Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

HỆ THỐNG ĐỀ THI ĐÁP ÁN 12 CAU TU TUONG HO CHI MINH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.76 KB, 101 trang )

ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC LÃNH TỤ CỦA ĐẢNG
-------------------------------ĐÁP ÁN ĐỀ THI KẾT THÚC MÔN HỌC
DÀNH CHO HỆ CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

LỚP: CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN THI: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Thời gian làm bài: 150 phút (Không kể thời gian chép đề)

Đáp án Câu 1: Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung luận điểm của Hồ
Chí Minh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”. (7 điểm)
Trong hệ thống luận điểm cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có một
luận điểm lớn mang tầm chân lý thời đại mà giá trị và sức sống của nó còn mãi
với tiến trình phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là đối với các dân tộc
thuộc địa. Đó là luận điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Để khái quát được luận
điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải trải qua gần 50 năm hoạt động cách
mạng, trong đó có 30 năm ra nước ngoài tìm đường cứu nước, 18 năm trực tiếp
lãnh đạo cách mạng Việt Nam chống thực dân, phong kiến, giành độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam mới do nhân dân lao
động làm chủ.
Vậy, cách mạng vô sản là gì? tại sao con đường cách mạng vô sản là duy
nhấtđúng? xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nào mà Ngườiđã lựa chọn con
đường đó làm con đường dẫn tới độc lập, hoà bình, ấm no, hạnh phúc của nhân
dân ta? Và nhân dân ta đã vận dụng tư tưởng này làm cơ sở cho quá trình tiến
lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như thế nào?
1. Cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc
- Về cách mạng vô sản:
Trước hết, theo định nghĩa thì cách mạng vô sản là cuộc cách mạng nhằm


thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa, trong cuộc cách mạngđó, giai cấp công nhân là
giai cấp lãnhđạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.

1


Mục tiêu của cách mạng vô sản là giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng là giai cấp công nhân
phảiđoàn kết với những người lao động khác thực hiện lật đổ chính quyền của
giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột. Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cuộc cách
mạnglà giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động vào
công cuộc tổ chức một xã hội mới về mọi mặt, thực hiện xoá bỏ tình trạng người
bóc lột người để không còn tình trạng dân tộc nàyáp bức, bóc lột dân tộc khác.
- Về cách mạng giải phóng dân tộc:
Cách mạng giải phóng dân tộc là cuộc cách mạng nhằm lật đổách thống
trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của
nhân dân.
Vậy, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải là
hai khái niệm đồng nhất. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh của đất nước ta công cuộc
giải phóng dân tộc lại gắn liền với cách mạng vô sản. Sau đây là một vài phân
tích để chỉ ra sự gắn kết tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
vô sảnở Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác chỉ cho các dân tộc bịáp bức thấy rằng, thờiđại đế quốc
chủ nghĩa “ tất nhiên cũng phải lại sản sinh ra và nuôi dưỡng cái chính trị đấu
tranh chốngáp bức dân tộc và cái chính trị đấu tranh của giai cấp vô sản chống
giai cấp tư sản; bởi vậy, thời kỳấyắt phải làm cho: một là, những cuộc khởi
nghĩa và những cuộc chiến tranh dân tộc cách mạng, hai là những cuộc chiến
tranh và những cuộcnổi dậy của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, ba là, sự
kết hợp giữa hai hình thức chiến tranh cách mạngđó, trở nên có khả năng xảy ra

và không tránh khỏi.”
2. Cơ sở lý luận:
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng các dân tộc đang bị
chủ nghĩa thực dân phương Tây áp bức muốn được giải phóng phải đi theo con
đường cách mạng vô sản. (1,0 điểm)
Theo quan điểm của CNMLN, chỉ trên lập trường của giai cấp vô sản,
cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.
Theo Mác -Ăngghen, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích
của giai cấp mình với các lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ
có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập
thật sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác.
Thời đại Lênin, khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, cách
mạng giải phóng dân tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới
phát triển vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho
rằng, cách mạng vô sản ở chính quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên
minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Theo Lênin đã bổ
2
2


