Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

NHỮNG ĐÓNG góp học THUYẾT PHÂN tâm HỌC CỦA s FREUD đối với tâm LÝ HỌC VÀ sự vận DỤNG TRONG đời SỐNG, GIẢNG DẠY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.15 KB, 19 trang )

NHỮNG ĐÓNG GÓP HỌC THUYẾT
PHÂN TÂM HỌC CỦA S. FREUD ĐỐI VỚI TÂM LÝ HỌC
VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG, GIẢNG DẠY
1. Hoàn cảnh ra đời học thuyết Phân tâm học của S. Freud
Sự khủng hoảng của tâm lý học cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX như
chúng ta được biết đã dẫn đến sự ra đời của “Phân Tâm Học”. Một trường
phái tâm lý học khách quan đi sâu nghiên cứu hiện tượng vô thức trong con
người, coi vô thức là mặt chủ đạo của đời sống tâm lý người, là đối tượng
thực sự của tâm lý học. Trong tất cả các ngành khoa học, người ta thường
thừa nhận tâm lý học là một môn khoa học bí hiểm và tối tăm nhất, và khó có
thể chứng minh bằng khoa học hơn bất cứ bộ môn nào khác. Bản chất của
những sự vật ở đây luôn luôn có sự hư hư thực thực và sự bất ngờ, vì nhà tâm
lý học phải nghiên cứu về một hiện tượng tự nhiên bí mật nhất, đó là cuộc
sống tâm lý của con người. Một lý thuyết hóa học hay vật lý có thể được
chứng minh hay bác bỏ những phương pháp kỹ thuật trong phòng thí nghiệm,
nhưng đối với giá trị của một lý thuyết tâm lý học, rất có thể không sao chứng
minh được một cách minh bạch, cho nên nhiều cuộc tranh luận bão táp đã nổi
lên xung quanh Sigmund Freud và khoa phân tâm học suốt sáu chục năm
ròng.
Người sáng lập ra “Phân Tâm Học” là S.Freud (1856 – 1939), bác sỹ
thần kinh và tâm thần người Áo gốc Do Thái, sinh ở Tiệp Khắc, du học ở Áo,
Pháp, Đức…Khi Freud chào đời ở Freiberg thuộc miền Moravia, tác phẩm
Nguồn gốc các chủng loài chưa xuất hiện. Năm đó là năm 1985. Cũng như
Karl Marx, tổ tiên Freud có nhiều người là pháp sư đạo Do Thái. Ông được
đưa tới thành Vienna thủ đô nước Áo vào năm lên bốn tuổi và đã sống gần
suốt cả tuổi trưởng thành tại đây. Theo Ernest Jones, người viết tiểu sử chính
của Freud thì ông đã được thừa hưởng của cha ông là mộtnhà buôn len, "tính
hoài nghi sâu sắc về những tai biến bất thường của cuộc đời, thói quen dùng
1



giai thoại Do Thái để châm biếm các quan điểm đạo đức, không tín ngưỡng
những vấn đề tôn giáo". Bà mẹ Freud sống tới năm 59 tuổi, bản tính năng
động và nhanh nhẹn. Sigmund Freud là đứa con cưng đầu lòng của bà. Sau
này Freud đã viết "một người đã từng là con yêu đặc biệt của một bà mẹ thì
suốt đời người ấy có cái cảm giác là một kẻ đi chinh phục, và chính cái lòng
tin chiến thắng ấy luôn đem lại thành công thực sự". Vào những năm đầu của
cuộc đời, Freud rất tin vào thuyết của Darwin vì ông thấy rằng "Những thuyết
ấy làm cho người ta có thể hy vọng vào những bước tiến phi thường trong
việc tìm hiểu thế giới". Dự định sẽ trở thành thầy thuốc, ông đã theo học
trường Đại học Y khoa thành Vienna. Và ông đã đỗ bác sĩ năm 1881. Là một
thầy thuốc trẻ tuổi của bệnh viện đa khoa, chữa trị đủ mọi loại bệnh, ông tiếp
tục nghiên cứu môn thần kinh bệnh học và giải phẫu thần kinh.
Ít năm sau, số mệnh xoay chiều và bất thần làm tên tuổi của ông nổi
tiếng khắp thế giới. Một bạn đồng nghiệp của ông đã đi Paris và ông bèn đi
theo sang thành phố này. Tại đây, ông cùng làm việc với Jean Charcot, lúc ấy
đã là một nhà bệnh lý học và thần kinh học người Pháp nổi tiếng. Ở đây, lần
đầu tiên ông được tiếp xúc với công trình của Charcot về bệnh loạn thần kinh
và cách dùng phương pháp thôi miên để điều trị bệnh này. Freud đã thoả mãn
khi thấy Charcot chứng minh được "bệnh loạn thần kinh thật mà và loạn thần
kinh giả do dùng thôi miên tạo ra. Nhưng khi trở lại thành Vienna, Freud
không làm thế nào để thuyết phục được các bác sĩ đồng nghiệp: họ không tin
là phương pháp chữa bệnh loạn thần kinh bằng thôi miên lại có cơ sở khoa
học. Và người ta còn trừng phạt những ý nghĩ quá tạo bạo của ông bằng cách
đuổi ông ra khỏi phòng thí nghiệm giải phẫu thần kinh. Từ đấy Freud tách
khỏi môi trường đại học và không còn tiếp tục tham gia những buổi họp của
giới trí thứcở Vienne nữa. Trong lúc hành nghề bác sĩ tư, ông tiếp tục dùng
phương pháp thôi miên để thí nghiệm trong nhiều năm nữa, nhưng dần dần
ông đã bỏ phương pháp điều trị này chỉ vì ít người hợp với lối chữa bằng thôi
2



