Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KHẢI QUÁT NHỮNG vấn đề cơ BẢN cần nắm CHẮC TRONG HỌC tập VÀ ôn THI môn TRIẾT HỌC MÁC lê NIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.45 KB, 56 trang )

KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG TRONG HỌC
TẬP VÀ ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC
(KHÔNG SOẠN THEO GIÁO TRÌNH, SOẠN THEO ĐƠN VỊ KIẾN THỨC
CẦN NẮM, GIÚP SINH VIÊN NẮM CHẮC MÔN TRIẾT HỌC NHANH
NHẤT)
PHẦN I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA LÊNIN
* Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm: Không thừa nhận sự tồn tai kquan của VC
* Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác:
-Thừa nhận sự tồn tại khách quan của sự vật, hiện tượng, của thế giới vật chất,
coi vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai.Song khuynh hướng chung là đi tìm
bản nguyên ban đầu của thế giới. Đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể, với thuộc tính
của nó (do lẫn lộn vật chất với tư cách là một phạm trù nhận thức luận với cấu tạo của
nó như là đối tượng của khoa học cụ thể)
*Quan điểm của Mác, Ang ghen:
Các ông không đưa ra định nghĩa kinh điển về VC nhưng đã chỉ ra những vấn đề
có tính nguyên tắc để nghiên cứu VC với tính cách là phạm trù triết học. Theo Mác và
Ăng ghen, VC với tính cách là phạm trù triết học thì không tồn tại cảm tính hữu hình
và chỉ có thể nhận thức được bằng con đường trừu tượng hoá.
* Định nghĩa vật chất của Lênin:
Trong tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lênin
đã định nghĩa: “ vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc và cảm giác”
Phân tích những nội dung định nghĩa vật chất :
*Vật chất là phạm trù triết học, là sự xác định “góc độ” của việc xem xét sự
khác mhau giữa quan niệm triết học về bản chất của vật chất với các quan niệm của


2


khoa học tự nhiên về cấu trúc và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng vật chất
khác nhau.
-Với tư cách là một phạm trù triết học, vật chất phản ánh thể hiện thế giới quan
(mối quan hệ con người và thế giới xung quanh) và hướng đến sự giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học (mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy).
-Vật chất là một phạm trù triết học rộng nhất, bao quát nhất, nên không thể định
nghĩa bằng cách thông thường trong lôgíc học. Vật chất chỉ có thể định nghĩa được
bằng cách đặt nó trong quan hệ đối lập với ý thức xem cái nào có trước, cái nào quyết
định cái nào.
* Thuộc tính chung phổ biến cơ bản nhất của vật chất là “thực tại khách quan”
“tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
-Vật chất là vô cùng tận, nó có vô vàn các thuộc tính khác nhau rất đa dạng và
phong phú mà khoa học ngày càng tìm ra, phát hiện thêm những thuộc tính mới của
nó. Trong tất cả các thuộc tính của vật chất thì thuộc tính “thực tại khách quan” tức sự
tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người, là thuộc tính chung nhất, vĩnh
hằng nhất, đối với mọi dạng, mọi đối tượng khác nhau của vật chất. Vì thế, Lênin xem
thực tại khách quan là “thuộc tính duy nhất” của vật chất.
-Đây chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất là cái gì không phải là vật
chất, cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống xã hội. Tất cả những cái gì nếu nó tồn tại bên
ngoài và độc lập với ý thức của con người thì đều là những dạng khác nhau của vật
chất (như những quy luật kinh tế- xã hội, những quan hệ sản xuất của xã hội... tuy
không tồn tại dưới dạng các vật thể, không manh thuộc tính khối lượng, năng lượng,
không có cấu trúc phân tử, nguyên tử nhưng chúng tồn tại khách quan, có trước ý thức
và quyết định ý thức nên chúng là vật chất dưới dạng xã hội)
*Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
-Vật chất với tư cách là phạm trù triết học thì không tồn tại cảm tính, Song VC
không tồn tại vô hình, trừu tượng mà nó biểu hiện ra các sự vật hữu hình, cảm tính.
Các sự vật này khi tác động vào cơ quan cảm giác của con người thì gây cho ta cảm
giác (nhận thức) về chúng, cảm giác của chúng ta là bản sao của các sự vật hiện tượng



3

trong thế giới khách quan. Cảm giác là tiền đề của mọi sự hiểu biết, nguồn gốc của
mọi tri thức.
Vật chất không phải là thần bí, không thể biết mà về nguyên tắc, con người có
thể nhận thức được thế giới vật chất, không có gì con người không thể nhận thức được,
chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thôi.
* ý nghĩa :
Qua định nghĩa VC cho thấy đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên lập
trường duy vật triệt để.
Định nghĩa VC là cơ sở lí luận, phương pháp luận cho nhận thức và cải tạo hiện
thực, đòi hỏi phải luôn quán triệt và thực hiện nguyên tắc khách quan, đồng thời phát
huy vai trò của YT và của nhân tố chủ quan
Định nghĩa VC là cơ sở lí luận để đấu tranh chống CNDT, CNDV siêu hình và
thuyết bất khả thi tri luận.
Định nghĩa VC trang bị thế giới quan khoa học, mở đường cho khoa học tự
nhiên tiếp tục phát triển.
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm(CNDT) cho rằng YT là tính thứ nhất, quyết
định VC. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật(CNDV) siêu hình cho rằng VC là tính thứ
nhất, quyết định YT nhưng không thấy sự tác động trở lại của YT đối với VC.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng(CNDVBC) khẳng định: VC và
YT có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó VC quyết định YT, YT có tác động
trở lại to lớn đối với VC.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
+ VC là tất cả những gì tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào YT. YT là sản
phẩm của dạng VC có tổ chức cao, đó là bộ óc người; “là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan”.

+ Sự đối lập giữa VC và YT chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong phạm vi nhận thức
luận để xác định cái nào có trước, cái nào có sau. Ngoài ra, sự đối lập đó chỉ có ý
nghĩa tương đối vì YT tác động trở lại VC'. “lí luận sẽ trở thành lực lượng vật chất khi
nó thâm nhập vào quần chúng”.