sung khẩu hiệu của Mác thành: "vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức,
đoàn kết lại."
- Cơ sở thực tiễn: (2,0 điểm)
+ Sự thất bại của các phong trào yêu nước ở Việt Nam từ nửa sau thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX.( 0,5 điểm)
Đến cuối thế kỉ XIX các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần
Vương” do các sĩ phu văn than lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Điều này
chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời trước hoàn cảnh hiệm vụ của lịch
sử. Sự khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã khiến cho xã hội Việt Nam có sư
phân hóa và chuyển biến rõ rệt,giai cấp công nhân,tiểu tư sản và tư sản xuất hiện

tạo ra tiền đề bên trong phong trào yêu nước giải phóng dân tộc. Phát huy truyền
thống yêu nước của dân tộc các sĩ phu yêu nước tiên bộ tiêu biểu như Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh đã tổ chức vận đông cuộc đấu tranh yêu nước chống
Pháp. Song chủ trương của hai bậc tiền bối đều đã thất bại. Còn con đường của
Hoàng Hoa Thám thì mang nặng “cốt cách phong kiến” chưa phải là hương đi
đúng đắn. Phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế ki
XIX đầu thế kỷ XX thất bại chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc
phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan là
giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Từ đó, phong trào yêu nước
của nhân dân ta muốn thắng lợi thì cần có một con đường mới.
+ Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam theo con đường cách mạng
vô sản. (0,5 điểm)
Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các
nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học
thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng
vô sản. Từ đó, Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
Có được chiến lược giải phóng dân tộc đúng đắn, được Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì lãnh đạo thực hiện nên dân tộc Việt Nam đã
làm Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời. Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh công bố trước quốc dân đồng bào và
nhân dân thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà
nước của dân, do dân, vì dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
+ Sự thành công chưa đến nơi của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản
điển hình trên thế giới – cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp; thất bại của các cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới tính đến đầu thế kỷ XX. (0,5 điểm)
Cách mạng Pháp 1789 cũng như cách mạng Mỹ 1776 đều là cách mạng
tư sản, cách mạng không đến nơi, tiếng là Cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì
nó tước lục công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa.
+ Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917. (0,5 điểm)
3

2


Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã lật đổ nhà nước tư
sản, thiết lâp chính quyền Xô Viết mở ra một kỉ nguyên mới cho lịch sử loài
người và đã thức tỉnh các dân tộc châu Á cũng như toàn thế giới. Thắng lợi của
cách mạng tháng Mười Nga đã dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Xô Viết(1922). Tiếp đó là sự ra đời của quốc tế Cộng sản(3-1919) đã
làm cho phong trào công nhân ở các nước có được mối quan hệ mật thiết với
nhau cùng đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
- Nội dung: (4,0 điểm)
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách
mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ
đó, Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó. Con đường
cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm những nội dung
chủ yếu sau:
+ Con đường cách mạng Việt Nam nhằm thực hiện độc lập dân tộc
và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (1,0 điểm).
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là mục tiêu cao cả, bất
biến của toàn Đảng, toàn dân ta. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát
vọng của toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo
ấm cho mọi người dân Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực
hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc
lập dân tộc. Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam là độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc
mới bền vững, hạnh phúc tự do của nhân dân mới đạt được thực sự, người lao
động mới được hoàn toàn giải phóng.
+ Trước hết phải tập trung cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc (1,0
điểm).

Hồ Chí Minh đặt con người trong lòng dân tộc, muốn giải phóng con
người trước hết giải phóng dân tộc và giải phóng dân tộc để giải phóng con
người. Hồ Chí Minh khẳng định điều đó một cách dứt khoát khi nói lên khát
vọng của mình: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc tư tưởng nhân văn của chủ nghĩa Mác Lê-nin là luôn đấu tranh để xây dựng một thiên đường trên hiện thực cho mọi
người. Đó chính là tìm ra con đường cách mạng khoa học để giải phóng dân tộc,
xây dựng đất nước mà “tự do của mỗi người là điều kiện đảm bảo tự do của tất
cả mọi người”.
+ Phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo (1,0 điểm).
Quyết định đi theo con đường vô sản, cách mạng Việt Nam muốn giành
thắng lợi, Hồ Chí Minh cho rằng phải có một đảng chân chính lãnh đạo. Người
4
2


