hàm tổn thất của ngân hàng trung ƣơng
Mục tiêu của các NHTW là tối thiểu hóa sự biến động của lạm phát và sản lượng
trong nền kinh tế được diễn tả qua hàm tổn thất phúc lợi. Tác giả sử dụng ba dạng hàm
tổn thất (với giả thiết σ = 0,5 và mức độ e ngại của nhà hoạch định chính sách về biến
động sản lượng và sự thay đổi lãi suất là như nhau và bằng 1) như sau:

(i)
(Lee và Crowley 2010)
(2.9)
Trong đó: πt: tỉ lệ lạm phát thời kỳ t; π*: tỉ lệ lạm phát mục tiêu; yt: độ lệch sản
lượng; It: sự thay đổi về LSCS (It = itTAYLOR – it là sự chêch lệch giữa LSCS (itTAYLOR)
tính theo quy tắc Taylor và mức lãi suất thực tế (it)).
(ii) Lt = 1/2 [(πt – π*)2 + yt2]
(Svensson 1998)
(2.10)
(iii)
(Svensson 2002)
(2.11)
Trong đó: var(πt) là phương sai tỉ lệ lạm phát; var(yt) là phương sai độ lệch sản
lượng.
2.4.2 Phƣơng pháp mô phỏng ngẫu nhiên tối ƣu hóa hàm tổn thất

Để xác định các hệ số lạm phát và độ lệch sản lượng tối ưu đối với quy tắc
Taylor gốc (1993), tác giả sử dụng phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên được thực hiện
như sau:
Bước 1: Tính toán giá trị LSCS của quy tắc Taylor (1993) dạng (1.4) theo các hệ
số lạm phát (βπ) và hệ số độ lệch sản lượng (βy) giả định. Các hệ số βπ và βy nhận các
giá trị từ 0,1 đến 1,5 với bước nhảy là 0,1 cho từng hệ số.
Bước 2: Sử dụng phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên (stochastic simulation) để
tính toán các giá trị mô phỏng của tỉ lệ lạm phát (πt), độ lệch sản lượng (yt) và LSCS
(itTAYLOR) theo các công thức (2.4) và (2.5) khi đưa các giá trị LSCS tính toán ở bước 1
vào mô hình. Mô hình được thiết lập theo phần mềm Eviews 6.0 có mức tính toán lập
lại tối đa 5000 lần với độ tin cậy 99% cho từng cặp hệ số (βπ , βy) để có được giá trị tối
ưu của hàm tổn thất.
Bước 3: Tính toán các giá trị của hàm tổn thất theo công thức (2.9), (2.10) và
(2.11) với các giá trị mô phỏng của πt, yt, itTAYLOR được tính toán từ phương pháp mô
phỏng ngẫu nhiên với các hệ số βπ và βy giả định ở bước 2. Kết quả các cặp hệ số tối
ưu được chọn có ít nhất một giá trị hàm tổn thất đạt giá trị tối thiểu.


24
Bước 4: Cuối cùng là so sánh giá trị hàm tổn thất tính toán từ phương pháp mô
phỏng ngẫu nhiên của các cặp hệ số tối ưu đã chọn và các cặp hệ số cố định với giá trị
hàm tổn thất thực tế theo quy tắc Taylor (1.4).
2.5 Quy tắc Taylor với tổng phƣơng tiện thanh toán M2
Mô hình theo Mehrotra và Sánchez-Fung (2010) có dạng như sau:
(2.12)
Mô hình khi bỏ qua yếu tố tỉ giá hối đoái biểu diễn quan hệ giữa các thành tố
tăng trưởng, lạm phát và mục tiêu tiền tệ có nét tương đồng với quy tắc Taylor mô
hình kinh tế lượng:
với c = r* + (1 – βπ)π*.
Giả thiết chỉ xét hai biến lạm phát và tăng trưởng sản lượng ở vế phải, thay tỉ lệ

tăng cơ số tiền cơ sở ∆m ở vế trái bằng tỉ lệ tăng tổng phương tiện thanh toán (M2) là
∆M, đồng thời đặt b = µm – βπmπ*, ta có:
(2.13)
Để đạt được mức LSCS it theo quy tắc Taylor với tỉ lệ tăng M2 tương ứng, ta có
hệ phương trình đồng thời (2.14) như sau:

Hay nói khác đi, ∆M = f (it) và viết theo công thức kinh tế lượng, ta có:
(2.15)
Từ (2.14) xác định được hệ số c và βπ do đó sẽ tính được r*.
2.6 Cơ sở dữ liệu nghiên cứu
2.6.1 Nguồn gốc dữ liệu
Số liệu sử dụng cho phân tích thực trạng chính sách lãi suất của NHNN trong
thời kỳ năm 2000 – 2015 được lấy từ nguồn dữ liệu của các tổ chức tài chính – ngân
hàng uy tín trên thế giới và Việt Nam, cụ thể:
- Số liệu lãi suất thực từ Ngân hàng Thế giới (www.data.worldbank.org). Số
liệu lãi suất huy động của các TCTD từ IMF ().
- Số liệu về LSCB, TLS, LSTCK, LSTCV từ NHNN (www.sbv.gov.vn).
- Số liệu về GDP thời kỳ 2000Q1 – 2004Q4: từ Datastream (Thomson Reuters),
thời kỳ 2005Q1 – 2015Q4: từ Tổng cục Thống kê (www.gso.gov.vn).
- Số liệu về tỉ lệ lạm phát (CPI) từ Tổng cục Thống kê (www.gso.gov.vn).
- Số liệu về tổng phương tiện thanh toán M2 thời kỳ 2000Q1 – 2013Q4 từ IMF
(); thời kỳ 2014Q1 – 2015Q4 từ NHNN (www.sbv. gov.vn).
2.6.2 Giả thiết điều kiện áp dụng quy tắc Taylor và phƣơng pháp xử lý dữ liệu
Mức LSTN được tính bằng giá trị bình quân của lãi suất thực (Svensson 2001)
ở Việt Nam thời kỳ năm 2000 – 2014 là 3,61%/năm phù hợp với nghiên cứu của hai
tác giả Muinhos và Nakane 2006 về LSTN của các nước Đông Nam Á trong đó có
Việt Nam ở thời kỳ năm 1990 – 2004 là 4%/năm. Tỉ lệ lạm phát mục tiêu π* theo chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) là 5-7%/năm giai đoạn 2011 – 2015 theo Nghị quyết của Quốc
hội số 10/2011/QH13 ngày 08/11/2011; πt là tỉ lệ lạm phát 4 quý liền kề tính theo chỉ
số giá tiêu dùng CPI, gt là mức tăng trưởng GDP thực theo giá năm 1994 và g* là xu

hướng tăng trưởng của GDP thực được đo lường bằng mức bình quân tỉ lệ tăng trưởng
GDP thực theo giá năm 1994 thời kỳ năm 2000 – 2014 là 6,82%/năm, phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của VN trong giai đoạn 2010 – 2020 là 7%/năm
(Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng Sản Việt Nam năm
2011). Sản lượng tiềm năng được ước tính từ giá trị GDP quý theo giá năm 1994 tính


×