miên và cũng vì đôi khi thôi miên có những hiệu quả không hay với nhân
cách người bệnh. Thay vào đó, Freud bắt đầu phát triển một phương pháp
mới, ông đặt tên là "tự do liên tưởng", về sau kỹ thuật này đã trở thành một
tiêu chuẩn thực hành của khoa học phân tâm học. Freud hẳn là người sáng lập
ra môn thần kinh bệnh học, điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Trước ông,
các nhà thần kinh bệnh học chỉ quan tâm đến những triệu chứng của bệnh tâm
thần phân liệt (schizophrenia) và chứng tâm thần suy giảm (lẩm cẩm), cần
phải giam lại trong bệnh viện. Ngay từ khi chữa chứng dồn nén và chứng thần
kinh tương khắc, Freud đã đi tới kết luận là không phải chỉ riêng con bệnh mà
cả những người lành mạnh bình thường cũng mang trong mình những xung
khắc tâm thần tương tự. Đi xa hơn nữa, bệnh tâm thần không phải là bệnh
theo nghĩa thông thường được chấp nhận mà là trạng thái tâm lý của trí não.
Vấn đề quan trọng là làm thế nào để điều trị những chứng rối loạn tâm thần
đang lan tràn rộng rãi ấy. Căn cứ vào những quan sát, thí nghiệm và kinh
nghiệm thực hành khi điều trị cho nhiều người bệnh ở Vienna, Freud đã xây
dựng cơ sở cho khoa phân tâm học vào khoảng cuối thế kỷ 19. Freud là một
trong những nhà khoa học đã sáng tác nhiều hơn hết trong thời đại chúng ta.
Sự phong phú về những đề tài mới mẻ cùng những phần đóng góp về tâm lý
do ngòi bút của ông đem lại không thể thu gọn trong bất cứ một cuốn sách
hay tờ báo nào. Theo ông, thì chắc chắn cuốn sách quan trọng ra đời sớm nhất
của ông mà cũng được ông yêu thích nhất là cuốn Đoán Mộng xuất bản năm
1900. Sách này gồm hầu hết những quan sát cơ bản và những suy luận của
ông. Trong cuốn Nghiên cứu về chứng loạn thầnkinh xuất bản sớm hơn (tức
là vào năm 1895), ông đã bộc lộ niềm tin rằng "yếu tố chính trong sự rối loạn
về tính dục là sự suy yếu gây ra cả bệnh tâm thần (neuros) lẫn bệnh tâm thần
suy nhược (psychoneuroses)". Đó là nền tảng của thuyết phân tâm. Vài năm
sau đó, Freud hoàn chỉnh được lý thuyết của ông về sức đối kháng, hiện tượng

3



chuyển biến tính dục tuổi thơ, mối tương quan giữa những ký ức bất mãn và
ảo tưởng, giữa cơ chế tự vệ (defense mechanism) và sự dồn nén.

2. Nội dung của học thuyết “Phân Tâm Học”.
2. 1. Cơ sở triết học và nguồn gốc nảy sinh của “Phân Tâm Học”.
Trong cuộc đời hoạt động khoa học và thông qua các nghiên cứu thực
tiễn chữa trị bệnh tâm thần, S. Freud đã gặp gỡ, tiếp xúc học hỏi ở khá nhiều
các tác giả bậc thầy đi trước về triết học, y học, sinh học, sinh lý thần kinh,
trực tiếp nhất là về các phương pháp chữa trị bệnh tâm thần. Có thể kể đến
các tư tưởng của các học giả có tên tuổi sau:
Tư tưởng của nhà sinh lý học người Đức E. W. Brucke (1819 – 1892),
người đã đưa lý thuyết hóa học, lý thuyết bảo toàn năng lượng vào giải thích
các hiện tượng sinh lý người.
Tư tưởng của nhà triết học, nhà bác học, nhà hoạt động xã hội người
Đức Leibniz về trạng thái vô thức của các đơn tử. Toàn thể vũ trụ được hình
thành từ những thực thể đơn thể . Đơn tử có nhiều trạng thái: Trạng thái có ý
thức và trạng thái vô thức. Trạng thái vô thức là trạng thái đơn giản. Ở trạng
thái này, con người không hay biết, đều được Freud rất quan tâm.
Tư tưởng của nhà triết học duy tâm người Đức Schopenhauer (1788 –
1860) về khái niệm phi lực, lực phi lý. Ông quan niệm phi lực, lực phi lý
trong mỗi con người ngược với lý trí, nhưng có vai trò rất lớn thúc đẩy con
người hành động một cách mù quáng tựa như vô nghĩa. Điều này được ông
trình bày trong tác phẩm “thế giới với tính cách là ý chí và biểu tượng” xuất
bản năm 1919.
Phương pháp thôi miên chữa bệnh tâm thần của nhà sinh lý học và là
bác sĩ tâm thần người Áo J. Breuer (1842 – 1925). Năm 1895 ông đã công bố
chung với Breuer trong công trình “Các nghiên cứu về Hystêri”. Freud đã học
được ở Breuer phương pháp giải tỏa tâm lý bằng biện pháp thôi miên với