nói: “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mạng
mới thành công… Đảng có vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Để đảm bảo sau khi cách mạng thành công,
đất nước có nền độc lập hoàn toàn, đa số nhân dân lao động được hưởng ấm no
hạnh phúc thì cách mạng phải do Đảng cộng sản lãnh đạo. Đảng phải được xây
dựng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, đượ vũ trang bằng chủ nghĩa
Mác-Lênin.
+ Lực lượng cách mạng phải là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa
trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và trí thức (1,0 điểm).
Nguyễn Ái Quốc viết: “Cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của
cả dân chúng chứ không phải một hai người” vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ,
nông, công, thương đề nhất trí chống lại cường quyền”. Nhưng trong sự tập hợp

rộng rãi đó, Người nhắc nhở không được quên cái cốt của nó là công – nông.
Phải nhớ: “Công nông là người chủ cách mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”
Nghiên cứu điều kiện thực tiễn của Việt Nam, một nước thuộc địa nữa
phong kiến,với dân số hơn 95% nông dân. Nông dân là những người chịu nhiều
tầng áp bức, bị bần cùng hóa, nên họ luôn có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham
gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của
giai cấp nông dân.
Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhưng trước sau Hồ
Chí Minh vẫn luôn khẳng định rằng, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng, Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công nông làm nòng
cốt cho Mặt trận dân tộc thống nhất.
Cùng với việc xây dựng liên minh công nông, Hồ Chí Minh chủ trương
vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân
mất nước, đang bị làm nô lệ, vào Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, nhằm huy
động sức mạnh của toàn dân vào cuộc đấu tranh giành độc lập tự do. Người viết:
“Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân
Việt, v.v… để kéo học vào phe vô sản giai cấp”

Đáp án Câu 2: Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc trong giai đoạn hiện nay (3 điểm)
Luận điểm "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản" là một luận điểm nền tảng của cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; định
hướng phương hướng, đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm
5
2


1930, trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, Đảng đã đề ra quan điểm "làm tư

sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Quan
điểm này được Đảng ta phát triển trong Luận cương chính trị tháng 10 năm
1930, đặc biệt là được thể hiện rất rõ trong Đại hội II của Đảng năm 1951,
khẳng định cách mạng Việt Nam mang tính chất cách mạng dân tộc, dân chủ,
nhân dân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiếp tục khẳng định con
đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản với việc xác định
nhiệm vụ của cách mạng cả nước là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, giải phóng miền Nam, đưa miền Bắc
lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước, hoàn thành công cuộc giải
phóng dân tộc, năm 1976, tại Đại hội IV Đảng ta chủ trương đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hôịnăm 1991bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng tiếp tục
khẳng định con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã
hội; khẳng định mục tiêu lớn của thời đại là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc
sống ấm no tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước trên thế giới”.
- Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc. (1.0 đ).
Đặt cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong quỹ đạo
của cách mạng vô sản và là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt

Nam. Người khẳng định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Cách mạng giải phóng
dân tộc phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Đường lối cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã
tạo nên sức mạnh tổng hợp và phát huy tác dụng, đưa tới những thắng lợi rực
rõ của cách mạng nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được hình thành
và phát triển trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là sự sáng tạo của Hồ Chí
Minh, mang tinh thần cách mạng và khoa học, được kiểm chứng trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Tuyệt nhiên đó không
6
2


phải là sự vay mượn, chắp vá hay “nhập khẩu cách mạng”. Những quan điểm
của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc thấm đượm khát vọng của
nhân dân Việt Nam về độc lập, tự do, công bằng, văn minh, ấm no, hạnh phúc.
Đó là đòi hỏi chính đáng của tất cả các dân tộc trong đó có Việt Nam.
Việc Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là vì,
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới khỏi ách nô lệ. Bằng việc nêu lên luận điểm mang tầm chân lý thời đại, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú lý luận Mác - Lênin về cách mạng vô sản ở
các nước thuộc địa, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên phổ biến đối với mọi
dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người. Trong bài “Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh”,
nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị - Trường Đảng Êtiôpia Têshôm
Kêbêđe đã viết: “Những tư tưởng của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng to lớn trong
việc khuyến khích và cung cấp tri thức cho các lãnh tụ của giai cấp công nhân và
các nhà cách mạng ở Á, Phi và Mỹ Latinh giải quyết một cách triệt để vấn đề