4

+ VC quyết định YT :
VC là cái có trước, YT chỉ là sản phẩm của VC có tổ chức cao- óc người. Như
vậy VC chính là nguồn gốc của YT.
Nội dung cuả YT là do VC tức thực tại khách quan quy định. Thực tại khách
quan giống như bản chính, còn YT giống như bản sao.
Sự phát triển của YT do sự phát triển của VC và hoạt động thực tiễn quy định
+ YT có tác động trở lại VC:
YT phản ánh VC không thụ động, máy móc mà là phản ánh sáng tạo, nhằm cải
tạo hiện thực khách quan theo mục đích nhất định. YT không chỉ phản ánh mà còn còn
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, thông qua đó mà cải tạo và sáng tạo ra “tự
nhiên thứ hai”.
YT tác động trở lại VC theo hai chiều hướng cơ bản. Đó là, khi YT phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan thì sẽ tác động trở lại một cách tích cực, thúc đẩy sự
phát triển hợp quy luật của hiện thực khách quan. Ngược lại, khi YT phản ánh sai lệch
hiện thực khách quan thì sẽ tác động trở lại nó một cách tiêu cực, kìm hãm sự phát
triển của hiện thực khách quan. Song, sự kìm hãm này cũng chỉ có ý nghĩa tương đối.
* ý nghĩa phương pháp luận rút ra :
- Trong nhận thức và hoạt động phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan. Chống chủ quan duy ý chí, làm bừa, làm ẩu,
bất chấp quy luật khách quan.
- Phải phát huy cao độ vai trò năng động chủ quan của con người trong nhận
thức và cải tạo hiện thực khách quan. Chống thụ động dựa dẫm, ỷ lại cho điều kiện

khách quan.
*Vận dụng giải quyết MQH giữa khách quan(KQ) và chủ quan(CQ) trong các hoạt
động
Mối quan hệ KQ và CQ về thực chất là mối quan hệ giữa con người với điều
kiện hoàn cảnhxác định mà con người cần nhận thức và cải tạo. Do đó, không đồng
nhất với mối quan hệ giữa VC và YT.
+ Cái KQ là tất cả những hiện tượng vật chất và tinh thần, không phụ thuộc vào
chủ thể hành động, hợp thành một hoàn cảnh thường xuyên chi phối nhận thức và hành
động của chủ thể.


5

Cái KQ gồm có điều kiện khách quan, quy luật khách quan và khả năng khách
quan, trong đó, quy luật khách quan là yếu tố đăc biệt quan trọng. Cái KQ không chỉ
có những hiện tượng vật chất mà có cả hiện tượng tinh thần.
+ Cái CQ là tất cả những gì phụ thuộc vào ý thức và năng lực của chủ thể để
nhận thức và cải tạo những điều kiện khách quan nhất định.
Cái CQ không được quan niệm chỉ là tình trạng bên trong(tâm lý, ý thức ) của
chủ thể mà cái “phái sinh” của hoạt động của chủ thể qua các hình thức hoạt động của
nó.
+ Cái KQ và cái CQ có quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó cái KQ bao giờ
cũng quy định cái CQ; cái CQ có tác động trở lại cái KQ,nhận thức và cải tạo cái KQ
trên cơ sở những quy luật KQ cho phép, thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
NGUỒN GỐ CỦA Ý THỨC
Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
1. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
- Ý thức là đặc tính riêng của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ não
người. Bộ não người là cơ quan vật chất của ý thức. Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trong
bộ não người, trên cơ sở các quá trình sinh lý thần kinh của não.

- Ý thức là là sự phán ánh thế giới khách quan vào bộ não người. Phải có sự tác
động của thế giới vật chất xung quanh lên bộ não người thì ý thức mới có nội dung của
nó.
KL: Bộ não người (cơ quan phản ánh thế giới vật chất xung quanh) và sự tác
động của thế giới vật chất xung quanh lên bộ não người là nguồn gốc tự nhiên của ý
thức.
2. Nguồn gốc xã hội của ý thức
- Sự ra đời của bộ não người cũng như sự hình thành con người và xã hội loài
người nhờ hoạt động lao động và giao tiếp xã hội bằng ngôn ngữ
- Lao động là hoạt động đặc thù của con người làm cho con người và xã hội loài
người khác hoàn toàn với các loài động vật khác.
- Trong quá trình lao động, con người đã biết chế tạo các công cụ để sản xuất ra
của cải vật chất. Công cụ ngày càng phát trỉen làm tăng khả năng của con người tác
động vào tự nhiên, khám phá và tìm hiểu tự nhiên, bắt tự nhiên bộc lộ những thuộc


6

tính của mình. Quá trình đó cũng làm biến đổi chính bản thân con người, làm cho con
người ngày càng nhận thức sâu hơn thế giới khách quan.
- Chính nhờ có quá trình lao động, bộ não người phát triển và ngày càng hoàn
thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người ngày càng phát triển. Hoạt
động lao động của con người đã đưa lại cho bộ não người năng lực phản ánh sáng tạo
về thế giới.
- Lao động sản xuất là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ. Trong lao
động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm. Từ đó ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.
-Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư duy, là phương
tiện để con người giao tiếp với nhau, phản ánh một cách khái quát sự vật. Nhờ có ngôn
ngữ, con người tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế

hệ khác.
-Ngôn ngữ là phương tiện vật chất không thể thiếu được của sự phản ánh khái
quát hoá, trừu tượng hoá, tức là của quá trình hình thành ý thức. Lao động và ngôn ngữ
là “hai sức kích thích chủ yếu” biến não con vật thành bộ não người, phản ánh tâm lý
động vật thành phản ánh ý thức.
Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành
và phát triển ý thức.
Nếu như nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần thì nguồn gốc xã hội là điều kiện
đủ để hình thành ý thức của con người. Như vậy, ý thức của con người là sản phẩm
của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra
đời và phát triển của ý thức là thực tiễn xã hội.
BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC
Chủ nghĩa duy tâm quan niệm ý thức như một thực thể độc lập, là thực tại duy
nhất, là cái có trước tư đó sinh ra vật chất. Chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý thức là
một dạng vật chất hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất.
Cả hai quan điểm đó về ý thức đều sai lầm. Chủ nghĩa duy vật biện chứng biện chứng
khẳng định: ý thức là sự phản ánh mang tính sáng tạo thế giới vật chất vào bộ não


7

người thông qua hoạt động thực tiễn. Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Chủ quan theo nghĩa ý
thức là hình ảnh của sự vật được thực hiện trong bộ não con người, là sự pảhn ánh thế
giới khách quan thông qua “lăng kính chủ quan của mỗi người, gắn liền với hoạt động
khái quát hóa, trừu tượng hoá, có định hướng, có lựa chọn nhằm tạo ra những tri thức
về sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh
tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý. ý thức lấy cái khách quan làm tiền đề. Nội
dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định.

-Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan có nghĩa ý thức là sự
phản ánh sáng tạo, tích cực thế giới khách quan. ý thức là sự thống nhất của khách
quan và chủ quan.
-Phản ánh ý thức là sáng tạo, do nhu cầu thực tiễn quy định, dựa trên hoạt động
thực tiễn xã hội và là sản phẩm của các quan hệ xã hội. ý thức chịu sự chi phối chủ yếu
của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện
thực của con người quy định. ý thức mang bản chất xã hội.


8

NGUYÊN LÝ PHÁT TRIỂN
* Vị trí: Nguyên lý phát triển là một trong 2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy
vật.
* Nội dung: sự vận động đi lên, cái mới thay thế cái cũ là một khuynh hướng
chung, tất yếu của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
* Khái niệm phát triển:
Theo quan niệm của triết học Mác – Lênin , phát triển là quá trình vận động từ
thấp ( giản đơn) đến cao( phức tạp), màn nét đặc trưng chủ yếu lầcí cũ mất đi và caío
mới ra đời.
Khái niệm phát triển không bao quát mọi sự biến đổi nói chung mà khái quát xu
hướng chung của vận động- xu hướng vận động đi lên, cái mới thay thế cái cũ.
Khái niệm phát triển không đồng nhất với vận động.Vận động chỉ sự biến đổi, biến
hóa nói chung, dù nó có tính chất khuynh hướng và kết quả thế nào.
*Phát triển là một khuynh chung, tất yếu theo những quy luật khách quan ,diễn ra
không ngừng trong tự nhiên, xã hội, tư duy, với nhiều hình thức cụ thể.
Phát triển là một khuynh chung, tất yếu theo những quy luật khách quan. Những quy
luật khách quan, phổ biến mà phép biện chứng duy vật nghiên cứu đã chỉ ra nguồn gốc
động lực; cách thức, trạng thái; khuynh hướng của sự phát triển của các sự vật hiện
tượng.

Nguồn gốc động lực của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập trong sự vật.
Cách thức, trạng thái của sự phát triển là đi từ sự tích lũy dần dần về lượng
đến một mức độ nhất định tạo nên sự biến đổi về chất và ngược lại.
Khuynh hướng của sự phát triển là tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. nhưng quanh co phức tạp theo đường “xoáy ốc”.
Phát triển diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội, tư duy, với nhiều hình thức cụ
thể.
* Phê phán quan điểm siêu hình, quan điểm duy tâm và tôn giáo về sự phát
triển :sự phát triển nếu có là do lực đẩy từ bên ngoài hoặc do lực lượng siêu tự nhiên,
chỉ thấy sự phát triển về mặt lượng…
* ý nghĩa:


9

Xác định quan điểm phát triển trong xem xét và cải tạo hiện thực
-Đặt sự vận hiện tượng trong sự vận động, chuyển hóa
- Phát hiện xu hướng biến đổi tích cực, tạo điều kiện để nó trở thành hiện
thực...
- Quan điểm đúng về cái mới., phát hiện ủng hộ, vun trồng.
- Khắc phục quan điểm tư tưởng bảo thủ, trì trệ, và nhận thức giản đơn về cái
mới. Phân biệt cái mới đích thực với “cái mới giả hiệu”
NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong những nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Theo Ăngghen “Phép biện chứng là khoa học về mối quan
hệ phổ biến”.
Nội dung:
Trong thế giới khách quan, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập,
biệt lập mà chúng là một thể thống nhất, trong đó các sự vật và hiện tượng tồn tại bằng

cách tác động nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hóa lẫn nhau.
Phép biện chứng nghiên cứu mối liên hệ phổ biến của hiện tượng khách
quan( khác với các quy luật của các khoa học khác nghiên cứu về các mối liên hệ cụ
thể). Đó là mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng- chất, ... chung- riêng … mà các
quy luật, các cặp phạm trù của PBC phản ánh.
+ Tính khách quan của mối quan hệ phổ biến: Mối quan hệ là vốn có của sự vật,
hiện tượng bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới.
+ Tính phổ biến của mối liên hệ trong thế giới khách quan:
Mối liên hệ trong tự nhiên, xã hội, tư duy
Mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố, quá trình của mỗi sự vật hiện tượng
+ Tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ của mối liên hệ của hiện tượng khách
quan: chia theo tính chất, phạm vi, trình độ, vai trò các mối liên hệ... Mỗi loại liên hệ
chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt khâu trong mối liên hệ phổ biến.
ví dụ: có nhiều mối liên hệ: mối liên hệ bên trong bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu thứ
yếu; mối liên hệ bản chất, không bản chất; mối liên hệ tất nhiên, ngẫu nhiên...