người bệnh, cho phép đưa các ký ức thuộc tiềm thức trở lại tầng ý thức làm
4


thuyên giảm rõ rệt các triệu chứng tâm thần. Sau này trong khi chữa trị trên
các ca cụ thể, Freud tự thấy, muốn chữa trị được bệnh, phải tiến hành phân
tích tâm lý, tìm ra nhân tố vô thức đẻ ra các triệu chứng bệnh khác nhau hiện
đang bị mắc nghẽn, ẩn dấu sâu bên trong người bệnh. Khác với Breuer, ông
còn dùng một kỹ thuật riêng – mà ông gọi là kỹ thuật ép, nhằm phát hiện ra
những quá trình tinh thần vô thức ở người bệnh.
Tư tưởng về sức mạnh của đam mê tính dục trong các hiện tượng tâm
thần của bác sỹ tâm thần Pháp M. Charcot (1825 – 1893). Ông là thầy dạy của
Freud. Về sau này, Freud đã mất công tìm kiếm nhằm rõ hiện tượng đam mê
dục tính ở con người trong công trình “Ba tiểu luận về thuyết tính dục” nổi
tiếng của ông như mọi người được biết.
2. 2. Những luận điểm chủ yếu của học thuyết “Phân Tâm Học”của
S. Freud.
* Quan niệm về bản chất của tâm hồn, tâm lý con người.
Học thuyết phân tâm của Freud được xây dựng trên khái niệm vô thức.
Freud quan niệm, tất cả các hiện tượng tâm thần của con người về bản chất là
hiện tượng vô thức. Vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời sống tâm lý con
người. Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vô thức và tùy theo
tương quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện ra theo
những qui luật khác hẳn với ý thức.
Vai trò quan trọng của cái vô thức trong đời sống tâm lý người được S.
Freud làm rõ trong các công trình nghiên cứu về bệnh Hystêri, về giấc mơ và
về lý thuyết tính dục cũng như ở nhiều vấn đề khác được đề cập liên quan
trong các nghiên cứu cụ thể của ông:
Những nghiên cứu về bệnh Hystêri:
Đây là tên của một công trình của ông được công bố chung với J.

Breuer (1842 – 1925). Có thể nói khởi đầu của phân tâm học là các nghiên
cứu về Hystêri, bệnh tâm thần thường gặp nhất ở phụ nữ. Thông qua việc
5


chữa bệnh tâm thần, hai ông đã nhận thấy do những cảm giác trầm nhược như
sợ hãi, xấu hổ, lo âu hay đau đớn về thể chất ở một mức độ nào đó có thể là
nguyên nhân đưa đến một chứng bệnh phổ biến gọi là Hystêri. Đó là một loại
bệnh xuất hiện từng cơn, tự nhiên xuất hiện, rồi lại tự nhiên biến mất với
những biểu hiện rất đa dạng như tự cười phá lên, tự nhiên bị câm, tự nhiên bị
liệt một bên…rồi lại trở thành bình thường.
Các kết quả nghiên cứu của Freud và Breuer đã chỉ rõ:
Chứng Hystêri thông thường không có một tác động gây chấn thương
duy nhất mà có nhiều chấn thương bộ phận.
Triệu chứng Hystêri sẽ biến mất một khi người bệnh hiểu rõ ký ức về
tác động khởi phát đánh thức được mối xúc động của người bệnh có liên quan
trực tiếp đến ký ức này.
Trong các ca bệnh, thông thường người bệnh khó nhớ lại những điều
thực sự gây bệnh vì hoạt động tâm thần của con người có những qui luật riêng
đã bị thay đổi, điều chỉnh. Trí nhớ của người bệnh không hề giữ lại một dấu
vết nào của những tình tiết đã trải qua hoặc nếu có, chúng chỉ được còn giữ lại
ở dạng sơ sài nhất. Còn ký ức về những điều nhục nhã mà họ gặp phải trước
đây lại được thay đổi bằng một sự cải chính các sự kiện, bằng ý thức cá nhân
về phẩm giá. Khi người bệnh sực nhớ lại những điều đã thực sự trải qua thì
chính họ là người khổ sở trước hết.
Freud cũng đã phát hiện ra rằng trong các căn bệnh Hystêri, vai trò của
những xung lực tình dục rất lớn và đó là điều bất đồng căn bản giữa S. Freud
và J. Breuer dẫn đến sự chia tay của hai người, đồng thời khẳng định tính độc
lập của các công trình nghiên cứu hình thành học thuyết phân tâm học của S.
Freud.

Nghiên cứu trên các ca bệnh cụ thể và trực tiếp chữa bệnh, Freud đã đi
đến kết luận: Chìa khóa để hiểu các chứng nhiễu tâm nói chung và những
triệu chứng Hystêri nói riêng là ở chỗ đi tìm cho được cái vô thức là nguyên
6