dân tộc”.
Những cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc, cả lý luận và thực tiễn bổ sung cho kho tàng lý luận cách mạng thế giới, của
chủ nghĩa Mác-Lênin, mãi mãi là niềm tự hào cho dân tộc ta tiếp tục tiến lên.
- Tình hình quốc tế và trong nước tác động đến việc bảo vệ độc lập,
chủ quyền đất nước hiện nay (1.0 đ).
Hiện nay, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp, có nhiều thuận lợi, đan xen những thách thức. Nguy cơ các thế lực phản
động trong và ngoài nước đe dọa đến nền độc lập vẫn còn. Trên thế giới có
những thay đổi căn bản, chủ nghĩa thực dân cũ đã diệt vong, nhưng chủ nghĩa
thực dân mới vẫn còn đang hiện hữu, các nước đế quốc đang cố thích ứng và
tiếp tục mưu đồ về khu vực ảnh hưởng, về thị trường lợi nhuận. Trong quá
trình vận động, hội nhập toàn cầu hóa, phải luôn nhớ tới nguyên tắc quyền lợi
của dân tộc, giai cấp và không bao giờ được ảo tưởng trong quan hệ hợp tác
với các nước khác. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng
định: Những thành tựu đạt được sau hơn 25 năm đổi mới là to lớn và rất quan
trọng, làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Đồng thời, Đại hội
cũng chỉ rõ: Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước
những thời cơ và thách thức to lớn mà chúng ta phải chủ động đón lấy để vượt
qua thách thức, nắm lấy thời cơ. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước
tiến lên những thắng lợi mới. Phải khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
và tinh thần dân tộc, tạo điều kiện và phát huy mọi nguồn lực để xây dựng và
bảo vệ đất nước (cả nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài; dân tộc và
quốc tế).
7
2



Do bản chất của mình, ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không từ
bỏ chính sách thực dân xâm lược với nhiều biến tướng mới rất tinh vi và xảo
quyệt nhằm bóc lột các nước kém phát triển, chậm phát triển. Những cuộc chiến
tranh và can thiệp quân sự của các nước phương Tây vào các quốc gia độc lập
có chủ quyền trong những thập niên 90 của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế
kỷ XXI, đặc biệt gần đây, cuộc tấn công quân sự của Liên quân do NATO lãnh
đạo chống Libi, cho dù cố che đậy với những lý do gì, thì về thực chất vẫn là các
cuộc xâm lược nhằm mục đích phân chia lại thị trường thế giới, giành giật tài
nguyên, môi trường, duy trì hoặc áp đặt ảnh hưởng của họ lên các nước đang lựa
chọn con đường phát triển của dân tộc mình, ngăn cản quá trình vận động, phát
triển lên chủ nghĩa xã hội của các quốc gia đã giành được độc lập, buộc các quốc
gia này phải phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản.
Bài học lịch sử trong thế kỷ XX và thập kỷ đầu của thế kỷ XXI cảnh tỉnh
chúng ta rằng, còn chủ nghĩa tư bản là còn nguy cơ bị xâm lược; độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, sự thống nhất đất nước còn bị đe dọa. Do đó, chủ nghĩa tư
bản quyết không phải là sự lựa chọn của nhân loại trong thời đại ngày nay. Chỉ
có đi theo con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội thì độc lập dân tộc mới được giữ vững, nhân dân lao động mới được giải
phóng thực sự. Đó cũng chính là chân lý thời đại mà cách đây 100 năm, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội được ở chủ nghĩa Mác - Lênin trên hành trình đi
tìm đường cứu nước, cứu dân của mình.
Trước hết phải xác định rõ các nguồn lực và nhấn mạnh phải phát huy
tối đa các nguồn nội lực. Nội lực, hiểu một cách toàn diện, bao gồm con
người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đất đai, tài
nguyên, vốn liếng… nhưng tựu trung lại, yếu tố quan trọng nhất, quyết định
nhất vẫn là nguồn lực con người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần của
nó. Chủ nghĩa yêu nước là nguồn lực mạnh mẽ nhất, trong hai cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến thành chủ nghĩa