10

Mỗi loại liên hệ có vai trò không giống nhau đối với sự vận động phát triển của
sự vật hiện tượng. Các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất ,mối liên hệ chủ yếu
bao giờ cũng có vai trò quyết định sư tồn tại và phát triển của sv, htượng.
+ Các mối liên hệ có sự chuyển hóa, làm cho sự vật hiện tượng phát triển không
ngừng .
- phương pháp luận chủ yếu:
Để nhận thức và cải tạo sự vật phải nhận thức và biến đổi các mối liên hệ của
nó.
Phải có quan điểm toàn diện (bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể): Xem xét toàn
bộ các mối liên hệ của sự vật hiện tượng, cả mối liên hệ hiện tại, quá khứ…Phải tìm ra
mối liên hệ chủ yếu quyết định sự tồn tại, phát triển của sự vật hiện tượng để cải tạo

thúc đẩy sự vật tiến lên.
Khắc phục quan điểm phiến diện một chiều, đấu tranh chống chủ nghĩa triết
chung và thuật ngụy biện.
Vận dụng xem xét:
Đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để ở nước ta trong đó có xác định
khâu then chốt cần tập trung giải quyết
Quan hệ đổi mới kinh tế VỚI chính trị
Xem xét bản chất của CNTB và thời đại ngày nay


11

QUY LUẬT MÂU THUẪN
Quy luật mâu thuẫn là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
và là hạt nhân của phép biện chứng đó. Quy luật này vạch ra nguồn gốc động lực của
sự phát triển.
Quy luật này chỉ rõ: mọi sự vật hiện tượng tồn tại vận động với tư cách là một
chỉnh thể, gồm những mặt đối lập bên trong nó, những mặt đối lập đó vừa thống nhất,
vừa đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc động lực của sự phát triển sự vật, hiện
tượng trong thế giới.
Để làm rõ nội dung quy luật cần phân tích những điểm sau:
+Mọi sự vật hiện tượng đều có những mặt đối lập, đó là những mặt có những đặc
điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược
nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
+Những mặt đối lập nằm trong cùng bản chất xác định sự vật hiện tượng có liên
hệ tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Một mâu thuẫn biện
chứng ít nhất có 2 mặt đối lập tồn tại trong trạng thái thống nhất và đấu tranh với nhau.
+sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của
các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Sự
thống nhất của các mặt đối lập là tính không thể tách rời của hai mặt đó. Sự thống

nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự “đồng nhất” và “sự tác động ngang nhau”
của chúng.
+Tồn tại trong một thể thống nhất, 2 mặt đối lập luôn tác động với nhau, đấu tranh
với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và
phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Đấu tranh của các mặt đối lập có nhiều hình thức
tuỳ theo những điều kiện cụ thể.
+Với tư cách là 2 trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa 2 mặt đối lập,
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ biện chứng với nhau. Sự
thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im tương đối của sự vật, đấu tranh quan hệ
với vận động tuyệt đối của sự vật. Trong quan hệ như vậy thì thống nhất là tương đối
và đấu tranh là tuyệt đối.
Cần phải thấy trong sự thống nhất đấu tranh có đấu tranh, đấu tranh diễn ra trong
suốt quá trình tồn tại và phát triển của sự vật. Theo Lênin: Phát triển là một cuộc đấu


12

tranh giữa các mặt đối lập. Song, đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới chuyển hoá các
mặt đối lập phải trên cơ sở điều kiện của sự thống nhất của các mặt đối lập. Phải hiểu
sự chuyển hoá của các mặt đối lập một cách biện chứng, không máy móc cơ giới.
Như vậy, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất giữa
tính ổn định và tính thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định
tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do vậy mâu thuẫn chính là nguồn gốc động
lực của sự vận động và phát triển.
* ý nghĩa:
-Để nhận thức và cải tạo sự vật hiện tượng, việc nhận thức mâu thuẫn của nó là cực
kỳ quan trọng.
-Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét toàn diện các mặt đối lập, trong đó coi trọng
việc đánh giá đúng tính chất và vai trò của từng mặt đối lập và của các mâu thuẫn
trong từng điều kiện cụ thể.

-Để giải quyết mâu thuẫn tốt phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn,
tìm phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ
chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn thực tế. Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải
có phương pháp giải quyết khác nhau.
-Phê phán những quan điểm sai trái tuyệt đối hoá hoặc coi nhẹ một mặt nào trong
mâu thuẫn, chủ quan duy ý chí trong nhận htức và giải quyết mâu thuẫn.
-Vận dung giải quyết mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong quan hệ đối ngoại một
cách sáng tạo. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ phải thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sánh đối ngoại rộng mở,
đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế... Viêt Nam là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế
và khu vực. Nguyên tắc quan hệ là: Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng
vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình; tôn
trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi; chủ động tham gia cuộc đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm
mưu thủ đoạn can thiệp , xâm phạm lợi ích của dân tộc


13

QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
Đây là một quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó khái quát xu hướng
đi lên của sự phát triển, vạch rõ mối liên hệ nội tại giữa cái cũ và cái mới trong quá
trình phát triển. Nhận thức được những nội dung cơ bản của nó không những có ý
nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa rất cơ bản trong việc vận dụng vào thực tiễn.
Nội dung quy luật này như sau: Sự phát triển của sự vật là quá trình cái mới phủ
định cái cũ. Cái mới vừa loại bỏ cái cũ, vừa kế thừa những cái tích cực trong lòng cái
cũ, theo cơ chế phủ định của phủ định. Con đường đi lên trong sự phát triển, không
phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc. Cái mới là cái tất thắng.

Phân tích nội dung quy luật qua những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất: Theo quan điểm của triết học Mác, để có sự phát triển thì tất yếu phải có sự
phủ định biện chứng. Nói một cách khác phủ định biện chứng là một mắt khâu tất yếu dẫn
đến sự phát triển. Mác nói: “không có lĩnh vực nào lại có sự phát triển mà không phủ định
những hình thức đã có từ trước”
phủ định biện chứng trước hết phải mang tính khách quan nghĩa là sự phủ định
diễn ra do việc giải quyết mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật. Chứ không phải là do
sự áp đặt từ bên ngoài vào. Đặc trưng cơ bản nhất của phủ định biện chứng đó là tính
kế thừa nghĩa là phủ định không phải chỉ đơn giản là việc phá hủy hoàn toàn cái
cũ,không phải là sự chặt đứt hoàn toàn phát triển. Mà trái lại nó bao hàm việc kế thừa
những hạt nhân hợp lý, trong lòng cái cũ. Nó nối liền cái mới với cái cũ trong quá trình
phát triển, chính vì thế đây là sự phủ định để khẳng định sự phát triển thế giới hiện
thực.
Thứ hai: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, sự phát triển thông
qua những lần phủ định biện chứng mang tính chu kì. Điều này có nghĩa là:
+ Cái mới ra đời, không chỉ thông qua những lần phủ định liên tiếp với tính chất
giống hệt nhau, mà trái lại phải thông qua một số lần phủ định nào đó đủ hợp thành
một chu kỳ: từ khẳng định đến phủ định và từ phủ định đến phủ định của phủ định, chỉ
đến đây 1 cái mới đúng nghĩa của nó mới ra đời, sự vật dường như quay trở lại cái ban
đầu.
Số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều ít khác nhau. Nhưng về thực chất
bao giờ cũng có thể quy về 2 lần phủ định cơ bản đó là phủ định bản chất lần thứ nhất