nhân gây bệnh nằm ở bên dưới các triệu chứng bệnh. Muốn vậy cần phải tiến
hành phân tích tâm lý người bệnh để tìm cho được nguồn gốc gây bệnh ẩn
dấu sâu trong vô thức người bệnh.
Cách thức mà Freud đã tiến hành: Lúc đầu, ông dùng thôi miên để giúp
người bệnh nhớ lại những điều đã trải qua. Sau đó, ông dùng một kỹ thuật của
riêng ông: Kỹ thuật ép cùng với phương pháp liên tưởng tự do nhằm giúp
người bệnh xóa đi những tắc nghẽn trong những liên tưởng bằng lời. Ông
phân loại các chứng nhiễu tâm: Nhiễu tâm thức thời và loạn nhiễu tâm.
Lý giải các giấc mơ:
Năm 1900, Freud công bố công trình “Lý giải các giấc mơ”. Việc phân
tích cặn kẽ các giấc mơ của người nào đó đã trải qua là một thành công của
ông, con đương đi đến làm rõ cái vô thức.
Các giấc mơ đã tạo nên một sự hấp dẫn đặc biệt đối với Freud, bởi theo
ông, có thể từ việc phân tích các giấc mơ, chúng ta có thể nhìn thấy rõ hơn
cấu trúc tâm thần người, rõ hơn về cái vô thức trong con người. Từ các ca lâm
sàng trong chữa trị bệnh tâm thần, ông đã đi đến kết luận:
Các giấc mơ đều không xa lạ với người nằm mơ, đều luôn khó hiểu với
người đó.
Các giấc mơ đều có một ý nghĩa nhất định nào đó. Không những giấc
mơ có một ý nghĩa mà ý nghĩa của giấc mơ là nguyên nhân gây nên giấc mơ.
Trong các giấc mơ có các “ý tưởng tiềm ẩn” cần được khám phá. Nội
dung biểu hiện của giấc mơ có thể thực hiện trá hình những ham muốn bị dồn
nén vào vùng vô thức. Việc nghiên cứu về các giấc mơ giúp chúng ta hiểu rõ
hơn những cội nguồn sáng tạo của trí tưởng dân gian của dân tộc Việt Nam.

Từ việc làm rõ bốn nguồn gốc đặc thù của giấc mơ, ông đã chỉ ra năm
cơ chế chính của giấc mơ, đó là:
.. Cô đặc..
.. Di chuyển…
7


.. Kịch hóa..
..Tượng trưng hóa..
..Chế biến lần thứ hai..
Lý thuyết tình dục:
“Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục”là một trong những tác phẩm chủ
yếu của Freud trên con đường xây dựng phân tâm học được công bố vào
năm 1905. Công trình này làm rõ cơ sở lý thuyết về các chứng nhiễu tâm,
giải thích nhu cầu dồn nén và những nguồn năng lực xúc cảm nằm bên dưới
những vận động và những ứng xử có ý thức và vô thức của con người. Freud
đã gọi năng lực đó là Libido..
Trong công trình này, Freud đã chỉ rõ: Đới sống tính dục của con người
không phải được bắt nguồn vào tuổi dạy thì mà trái lại được biểu hiện rất
sớm từ khi con người mới sinh ra. Khái niệm tính dục khác hẳn với khái
niệm sinh dục chứa đựng một nghĩa rộng hơn nhiều và bao gồm nhiều hoạt
động không có liên quan với cơ quan sinh dục.. Đời sống tính dục bao hàm
chức năng cho phép thu được các khoái cảm từ những vùng khác nhau của
thân thể; Các vùng cơ thể gây khoái cảm cho con người, Freud gọi là các
vùng kích dâm, đầu tiên là miệng; sau đó là hậu môn, tiếp theo là toàn bộ
những bí mật của cơ thể do bị trẻ tự khám phá ở thân thể của nó…
Từ những phân tích khá sâu sắc về tình dục, Freud đã đi đến xem xét
những sự loạn dâm, thói phô bày, ác dâm, khổ dâm….đều là những hiện
tượng có thật trong đời sống tính dục của con người. Đặc biệt Freud đã phân
tích khá sâu những biến đổi tính dục ở tuổi dạy thì, chấm dứt thời kỳ tiềm ẩn

của đời sống tính dục. Các công trình này đã khắng định khái niệm cơ bản
do Freud đề xướng là “Libiolip”, giúp chứng minh cho sức mạnh của cái vô
thức.
Theo Freud, đam mê tình dục giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong đời
sống tâm lý, là cội nguồn của mọi cội nguồn tinh thần con người, đâu đâu
8


cũng thấy đam mê tình dục hoàn thành. Đó là nguyên nhân của bệnh tâm
thần cũng như của mọi sáng tạo, kể cả văn học nghệ thuật. Đam mê đó
trong học thuyết Freud là trung tâm của các bản năng và được gọi là “ mặc
cảm Ơ-đíp”1.
Một nội dung quan trọng của học thuyết phân tâm học do S. Freud
sáng lập là việc xác định cấu trúc của bộ máy tâm thần con người.
Trên cơ sở chữa trị các bệnh Hystêri, phân tích lý giải các giấc mơ…
Freud đã đi đến xác định bộ máy tâm thần con người bao gồm 3 khối .
Cái ấy ( cái vô thức) bao gồm các bản năng vô thức: ăn uống, tình dục,
tự vệ, trong đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ,
đời sống tâm lý và hành vi của con người. Cái ấy tồn tại theo nguyên tắc
thỏa mãn và đòi hỏi.
Cái tôi là con người thường ngày, con người ý thức, tồn tại theo nguyên
tắc hiện thực. Cái tôi có ý thức theo Freud là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài
của nhân lõi bên trong là “cái ấy”, cái tôi còn chịu ảnh hưởng của cái siêu
tôi.
Cái siêu tôi là cái siêu phàm, cái tôi lí tưởng không bao giờ vươn tới
được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt chèn ép.
Sự quan hệ của ba miền trên , theo Freud, đó là quan hệ của ba tầng:
tầng vô thức biểu hiện vai trò của di truyền; tầng tiền ý thức là cái con người
đã và đang trải nghiệm, mang tính ngẫu nhiên, tức thời và tầng ý thức biểu
hiện vai trò áp chế của người khác, của xã hội. Ba khối này tạo nên ba con

người: khối vô thức tạo nên con người trung tín mà nguyên tắc sống của nó
là chỉ mong muốn đòi được thỏa mãn bằng mọi cách trong đó thỏa mãn các
đam mê tính dục giữ vị trí hàng đầu. Khối tiền ý thức tạo nên con người
thực tại, hoạt động tuân theo nguyên tắc hiện thực. Còn khối ý thức tạo nên
1

“ Nhập môn tâm lý học” của Phạm Minh Hạc. NXB Giáo Dục 1980.