anh hùng cách mạng vô song, đưa đến mọi thắng lợi của dân tộc ta. Trong sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý báu
ấy cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô
tận để đưa đất nước vượt qua mọi nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên.
- Định hướng bảo vệ (1.0 đ).
Một là, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững được nền độc lập
hoàn toàn, độc lập thực sự của đất nước.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ lịch sử mới. Trước hết là mỗi đảng viên tự
nâng cao trình độ nhận thức chính trị và chuyên môn, trau dồi, rèn luyện đạo
đức để xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.
8
2


Ba là, tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên
minh công – nông – trí, trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực tự cường, “đem tài
dân, sức dân để làm lợi cho dân”.
Bốn là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại. Vừa đấu tranh, vừa xây dựng lực lượng, biết giành thắng lợi từng bước, tạo
thời, lập thế, tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Công cuộc đổi mới, hội nhập, đã và
đang phát triển thuận lợi, thu được những thành tựu to lớn. Sở dĩ đạt được thành
quả như vậy là do Đảng đã vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
khối đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở củng cố khối liên minh công – nông – trí.
Chính vì thế, chúng ta đã phát huy được tiềm năng trí tuệ của đông đảo các tầng
lớp nhân dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
NGƯỜI RA ĐỀ THI


VIỆN TRƯỞNG

Lý Việt Quang

Phạm Ngọc Anh

ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 2
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC LÃNH TỤ CỦA ĐẢNG
-------------------------------ĐÁP ÁN ĐỀ THI KẾT THÚC MÔN HỌC
DÀNH CHO HỆ CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
LỚP: CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN THI: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Thời gian làm bài: 180 phút (Không kể thời gian chép đề)
9
2


Đáp án Câu 1: Trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc. (7 điểm)
Trong toàn bộ di sản tinh thần mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta, tư
tưởng của Người về cách mạng giải phóng dân tộc giữ vị trí, vai trò hết sức quan
trọng. Hơn 80 năm qua, dưới ánh sáng tư tưởng của HCM về CMGPDT, Đảng
là lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng Cách mạng Tháng 8 .1945 thắng
lợi, khai sinh ra nước VNDCCH, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, đem lại hòa hình, thống nhất cho cả dân tộc và bước đầu giành những
thắng lợi quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước. Có nói thể tư tưởng của
HCM về cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành ngọn đuốc soi sáng con
đường CMVN.

Nội dung tư tưởng của HCM về cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm
những vấn đề cơ bản sau đây:
- Mục tiêu, nhiệm vụ, tính chất: (1,5 điểm)
+ Mục tiêu: giành độc lập dân tộc. (0,5 điểm)
CMGPDT nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc
lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.
Đến với Lênin và Quốc Tế III, vì ở đó Người tìm thấy chủ trương giải
phóng dân tộc bị áp bức.
Người xác định mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở các nước thuộc địa
chưa phải là giành quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp, mà phải là lợi ích
chung của toàn dân tộc. Phù hợp với thời đại cách mạng chống CNĐQ.
Tuy nhiên, do tả khuynh, Hội nghị lần thứ nhất BCHTW Đảng 10/1930 đã
phê phán quan điểm của Nguyễn Ái Quốc. Với bản lĩnh cách mạng kiên cường,
bám sát thực tiễn cách mạng Việt Nam, tháng 5/1941, khi Người đã về nước chủ
trì HNBCHTW lần thứ 8, Hội nghị (chuyển hướng cách mạng) đã chủ trương
tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ chia lại ruộng đất “tịch thu của
Việt gian phản quốc” cho dân cày nghèo. Tức chỉ chống kẻ thù của dân tộc, chứ
không phải là giai cấp địa chủ nói chung, nhằm đánh lại kẻ thù dân tộc cả về
chính trị và kinh tế.
Thắng lợi của CMT8, cũng như đại thắng Mùa xuân 1975 trước hết là
thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
+ Nhiệm vụ: Thành lập Đảng cách mạng, tập hợp lực lượng dân tộc, tiến
hành vận động cách mạng, khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của thực dân đế
quốc, giành độc lập dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. (0,5 điểm)
Đối tượng của cách mạng thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ,
càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay
sai phản động. Cách mạng thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ
10
2