14

và phủ định biện chứng lần 2, 2 lần phủ định này có vai trò và tính chất hết sức khác
nhau.
Nếu phủ định lần thứ nhất là mở đầu cho một chu kỳ, thì phủ định lần thứ 2 lại
kết thúc một chu kỳ. Nếu như phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật hiện tượng trở

thành cái đối lập với cái ban đầu, thì phủ định lần thứ 2 lại làm cho sự vật hiện tượng
dường như trở lại cái ban đầu nhưng ở giai đoạn cao hơn. Nếu như phủ định lần thứ
nhất sự kế thừa mới mang tính chất phiến diện, thì phủ định lần thứ 2 sự kế thừa đã
mang tính chất toàn diện.
Ví dụ: toàn bộ chế độ chiến hữu tư nhân về TLSX (chế độ chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản) đóng vai trò phủ định lần thứ nhất nó làm cho các xã hội này đối
lập với XH cộng sản nguyên thủy. Thì phủ định lần thứ 2 là cách mạng XHCN lại làm
cho XH dường như trở lại xã hội cộng sản nguyên thủy nhưng với một trình độ cao
hơn rất nhiều.
Thứ ba: Chính do cơ chế trên đây quy định mà con đường đi lên trong sự phát
triển không thể là một đường thẳng, trái lại quanh co phức tạp. Lênin dùng hình ảnh đó
là con đường phát triển theo hình thức “xoáy ốc”. Điều này có nghĩa là phát triển là
một khuynh hướng thông qua nhiều giai đoạn. Chứ không phải là mang tính trực tuyến.
Phát triển là một quá trình phức tạp quanh co vừa có sự kế thừa vừa có sự lập lại, vừa có sự
tiến lên và do đó có thể có sự thụt lùi đôi khi rất lớn.
( Ví dụ: sự phát triển của CNXH nó vừa có sự kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đạt được trong XHTB vừa như là lập lại những nguyên tắc của XH cộng sản
nguyên thủy đồng thời lại có những bước tiến lên vượt xa tất cả của tất cả xã hội trước
đây kể cả XHTB, nhưng trong quá trình phát triển ấy, CNXH vẫn có thể gặp phải
những bước quay, những khủng hoảng, sự thụt lùi như thời gian vừa qua chúng ta đã
thấy.)
Mặc dù vậy phủ định của phủ định bao giờ cũng đem đến sự ra đời cái mới cái
tiến bộ. Cái mới ra đời là tất yếu bởi vì nó xuất hiện phù hợp với quy luật của tiến trình
phát triển sự vật và quá trình ấy cũng là một quá trình liên tục nối tiếp nhau của các
chu kỳ phát triển. Cái mới ra đời lúc đầu có thể còn non yếu nhưng nó sẽ phát triển và
trở thành cáI vô địch.
* Ý nghĩa:


15


Đây là cơ sở xác định quan điểm kế thừa đúng đắn, kế thừa có chọn lọc và phát
triển.Cần phải kiên quyết chống lại sự phủ định sạch trơn thái độ chối bỏ quá khứ, hư
vô lịch sử, cũng như chủ trương kế thừa vô nguyên tắc trong quá trình nhận thức và
hoạt động thực tiễn, đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay.
+ Phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới, tạo điều kiện cho cái mới ra đời một
cách hợp quy luật thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
+ Đây chính là cơ sở lý luận khoa học giúp ta hiểu được sự đúng đắn trong quan
niệm của Đảng ta thực chất quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN lên thẳng XHCN
như nước ta hiện nay.
Đảng ta xác định thực chất bỏ qua là bỏ qua QHSX và KTTT TBCN với tính cách
là cái thống trị. Bởi vì quan hệ sản xuất TBCN và KTTT TBCN đã là cái cũ, cái lạc
hậu, dứt khoát bị phủ định.Trong quá trình bỏ qua ấy ta vẫn kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đạt được trong XHTB đặc biệt là thành tựu về KHCN, thành tựu về quản
lý nền kinh tế, quản lý xã hội.
QUY LUẬT LƯỢNG - CHẤT
Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó vạch ra
cách thức trạng thái của sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng.
Nội cơ bản của quy luật chỉ rõ: bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và
lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi
căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời lại tạo điều kiện và
quy định sự biến dổi về lượng... cứ như vậy sự vật vận động và phát triển không ngừng
Làm rõ nội dung quy luật qua phân tích các điểm:
+Mọi sự vật đều có mặt lượng và chất của nó. Lượng theo quan điểm duy vật
biện chứng chính là những tính quy định vốn có của sự vật biểu thị số lượng, quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vật và phát triển cũng như của các thuộc tính của nó.
+Còn chất chỉ những tính quy định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng,
là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải cái khác. tổng
hợp các thuộc tính căn bản tạo thành chất căn bản của sự vật. Chất của sự vật không
những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn bởi cấu trúc của sự vật,

bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó.