Trang 75.
9


con người xã hội hoạt động tuân theo nguyên tắc kiểm duyệt chèn ép các
con người trung tính và con người thực tại.
Trong đó, con người trung tính là con người thực nhất trong các con
người, tự nó có nguồn năng lượng đảm bảo cho toàn bộ hoạt động tinh thần
của con người. Ba con người này trong một con người cụ thể luôn tranh
giành ảnh hưởng lẫn nhau…Sự mất cân bằng trong ba con người này làm
nảy sinh các bệnh tâm thần khác nhau có ở con người. Đối với Freud, ý thức
chỉ được xem như một phần tương đối nhỏ và tạm thời trong toàn bộ đời
sống tinh thần của cá nhân. Khu vực vô thức của đời sống tinh thần rộng lớn
hơn rất nhiều lần so với khu vực hữu thức, nó như là phần chìm của tảng
băng trôi.
Phân tâm học đã luận giải xây dựng lý thuyết tổng quát vè các
chứng nhiễu tâm và đề xuất phương pháp trị liệu bênh tâm thần bằng “tự
do liên tưởng” “giải tỏa tâm lý”.
Freud đã xác nhận có những bệnh do chứng nhiễu tâm gây ra, điều mà
đương thời, mọi người đều phủ nhận, từ chối trách nhiệm chữa trị. Bằng
nghiên cứu lâm sàng trên các ca chữa bệnh do chính mình thực hiện, Freud
đã đi tới 6 loại nhiễu tâm(5):

Các chứng Hystêri và nhân cách Hystêri.
Những trạng thái lo hãi; những nhân cách lo lắng và dễ tổn thương.
Những rối loạn ám ảnh – thúc đẩy những nhân cách ám ảnh.
Trầm nhược thần kinh; những nhân cách đặc biệt dễ tổn thương vì
những tình cảm thất bại và tuyệt vọng.
Những thái độ nhạy cảm quá mức, hay nghi ngờ và hoang tưởng bộ
phận. Những rối loạn đặc thù của tình trạng chưa trưởng thành tính dục;
những nhân cách thích thú với những rối loạn ấy và nạn nhân của những rối
loạn ấy.

10


3. Những đóng góp, hạn chế của “ Phân Tâm Học” đối với tâm lý
học và việc vận dụng nó trong đời sống, giảng dạy.
3. 1. Những đóng góp của “ Phân Tâm Học” đối với tâm lý học.
S. Freud đã có một ý tưởng khoa học đúng đắn: Tâm lý học phải có
một con đường riêng của mình. Ông đã bắt tay vào việc xây dựng phân tâm
học học, khởi đầu là một trào lưu tâm lý học chống lại nền tâm lý học duy
tâm, chủ quan để xây dựng một nền tâm lý học khách quan. Sự xuất hiện
của phân tâm học một cách khách quan đã làm cho tâm lý học phát triển.
Các kết quả của phân tâm học được rút ra từ những nghiên cứu thực
hành chữa bệnh tâm thần do chính S. Freud tiến hành. Những thành tựu mà
ông mang đến cho khoa học loài người nói chung, tâm lý học nói riêng là
một khám phá vô cùng lớn về một mảng hiện tượng vô thức ở con người mà
cho đến nay trên lĩnh vực này chưa có ai vượt qua được Freud.
S. Freud đã đề xuất ra một phương pháp “liên tưởng tự do” nhằm giải
tỏa tâm lý, chữa trị cho các người bệnh tâm thần. Phương pháp này đã được
sử dụng khá rộng rãi và có hiệu quả trong các bệnh viện tâm thần. Công lao
của Freud trong lĩnh vực này rõ ràng là không nhỏ.

3. 2. Những hạn chế của “ Phân Tâm Học”:
Do nhấn mạnh đến mặt vô thức trong con người, Freud đã không nhận
thấy được mặt bản chất trong ý thức của con người, không thấy được bản
chất xã hội – lịch sử của các hiện tượng tâm lý người. Luận điểm, động lực
của mọi hoạt động tâm lý người là cái vô thức gắn liền với các đam mê tính
dục là một luận điểm không đúng.
Quan niêm về con người và nhân cách con người trong phân tâm học
Freud cũng bộc lộ những khía cạnh không đúng đắn. Con người trong thuyết
phân tâm là con người cơ thể, con người sinh vật bị phân ly ra nhiều mảng,
con người với những mong muốn chủ yếu là thỏa mãn các đam mê tính dục,
con người đối lập với xã hội.
11