nghĩa đế quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xoá bỏ sự tư hữu, sự bóc lột
nói chung.
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất
và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc. Trong
“Đường kách mệnh”, Người phân loại thành 3 cuộc cách mạng: CMTS, CMVS
và CMGPDT. Ở đó Người nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Trong “Cương lĩnh chính trị đầu tiên”
của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo xác định những nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hoá - xã hội, nhưng nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc
giành độc lập dân tộc, nó đã bao hàm một phần công cuộc giải phóng giai cấp,
giải phóng con người. Hội nghị TW8 (5/1941) do Hồ Chí Minh chủ trì kiên
quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó là “nhiệm vụ bức
thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” và chỉ tiến
hành nhiệm vụ đó ở một mức độ thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải
phóng dân tộc. Trong nhiều bài viết, bài nói thời kỳ kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ, Người tiếp tục khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc. “Trường kỳ
kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất độc lập nhất định thành công”.
+ Tính chất: giải phóng dân tộc. (0,5 điểm)
Phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa Hồ Chí Minh nhận thấy, sự phân hoá
giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống như ở các nước tư bản
phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều nhưng đều có
chung số phận là người nô lệ mất nước. Mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu trong xã
hội thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa
thực dân xâm lược và tay sai của chúng. Do vậy, cuộc đấu tranh giai cấp cũng
không diễn ra giống như ở phương Tây. Nếu ở các nước TBCN phải tiến hành
đấu tranh giai cấp, thì các nước thuộc địa trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc.
Để thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc CMGPDT trong

thời đại mới, theo quan điểm của HCM, cần tiến hành các nội dung sau đây:
Thứ nhất, CMGPDT muốn giành được thắng lợi phải đi theo con
đường CMVS.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB chuyển sang CNĐQ, đẩy mạnh
chiến tranh xâm lược, tiến hành nô dịch, áp bức các DT thuộc địa. Trong bối
cảnh năm 1917, CM tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một thời đại mới: Thời
đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy, tất cả các loại
hình CM khác (kế cả loại hình CMDCTS, do giai cấp tư sản lãnh đạo) đều
không fù hợp với thực tiễn thời đại. Chính vì vậy, muốn làm CMGPDT thắng
lợi, giai cấp vô sản trên thế giới phải đoàn kết lại, đặt dưới sự chỉ huy thống nhất
của bộ tham mưu của PTCM thế giới: Quốc tế Cộng sản. HCM kết luận, CMVN
là 1 bộ phận của cách mạng thế giới, do đó khi tiến hành công cuộc CMGPDT,
đồng thời góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới phát triển.
Nghiên cứu về các cuộc CM trên thế giới: CM tư sản Anh, Pháp, Mỹ đặc
biệt là CM Tháng Mười Nga do V.I. Lênin lãnh đạo, HCM đi đến kết luận quan
11
2


trọng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có CM Nga là thành công đến nơi…CM Nga
dạy cho chúng ta rằng, muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng làm gốc,
phải có đảng bền vững, phải bền gan, phải hi sinh, fải thống nhất. Từ những bài
học của CM Tháng Mười Nga, Người khẳng định “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Người đã quyết định đi theo con đường của CM Tháng Mười Nga, con đường
cách mạng vô sản, theo CN Mác – Lênnin. Đây là quyết định đánh dấu sự
trưởng thành vượt bậc về mặt nhận thức tư tưởng CM của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc, đồng thời mang tính bước ngoặt căn bản đối với CMVN.
Thứ hai, CMGPDT muốn giành được thắng lợi phải do Đảng cộng
sản lãnh đạo