16

+Sự thống nhất giữa chất và lượng là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Lượng
thường xuyên vận động phát triển cách mạng, chất tương đối ổn định. Chất và lượng
không tách rời nhau, một chất nhất định trong sự vật có lượng tương ứng của nó.
+ Sự phát triển của sự vật đi từ sự biến đổi dần dần về lượng đến một mức độ
nhất định đủ phá vỡ giới hạn “độ” (độ là giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng
chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật), làm cho chất cũ mất đi, chất mới ra đời.
Điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng làm thay đổi về chất của sự vật gọi là điểm nút.
Quá trình phát triển của sự vật tạo thành đường nút của những quan hệ về độ. Giai
đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra đựơc
gọi là bước nhảy. Bước nhảy có nhiều hình thức phong phú, đa dạng tuỳ theo tính chất
của sự vật với những mâu thuẫn vốn có của nó và những điều kiện cụ thể.
+Khi chất mới ra đời, xuất hiện một hệ thống những quan hệ mới của sự vật, tạo
điều kiện làm thay đổi nhịp điệu, quy mô, tốc độ vận động của lượng của sự vật. Đến
một mức độ nhất định lại làm thay đổi chất của sự vật...chính vì thế mối quan hệ lượng
chất trở thành quy luật vận động phát triển phổ biến của sự vật trong thế giới.
Ý nghĩa:
- Nhận thức sự vật phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó
- Kiên trì tích luỹ về lượng, kịp thời chuyển từ thay đổi về lượng thành chất khi
đủ điều kiện
- Phê phán bệnh hữu khuynh và tả khuynh trong nhận thức và cải tạo xã hội,
trong tiến hành cách mạng.
- Cơ sở xem xét công cuộc đổi mới toàn diện đời sống xã hội theo đường lối của
Đảng.
THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN
Các quan điểm ngoài mácxít về thực tiễn

+ CNDT quan niệm hoạt động thực tiễn là hoạt động ý chí tinh thần.
+ CNDV siêu hình đồng nhất hoạt động thực tiễn với một lĩnh vực hay một hình
thức hoạt động thực tiễn.
* Quan điểm của CNDVBC:
1. Khái niệm thực tiễn


17

Thực tiễn là hoạt động vật chất của con người có tính lịch sử xã hội, nhằm cải
tạo tự nhiên, xã hội và tư duy.
Thực tiễn là động vật chất, hoạt động diễn ra ngoài đầu óc, được lý luận, tư
tưởng dẫn dắt, bằng các giác quan người ta có thể nhận biết được. Thực tiễn, tác động
trực tiếp vào thế giới khách quan bằng các phương tiện vật chất, có khả năng cải biến
thế giới khách quan trên hiện thực.
Thực tiễn có tính khách quan, do nhu cầu của con người. Thực tiễn có tính lịch
sử - xã hội và thực tiễn có tính mục đích.
. Các hình thức cơ bản của thực tiễn
- Hoạt động sản xuất vật chất.
- Hoạt động chính trị xã hội.
- Thực nghiệm khoa học.
2.Vai trò thực tiễn đối với nhận thức.
- Thực tiễn là cơ sở động lực của nhận thức
+ Thực tiễn góp phần sáng tạo ra con người có ý thức, có nhận thức.
+ Thông qua thực tiễn, thế giới khách quan bộc lộ bản chất, quy luật, , giúp cho con
người có khả năng hiểu biết, và khả năng khái quát về tự nhiên, xã hội.
+ Thực tiễn cung cấp ngày càng nhiều công cụ, phương tiện phục vụ cho quá
trình nhận thức.
+ Thực tiễn đề ra nhiệm vụ, phương hướng của nhận thức. Qua thực tiễn các
mâu thuẫn luôn nảy sinh và đặt ra nhu cầu đòi hỏi tri thức, lý luận chỉ đạo, hướng dẫn

thực tiễn.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Con người ngay từ khi mới xuất hiện trên trái đất đã bị quy định bởi nhu cầu
sống, nhu cầu tồn tại. Để sống, để tồn tại con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh.
Những tri thức khoa học – kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi
được vận dụng vào sản xuất vật chất, vào cải tạo xã hội, vào thực nghiệm khoa học- kỹ
thuật.
Nhận thức không phải vì mục đích tự thân. Nhận thức không phục vụ thực tiễn
thì sớm muộn cũng mất phương hướng.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.


18

Mác “chính trong thực tiễn con người phải chứng minh chân lý”.
+ Tri thức cũ, mới đều phải thường xuyên được kiểm nghiệm, bổ sung, phát
triển.
+ Có thể kiểm nghiệm bằng tư duy, bằng lôgíc…; song suy đến cùng cũng phải
qua thực tiễn.
Với tư cách là tiêu chuẩn chân lý, thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính
tương đối.
- Tính tuyệt đối: Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định
chân lý, bác bỏ sai lầm.
Lý luận thuần tuý không thể chứng minh được tính khách quan của tri thức (vì
nếu chỉ = lý luận thuần tuý để chứng minh tính khách quan của tri thức thì có nghĩa là
đã lấy tiêu chuẩn có tính chủ quan làm thước đo chân lý); tính rõ ràng chính xác của tư
duy không là tiêu chuẩn của chân lý; nhiều người thừa nhận cũng không thể lấy đó làm
tiêu chuẩn chung…
Tri thức là kết quả của sự phản ánh hình thức khách quan vào đầu óc con người,
nên muốn kiểm nghiệm được nội dung phản ánh đó có phù hợp với hiện thực khách

quan hay không? tức là tri thức đó có phải là chân lý hay không thì phải dựa trên căn
cứ khách quan ở bên ngoài lĩnh vực nhận thức, đó là thực tiễn
- Tính tương đối được thể hiện ; thực tiễn luôn vận động biến đổi, phát triển, vì
vậy nhận thức của con người cũng luôn phải biến đổi theo cho phù hợp. Do đó, tri thức
của con người luôn luôn phải được bổ sung, phát triển.
Tri thức cũ, mới đều phải mang ra thực tiễn đang diễn ra để kiểm nghiệm, bổ
sung, phát triển.
Chú ý: Có thể kiểm nghiệm tính đúng đắn của nhận thức bằng lôgíc toán, lôgíc
của tư duy v.v.. song đến cùng đều phải qua thực tiễn.
* Ý nghĩa
Đây là cơ sở khoa học để xây dựng quan điểm thực tiễn đúng đắn trong nhận
thức và hoạt động: Phải xuất phát từ thực tiễn để nhận thức,vận dụng và phát triên lí
luận; luôn sâu sát cơ sở để nắm bắt thực chất tình hình, khắc phục bệnh hình thức.
Là cơ sở khoa học để phê phán chủ nghĩa quan liêu, giáo điều, duy tâm, duy ý
chí, ngại khó khăn gian khổ…


19

Là cơ sở thực hiện nguyên tắc thống nhất lý luận thực tiễn, học đi đôi với hành
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin”
Quan điểm triêt học chỉ rõ, lý luận là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát
về bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng.
Theo Hồ Chí Minh “lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin là một khoa học chân chính.
Thực tiễn là hoạt động vật chất của con người có tính lịch sử và xã hội, nhằm
cải tạo tự nhiên xã hội và tư duy.

*Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Cơ sở của nguyên tắc này đi từ vai trò của thực tiễn đối với lý luận và
ngược lại, từ mục đích nghiên cứu lý luận nhằm cải tạo hiện thực của các nhà kinh
điển Mác – Lênin.
* Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau trong đó thực tiễn là
cơ sở, động lực và mục đích nhận thức chân lý, lý luận tác động tích cực trở lại thực tiễn.
+Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức lý luận,Thực tiễn là mục đích của nhận
thức,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
( Xem vai trò của thực tiễn ở vấn đề trước…)
+Vai trò của lý luận đối với thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn chỉ đạt được mục đích khi có lý luận dẫn đường. Theo.
Lênin”Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”.
lý luận( Đặc biệt khi trở thành khoa học) sẽ trang bị cho chủ thể hoạt động thế
giới quan và hệ thống nguyên tắc phương pháp luận khoa học trong nhân thức và hoạt
động thực tiễn
Lý luận vạch phương hướng hoạt động cho con người ( tránh cho con người phải
mò mẫm, lầm đường, lạc hướng…)


20

Lý luận giúp cho chủ thể xác định những mục tiêu cần đạt, tìm ra biện pháp trong
những thời điểm lịch sử cụ thể.
Lý luận có vai trò to lớn trong hình thành phát triển nhân cách ( cả phẩm chất và
năng lực) của chủ thể hành động.
Hồ Chí Minh dã chỉ rõ mối quan hệ giữa lý luận với thực tiễn “Thực tiễn không
có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực
tiễn là lý luận xuông”


CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
V.I.Lênin đã chỉ ra như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ
tư duy trừu tượng tới thực tiễn - đó là con đường biện chứng của quá trình nhận thức
chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
1. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận
thức, chủ thể gắn liền với khách thể, với trình độ phản ánh đi vào các mặt, các bộ phận
bên ngoài của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, là cơ sở cho quá trình nhận
thức tiếp theo, với các hình thức phản ánh: cảm giác, tri giác, biểu tượng.
- Cảm giác: hình thức đầu tiên của nhận thức cảm tính, là sự phản ánh từng mặt,
từng thuộc tính riêng lẻ bên ngoài của sự vật khi các sự vật tác động vào các giác quan
của con người.
- Tri giác: được hình thành từ nhiều cảm giác, tổng hợp các cảm giác, cho ta tri
giác và sự vật, đem lại hình ảnh về nhiều thuộc tính bên ngoài của sự vật.
- Biểu tượng: là hình thức cao nhất của nhận thức cảm tính. Thực chất, biểu
tượng là hình ảnh về sự vật do tri giác đem lại, được lưu giữ, tái hiện nhờ trí nhớ.
Nhìn chung ở giai đoạn trực quan sinh động, nhận thức có tính chất cụ thể, sinh động,
trực tiếp với sự vật, nhưng mới nhận thức được vẻ ngoài sự vật.
Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức,
phản ánh toàn diện bản chất, quy luật bên trong của sự vật, hiện tượng; chủ thể không
gắn liền với khách thể, phản ánh một cách tự giác, gián tiếp trong tư duy, bao gồm các
hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.


21

- Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái quát
những mối liên hệ bản chất, tất yếu mang tính quy luật của một lớp (nhóm) sự vật, hay
các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Khái niệm được hình thành trên cơ sở

thực tiễn và là kết quả của sự khái quát hoá những tri thức do nhận thức cảm tính đem
lại bởi chủ thể nhận thức.
Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng, bằng cách liên kết các khái niệm để
khẳng định hay phủ định một thuộc tính, tính chất nào đó của sự vật, hiện tượng.
Suy luận là sự kết hợp các phán đoán đã biết làm tiền đề để rút ra một phán đoán
mới là kết luận. Tính chân thực của phán đoán mới được rút ra phụ thuộc vào tính chân
thực của các phán đoán làm tiền đề và việc tuân thủ các quy tắc lôgíc của chủ thể nhận
thức.
Như vậy, tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) phản ánh khái quát, gián tiếp sự
vật, hiện tượng. Nó có thể phản ánh được mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong sự
vật.
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) và nhận thức lý tính (tư duy trừu
tượng) là hai giai đoạn khác nhau của nhận thức nhưng thống nhất với nhau. Nhận
thực cảm tính đem lại những tri thức phong phú, đa dạng, sinh động trực tiếp về sự vật.
Nhận thức lý tính giúp con người hiểu sự vật sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Vì vậy, cần
chống chủ nghĩa duy cảm (tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức cảm tính), đồng thời
chống chủ nghĩa duy lý (tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính).
2. Từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn
Con đường biện chứng của quá trình nhận thức không dừng lại ở nhận thức lý tính.
Nhận thức luôn phải dựa trên cơ sở thực tiễn, quay trở về thực tiễn, để được kiểm tra,
khẳng định chân lý và bác bỏ sai lầm, bổ sung và phát triển tri thức mới. Hơn nữa, mục
đích của nhận thức là phải phục vụ thực tiễn.
* Ý nghĩa đối với đổi mới tư duy lý luận ở nước ta hiện nay
Thực chất đổi mới tư duy lý luận ở nước ta hiện nay là trở về với tư duy biện
chứng, tuân theo yêu cầu của con đường biện chứng của quá trình nhận thức.
- Đổi mới tư duy là phải phản ánh khái quát, sát đúng tình hình thực tiễn.
- Quá trình đổi mới không nóng vội mà là một quá trình thường xuyên có sự bổ
sung, phát triển.