Do những quan niệm sai trái như ở trên, một số các học giả kế tục
Freud đã cố gắng tìm cách khắc phục các hạn chế của phân tâm học, mong
muốn xây dựng một phân tâm học mới. Những cố gắng này là đáng kể làm
cho phân tâm học có điều kiện thân nhập sâu vào các lĩnh vực đời sống xã
hội.
Về mặt chính trị - xã hội, một cách khách quan, phân tâm học của
Freud đã trở thành cơ sở cho một thứ triết lý sống không tích cực, luôn có
xu hướng đối lập với xã hội trong các tầng lớp xã hội, đặc biệt là trong giới
trẻ ở các nước phương Tây: sống chỉ đòi hỏi xã hội và người khác thỏa mãn
nhu cầu của mình mà không tính đến trước tiên phần đóng góp của mình
cho xã hội.
3. 3. Vận dụng “ Phân Tâm Học” trong đời sống, giảng dạy.
* Vận dụng trong đời sống:
“Phân Tâm Học” là một trường phái tâm lý học khách quan đi sâu vào
nghiên cứu hiện tượng vô thức trong con người, coi vô thức là mặt chủ đạo
của đời sống tâm lý người. Qua đó, “Phân Tâm Học” có ứng dụng rất nhiều

trong cuộc sống của chúng ta. Một trong những ứng dụng to lớn là chữa trị
các người bệnh tâm thần. Trong chữa trị bệnh tâm thần S.Freud đã có những
đóng góp hết sức có giá trị cho khoa học.
“Phân Tâm Học” có ảnh hưởng rất lớn đối với một số ngành khoa
học khác.
Dầu sao, có thể chứng minh được hay không thì học thuyết của
Sigmund Freud cũng đã có một ảnh hưởng vô song đối với tư duy hiện đại.
Ngay Einstein cũng không kích thích trí tưởng tượng hay thâm nhập vào đời
sống của người đương thời bằng Sigmund Freud. Nhờ tìm tòi nghiên cứu
những thứ chưa bao giờ ai hiểu biết về trí não con người mà Sigmund Freud
đã đưa ra được những ý tưởng và những từ ngữ mà ngày nay đã chan hòa
vào cuộc sống thường nhật của chúng ta. Thực vậy, tất cả mọi lĩnh vực tri
12


thức của con người như văn chương, nghệ thuật, tôn giáo, nhân chủng học,
giáo dục, luật pháp, xã hội học, luật học, sử học và những môn học về xã hội
hay cá nhân khác đều chịu ảnh hưởng của học thuyết Sigmund Freud.
Ảnh hưởng của học thuyết Freud đối với văn học và nghệ thuật cũng
đáng chú ý không kém. Trong tiểu thuyết, thơ, kịch và các hình thức văn
chương khác, những ý tưởng chính của Freud đã được phát triển trong ít
năm gần đây. Bernard Dana Evans Voto đã miêu tả quan niệm là “chưa có
một nhà khoa học nào khác có một ảnh hưởng mạnh mẽ và rộng rãi đến văn
học như Freud”. Ảnh hưởng của Freud trong hội họa, điêu khắc và thế giới
nghệ thuật nói chung cũng sâu xa không kém
“ Phân Tâm Học” đối với loài người chúng ta vô cùng quan trọng:
Trước hết nó là một những pháp tâm bệnh lý, giúp y khoa khám phá và
chữa trị những trường hợp tâm bệnh mà trước nay với phương pháp của
khoa học thực nghiệm nó chưa đủ khả năng điều trị.
Đặc biệt nó là một thuyết tâm lý giúp ta khám phá chiều sâu vô tận của

tiềm thức mà có thể nói được là chiều sâu đời sống, thế giới của tất cả các
căn nguyên, động cơ bí ẩn của ý thức và nhân cách của chúng ta. “Phân
Tâm Học” đã được vận dụng có thể nói là rất triệt để trong đòi sống tâm lý
con người: Giúp y khoa khám phá và chữa trị những trường hợp tâm bệnh
mà trước nay với phương pháp của khoa học thực nghiệm nó chưa đủ khả
năng điều trị.
Giúp ta khám phá chiều sâu vô tận của tiềm thức mà có thể nói được là
chiều sâu đời sống, thế giới của tất cả các căn nguyên, động cơ bí ẩn của ý
thức và nhân cách của chúng ta.
* Vận dụng trong công tác giảng dạy:
“ Phân Tâm Học” đã được vận dụng trong công tác giảng dạy: Giúp
người giáo viên dạy tốt, đồng thời chia sẻ những kinh nghiệm, những hiểu

13


biết cho người học, có lối sống lành mạnh…Giúp người học tiếp thu bài tốt,
đồng thời ứng dụng ngay trong cuộc sống.
Những khám phá quan trọng của Freud, thời kỳ thơ ấu với ảnh hưởng
quyết định đến cuộc đời con người, làm cho các Phân tâm học gia chú trọng
ngay từ lúc đầu đến việc giáo dục. Mối bận tâm của họ là tìm hiểu sâu xa
tâm hồn trẻ em. Hướng về mục tiêu ấy, người ta cũng cần phân tích hoàn
cảnh gia đình để biết rõ phản ứng của đứa trẻ.
Phân tích tâm trạng trẻ em: Freud và các môn đệ của ông đi tiền phong
trong một tư trào, đã thay đổi hẳn quan niệm của thế kỷ này về vấn đề giáo
dục, họ mở mắt cho nhà giáo dục và phụ huynh học sinh thấy tầm quan
trọng của vấn đề sinh lý trẻ em. Từ đấy có rất nhiều sách viết về vấn đề giáo
dục. Hai món đệ của Freud là cô Anna Freud và cô Mélanie Klein đã có
công làm sáng tỏ thêm vấn đề, họ cho biết có một vấn đề Phân tâm học trẻ
em dị biệt với vấn đề Phân tâm học người lớn, phương pháp phân tâm cũng