Theo HCM, CMVN muốn giành thắng lợi, trước hết phải có một đảng
chân chính lãnh đạo. Người chỉ rõ : “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách
mệnh…Đảng có vững cách mệnh mới thành công…Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm nòng cốt…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là CN Lênin”. Để đảm
bảo sau khi CM thành công, đất nước có nền độc lập hoàn toàn, đa số nhân dân
lao động được hưởng ấm no hạnh phúc thì CM phải do ĐCS lãnh đạo. Đảg đó
phải được XD theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lệnin, được vũ trang
băng CN Mác – lênin.
Thứ ba, CMGPDT là sự nghiệp đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh công nông làm nòng cốt.
Trên cơ sở kế thừa, vận dụng quan điểm của CN Mác – Lênin vào đk thực
tiễn VN, HCM xác định: CMGPDT là sự nghiệp chúng cả dân chúng chứ không
phải việc một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “ sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền”. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó,
Người nhắc nhở không được quên cái cốt của nó là công – nông. Phải nhớ:
“Công nông là người chủ cách mệnh…Công nông là gốc cách mệnh”.
Trong điều kiện, hoàn cảnh của các nước thuộc địa, cụ thể như Việt Nam,
một nước thuộc địa nữa phong kiến, với hơn 95% dân là nông dân thì cuộc
CMGPDT phải có sự tham gia của giai cấp nông dân, và là sự nghiệp của toàn
dân.
HCM chỉ ra rằng; bộ phận trung tâm của lực lượng CMGPDT là công
nhân, nông dân và khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
HCM phát hiện, đánh giá cao vai trò, sứ mệnh và khả năng thực thi nhiệm vụ
CMGPDT của giai cấp nông dân ở các thuộc địa nói chung và g/c nông dân Việt
Nam nói riêng. Mặc dù đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của g/c nông dân song
trước sau HCM vẫn luôn khẳng định rằng, g/c côngnhân là g/c lãnh đạo CM,
Đảng phải lãnh đạo XD khối liên minh công nông làm nòng cốt cho Mặt trận
dân tộc thống nhất.
Cùng với việc XD liên minh công nông, xác định: “Công nông là người

chủ cách mệnh…Công nông là gốc cách mệnh”. HCM chủ trương vận động, tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân VN, những người dân mất nước, đang bị
12
2


làm nô lệ vào Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, nhằm huy động sức mạnh
toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập tự do.
Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rai các lực lượng dân tộc
chống đế quốc, HCM vẫn luôn quán triệt quan điểm giai cấp: “Công nông là gốc
cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ là bầu bạn cách mệnh của công
nông. Việc tập hợp, liên kết với các giai tầng trong XH phải được thực hiện theo
nguyên tắc: “Trong khi liên minh với các giai cấp , fải rất cẩn thận, không khi
nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa
hiệp”.
Việc vận dụng sáng tạo và bổ sung phát triển quan điểm của CN Mác –
Lệnin về lực lượng CM trong CMGPDT của HCM, có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc tổ chức, tập hợp XD lựclượng, tiến hành CMGPDT giành thắng
lợi ở VN.
Thứ tư, CMGPDT cần được tiến hành chủ động sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trược cách mạng vô sản chính quốc
Trong phong trào cộng sản và côngnhân quốc tế, nhất là trước khi nổ ra
CM tháng Mưới Nga, luôn tồn tại quan điểm cho rằng, thắng lợi của CM ở các
nước thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của CM vô sản chính quốc.
Năm 1919, khi Quốc tế Cộng sản được thành lập, trong Tuyên ngôn Quốc
tế III vẫn khẳng đinh rằng: “Công nhân và nông dân không những ở An Nam,
Angiểi, Bengan mà cả Ba Tư hay Acmênia chỉ có thể giành được độc lập khi mà
công nhân các nước Anh, Pháp lật đổ được Lôiit Gioocgiơ và Clêmăngô, giành
được quyền về tay mình”.
Căn cứ vào tình hình CMVN và sự phát triển của phong trào CM thế giới,