22

- Lý luận và thực tiễn luôn có sự thống nhất.
- Chống giáo điều, chủ quan duy tâm, duy ý chí.
- Đòi hỏi vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thực tiễn Việt Nam.


23

PHẦN II. CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SƯ
PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI
Bằng cách là nghiên cứu các lĩnh vực của đời sống xã hội từ nền sản xuất vật
chất và trong tất cả các quan hệ xã hội làm nổi bật những quan hệ sản xuất coi đó là
những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định các quan hệ khác,là “cái sườn” của toàn
cơ thể xã hội và thêm thịt, thêm da cho cái sườn đó”, Mác đã tìm ra phạm trù hình thái
kinh tế xã hội. Dựa vào tư tưởng của các nhà kinh điển và thực tiễn, quan điểm Mác
xít hiện nay xác định:
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của CNDVLS, dùng để chỉ xã hội ở từng
giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Phân tích:
+ Phạm trù hình thái kinh tế xã hội dùng để chỉ những xã hội, kiểu xã hội trên
thực tế. Đây không phải là phạm trù triết học mang tính tư biện thuần tuý chủ quan.
+ Phạm trù hình thái kinh tế xã hội vạch ra cấu trúc của hình thái kinh tế xã hội
có các yếu tố cơ bản (không phải tòan bộ). Đó là: LLSX, QHSX( Tổng hợp những
QHSX hợp thành CSHT), KTTT
+ Phạm trù hình thái kinh tế xã hội chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa các yếu
tố cơ bản của xã hội tuân theo quy luật khách quan. Đó là Quy luật Quan hệ sản xuất

phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
CSHT và KTTT.
+ Phạm trù hình thái kinh tế xã hội chỉ ra vai trò không ngang bằng nhau của
từng yếu tố trong hình thái kinh tế xã hội. Trong đó, LLSX là yếu tố phản ánh trình độ
kinh tế kỹ thuật, năng lực chinh phục tự nhiên của con người và là yếu tố xét đến cùng
quyết định sự vận đông, phát triển của xã hội. QHXS là yếu tố chủ yếu thể hiện bản
chất của chế độ xã hội qua mối quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất.
KTTT là yếu tố chủ yếu thể hiện bộ mặt đời sống tinh thần của xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận của phạm trù hình thái kinh tế xã hội
- Phạm trù này là phạm trù cơ bản, nền tảng của CNDVLS


24

- Là cơ sở phương pháp luận để nhận thức xã hội và cải tạo xã hội: coi trọng 3
yếu tố, 2 quy luật
- Là cơ sở xác định mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường thực hiện:
+Xã hội do nhân dân lao động làm chủ
+ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực hưởng
theo lao động có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và phát triển toàn diện.
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước
QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
Sự vận động thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế, xã hội luôn tuân theo
quy luật xã hội khách quan vốn có của nó không lệ thuộc vào ý thức con người. Trong
hệ thống quy luật ấy thì quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ của
lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất, giữ vai trò quyết định. Nhận thức đúng nội

dung cơ bản của quy luật này không những có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận mà còn có
ý nghĩa to lớn về mặt thực tiễn, nhất là thực tiễn đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nội dung quy luật: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là 2 mặt của quá
trình sản xuất vật chất xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, LLSX
quyết định QHSX, QHSX có tác động trở lại to lớn đối với LLSX. Yêu cầu phát triển
nền sản xuất xã hội đòi hỏi phải có sự thống nhất (phù hợp) giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất.
QHSX là mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực sản xuất vật chất của
xã hội, bao gồm quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất,
trong tổ chức và phân công lao động xã hội và sự phân chia của cải lao động sản
xuất.Trong đó quan hệ giữa người ta với nhau đối với tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội và giữ vai trò quyết định nhất xét đến cùng đối với tất cả các mối quan hệ còn lại.


25

Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, phản ánh trình
độ chinh phục tự nhiên của con người, đó là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động
(với kỹ thuật, kỹ xảo, kỹ năng lao động của họ) và tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ
sản xuất. Trong đó người lao động luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong lực lượng sản
xuất của xã hội.
Tính chất của lực lượng sản xuất, tức là người ta nói đến tính chất xã hội hoá hay
là tính chất cá nhân của công cụ lao động và sản phẩm lao động. Còn nói đến trình độ
của lực lượng sản xuất là người ta nói đến trình độ của người lao động và công cụ lao
động.
Sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ chúng
đều là 2 mặt của quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Trong quá trình ấy lực lượng
sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, thiếu một
trong hai mặt này thì xã hội không thể sản xuất được.

Sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là sự thống nhất
trong một quan hệ kép. Trước hết các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất cũng như các
yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất phải thống nhất (phù hợp) với nhau. Sau đó quan
hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ của LLSX.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với LLSX là sự phù hợp biện chứng của hai
mặt đối lập nhau trong phương thức sản xuất. Trong thực tế không phải khi nào quan
hệ sản xuất được thiết lập cũng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng
sản xuất, cho nên sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là phù hợp
chứa đựng mâu thuẫn. Vấn đề tiếp còn lại là ở chỗ người ta phát hiện và giải quyết
mâu thuẫn ấy như thế nào cho hiệu quả.
Tiêu chí đánh giá sự phù hợp của QHSX với LLSX phải dựa vào nhiếu yếu tố cả về
mặt kinh tế và xã hội. Trong đó, phải căn cứ chủ yếu vào sự phát triển năng xuất, chất
lượng, hiệu quả của nền sản xuất vật chất (cả trước mắt và lâu dài)
Sự thống nhất (phù hợp) giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là sự phù hợp
của 2 mặt đối lập có vị trí vai trò, không ngang bằng nhau. Trong đó lực lượng sản
xuất là yếu tố năng động nhất, luôn biến đổi, giữ vai trò là nội dung, còn quan hệ sản
xuất thì ổn định hơn so với lực lượng sản xuất, giữ vai trò là hình thức xã hội của sản
xuất.Lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định cả về mặt nội dung,cả về tính chất cũng


×