khác. Anna Freud nhấn mạnh vào sự kiện trẻ em không phải là người lớn cỡ
nhỏ hay người lớn thu hẹp lại; người lớn là người đã phát triển đầy đủ, còn
trẻ em chỉ là người còn tiến triển dở dang, không đủ điều kiện để tự quyết.
Về phương diện nghề nghiệp cô có những phát kiến sau đây mà nếu ta
biết qua chút ít ta cũng có thể nhờ đó mà hiểu thêm những cạnh khía khác
của vấn đề giáo dục. Ông thầy phải sửa soạn cách nào để gây thiện cảm với
đứa trẻ. Phương pháp trị liệu chỉ có kết quả nếu nó thuận theo, nếu có sự ép
buộc trái ý nó thì có khi phát sinh những biến chứng tai hại. Ông thầy khởi
sự bằng cách gợi sự tín nhiệm của đứa trẻ, làm cho nó ý thức được những
thống khổ của nó, khiến cho nó chấp nhận phép trị bệnh. Đứa trẻ thường có
khuynh hướng thân yêu quá đáng một người vú nuôi hay một người trong
gia đình không phải cha mẹ nó. Ông thầy phải phá bỏ sự thiên lệch tâm tính
ấy, công việc khó khăn nhưng có thể làm được. Trong thời gian trị bệnh ông
thầy cần sự hợp tác của cha mẹ đứa trẻ. Ông thầy cố gắng căn cứ vào những
14


ký ức của đứa trẻ và những tài liệu của gia đình nó để lập lại quá khứ của nó
nhiên hậu sẽ tìm ra nguyên do cấu tạo ra bệnh. Ký ức của đứa trẻ thường
không đủ, ông thầy phải dùng cả đến phương pháp phân tích giấc mơ của
nó.
Một sự kiện đáng để ý: giấc mơ trẻ em thường để lộ sự thất vọng vì
không được cha mẹ yêu mến, vỗ về hay khen ngợi. Nó còn hay nằm mơ
thấy người hùng, chiến công oanh liệt, vượt được mọi gian lao. Nó cũng
nằm mơ thấy người ta đe doạ thiến. Người ta cũng dùng đến những bức vẽ
của trẻ em, đến cách xét nghiệm thái độ của nó khi cho nó nhiều đồ chơi đủ
loại, thâu hẹp cả một vũ trụ lại trước mắt nó để ghi lấy phản ứng của nó và
tìm cách suy diễn. Qua những phản ứng ấy nó sẽ biểu lộ những tiềm năng
gây gổ, thương xót, thái độ đặc biệt của nó trước sự vật.
Người ta nghiệm ra bản tính của nó lệ thuộc vào người khác hơn bản

tính người lớn, người lớn tỏ ra độc lập hơn. Nó chỉ tin tưởng người nó yêu
mến, nó làm cái gì hay và tốt là chỉ làm cho một người nào nó yêu mến.
Thực ra nếu ta để ý nhận xét mọi người quanh ta thì rất nhiều người không
đạt tới mức sống độc lập, hình như họ chỉ là những đứa trẻ lớn tuổi, họ chỉ
biết có người họ tin tưởng và dựa vào người ấy để theo, dù là quan niệm về
nghệ thuật, về cách xử sự; dù suy xét phán đoán việc đời; quyết định một
thái độ. Chính vì cạnh khía không trưởng thành của con người đó mà có một
vấn đề tuyên truyền, mà có một vấn đề lợi dụng nhân tâm. Nhiệm vụ của
ông thầy quan trọng vì trong khi trị bệnh dù muốn dù không ông thầy cũng
tác động như một người dạy dỗ, chỉ hướng và bảo vệ đứa trẻ.
Tiếp tục công việc của Freud, gần đây người ta đã tìm hiểu sâu rộng
mối tương quan giữa cha mẹ và con cái. Mối tương quan đó có một tầm
quan trọng lớn trong thời kỳ thơ ấu của đứa trẻ vì có ảnh hưởng quyết định
đến cuộc đời của nó sau này. Đứa trẻ cần thân thiết với cha mẹ, vì đó không
những là một nhu cầu tâm lý mà còn là một nhu cầu sinh lý. Nhiều công
15


việc nghiên cứu Phân tâm học giá trị đã chứng minh và xác định rõ sự thiếu
thốn tình yêu của cha mẹ rất tai hại cho đứa trẻ. Sự thiếu thốn ấy có rất
nhiều hình thức: hoặc là người mẹ bỏ liều con, vắng mặt luôn luôn hoặc là
để người khác thay thế mình, người đó chểnh mảng với đứa trẻ. Đứa trẻ
không được qua giai đoạn huấn luyện sự yêu thương. Muốn trở nên người
bình thường, có nhiệt tâm để thương yêu người khác, đứa trẻ phải nhận tình
yêu của mẹ, tình yêu đó gợi cho nó thi vị cuộc đời đồng thời là kích thích tố
làm phát triển trí khôn. Cả sự phát triển thể chất cũng liên hệ đến ảnh hưởng
của tình yêu mẹ. Để có những bằng chứng cụ thể chứng minh quan điểm ấy
người ta thâu góp rất nhiều tài liệu về sự phát triển cơ thể, tâm thần, các giai
đoạn tập lẫy (lật), bò, ngồi, lững chững tập đi; nhiều cuốn phim cho thấy
những dấu hiệu chậm phát triển như đứa trẻ có phản ứng không hợp với tuổi

mà ngưng trệ ở giai đoạn trước, hay thay vì những cử chỉ đúng tầm mức để
di chuyển cử động, tay chân đứa trẻ như dại như ngây không phác hoạ nỗi
những cử chỉ nhằm vào mục đích di động. Hình như nó diễn tả cái trống
rỗng trong nội tâm nó bằng những máy động hỗn loạn. Ngoài ra còn phải kể
đến những rối loạn về bộ máy tiêu hoá. Đó là những kết quả khảo sát của
bác sĩ Spitz và bà bác sĩ Roudinesco.
Trái lại, những vuốt ve quá đáng những hành vi âu yếm quá nồng của
người mẹ có thể làm cho cảm Trung quan của đứa trẻ phát triển sớm quá.
Đó cũng là một điều tai hại. Lạm dụng vệ sinh, rửa ráy nhiều quá có thể kích
động hậu môn là khu vực thụ cảm rất mạnh từ năm thứ hai. Cử chỉ vụng về
của người mẹ khi âu yếm, bế ẵm, chăm sóc vệ sinh có thể vô tình kích động
khu vực thụ cảm khi dục tình đã hình thành và quy tụ vào khu vực ấy.

16


KẾT LUẬN
Phân tâm học, như đã nói trên, ban đầu không phải là một trào lưu, hay
khuynh hướng triết học, mà chỉ là một đột phá quan trọng trong việc chữa
bệnh rối loạn thần kinh chức năng bằng liệu pháp tâm lý. Tuy nhiên với thời
gian, phân tâm học được biết đến như “khám phá vô thức”, một vấn đề hiếm
thấy trong triết học truyền thống, mà đây là điều kỳ diệu trong quá trình phi
cổ điển hóa triết học, vốn bắt đầu từ những năm 30-40 của thế kỷ XIX.
“Khám phá vô thức”, đó là cách đánh giá công bằng và có ý nghĩa nhất đối
với phân tâm học, trước hết là phân tâm học Freud, “không còn ai bảo vệ toàn
bộ học thuyết phân tâm và hình thức nguyên thủy về trị liệu, nhưng cũng
không thể phủ nhận ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết ấy đến tư tưởng chung
của thời đại, đặc biệt về tâm lý học, tâm lý trị liệu”. Cho dù những người sau
Freud, trong đó có Adler, tìm cách cải biến một số vấn đề của phân tâm học,
nhằm làm cho phân tâm học phát triển hơn, song cái cốt lõi nhất do Freud mở

đầu vẫn còn nguyên giá trị trong phạm vi học thuyết này.
Phân tâm học, với những khám phá về phương pháp trị liệu tâm thần và
lý thuyết tìm hiểu nhân cách con người, mở ra một hướng đi mới trong việc
tìm hiểu con người, đặc biệt ở khía cạnh tâm trí. Freud như là người mở
đường với lý thuyết phân tâm học cổ điển. Người tiên phong bao giờ cũng là
người chịu nhiều áp lực và phê bình. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, Freud và
lý thuyết của ông vẫn còn được nhắc tới và áp dụng để tìm hiểu nhân cách và
trị liệu tâm bệnh con người. Lịch sử phân tâm học cho thấy những thay đổi và
tiến bộ không ngừng của lý thuyết phân tâm học. Những người nối tiếp Freud
đã bổ túc và phát triển lý thuyết ban đầu của ông để có được cái nhìn đầy đủ
hơn các phương diện của tâm trí con người. Nếu nói phân tâm học cũng là
một ngành khoa học thì đồng nghĩa với việc chấp nhận những khiếm khuyết
và bất toàn của nó. Nói cách khác, chẳng có khoa học nào tuyệt đối, vì vậy
phân tâm học cũng phần nào lột tả tâm trí con người mà thôi. Con người, có
17


thể thật mong manh nếu nhìn dưới khía cạnh sinh học hay tâm thần, vẫn hội
tụ những điều phức tạp và thiêng liêng không dễ để có thể tìm hiểu rạch ròi.
Những giới hạn của khoa học, trong đó có phân tâm học, trong việc tìm hiểu
con người không hẳn là những thất bại, đúng hơn điều đó trả lại cho con
người sự cao cả vốn có của họ và khoa học cũng là để phục vụ cho con người
mà thôi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Từ điển tâm lý học”. A. V . Pêtơrôpxki và M. G. Iarôsepxki chủ
biên,NXB Chính trị Quốc gia, Matxcơva 1990.
2. Lịch sử tâm lý học và tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H 2015.
3. “ Thăm dò tiềm thức” của Carl Gustav Jung, Vũ Đình Lưu dịch.
Hoàng Đông Phương xuất bản. Trang thư Hoàng Phương Đông.

4.“Phân tâm học nhập môn” của Sigmund Freud, dịch giả: Nguyễn
Xuân Hiến.
5. Xem David Staford – Clark, Freud đã thực sự nói gì, NXB Thế giới,
Hà Nội 1998.
6.“Lịch sử tâm lý học”.GS. TS. Nguyễn Ngọc Phú. NXB ĐH QGHN.
7.“ Nhập môn tâm lý học” của Phạm Minh Hạc. NXB Giáo Dục 1980.

18


8.“ Nhập môn tâm lý học” của GS. TS. Nguyễn Quang Uẩn. Khoa
“Tâm Lí Giáo Dục” - Trường ĐH SPHN.năm 2005.

19



×