HCM khẳng định: CM thuộc địa không những không fụ thuộc vào CM vô sản ở
chính quốc mà còn có thể giành thắng lợi trước.
HCM cho rằng, thực hiện thắng lợi CMGPDT ở thuộc địa, không chỉ giải
phóng nhân dân khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân mà còn tạo đk cho cuộc
CM vô sản ở chính quốc. Người nói : “ Trong khi thủ tiêu 1 trong những điều
kiện tồn tại của CNTB là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh
em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải fóng hoàn toàn.
Đây là 1 luận điểm sáng tạo của HCM, có giá trị lýluận và thực tiễn to lớn
đối với phong trào cách mạng thế giới và là sự bổ súng kịp thời vào kho tang
lýluận của CN Mác - Lênin. Đặc biệt đối với CMVN, luận điểm của HCM đã
được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình vận động CMGPDT.
Thắng lợi của CM tháng Tám 1945 ở VN, làm một minh chứng khẳng định luận
điểm của HCM hoàn toàn đúng đắn.
Thứ năm, CMGPDT phải được thực hiện bằng con đường bạo lực,
kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; khởi
nghĩa từng fần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
Căn cứ vào thực tiễn tình hình CM thế giới và thực tiễn VN; nghiên cứu
lý luận về CM vô sản, HCM khẳng định, để cứu nước, giải fóng dân tộc, CMVN
fải tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực: kết hợp khởi nghĩa vũ trang
với đấu tranh chính trị của quần chúng
13
2


Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Các phong trào yêu nước VN diễn ra
theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau. Với phương châm “Pháp Việt đề
huề” Phan Châu Trinh chủ trương dựa vào Pháp để tăng cường tiềm lực đất
nước, , chủ yếu sử dụng hình thức đấu tranh hợp pháp, đấu tranh bằng con
đường hòa bình để giành độc lập dân tộc ở VN. Nhưng đó chỉ là phương fáp
mang tính ảo tưởng, thiếu thực tế và đã thất bại. Vì bản chất của thực dân, đế

quốc là xâm lược, nô dịch và lợi nhuận nên nó sẽ không dễ dàng từ bỏ thị
trường, thuộc địa mà chúng đang bóc lột, thu lợi.
Phan Bội Châu chủ trương bạo động đánh Pháp nhưng lại dựa vào Nhật
để đánh Pháp chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau”, tổ chức
Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học chủ trương phương pháp vũ trang ám
sát…
Tất cả các phong trào yêu nước trên đều thất bại vì thiếu đường lối đúng
đăn, phương pháp cách mạng cách mạng khoa học. Trên cơ sở lý luận và thực
tiễn CMVN, HCM chỉ ra rằng, để cuộc khởi nghĩa vũ trang có thể giành thắng
lợi,phải sử dụng cách mạng bạo lực, kết hợp khởi nghĩa vũ trang với lựclượng
chính trị của quần chúng, coi đó là điểm tựa để phát triển lực lượng vũ trang, tổ
chức các hình thức đấu tranh từ thấp đến cao, từ nhỏ đên lớn, phù hợp với từng
nơi, từng thời kỳ cụ thể.
Trong lãnh đạo CM Tháng 8/1945, từ Hội nghị TW 8 (15/1941), HCM đã
chủ trương tiến hành khởi từng phần trong từng địa phương, tiến tới khởi nghĩa
tới vũ trang giành chính quyền trong cả nước. Người đã chỉ đạo tích cực XD lực
lượng, thời cơ, xây dựng căn cứ địa, mở các lớp huấn luyện cán bộ, xây dựng
các tổ chức chính trị trong quần chúng (các Hội cứu quốc), thành lập Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân… Với sự chủ động, tích cực đón thời cơ khởi
nghĩa, tháng 8/1945, khi thời cơ đến, có lệnh Tổng khởi nghĩa, chỉ trong thời
gian ngắn chưa đầy nửa tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền về tay
nhân dân.
Quan điểm CMGPDT phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết
hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; tiến hành khởi nghĩa từng fần tiến
tới tổng khởi nghĩa đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến giành chính quyền về
tay nhân dân đã được HCM chỉ đạo thực hiện rất linh hoạt và hiệu quả. Trong đó
nổi lên vấn đề quan trọng là XD lực lượng, nhưng vấn đề chọn thời cơ khởi
nghĩa cũng là vđ mang tính quyết định, đem đến thắng lợi.
Tóm lại, HCM đã vận dụng và phát triển sáng tạo của V.I.Lênin về thuộc
địa, hình thành 1 hệ thống luận điểm khá hoàn chỉnh, bao gồm cả đường lối

chiến lược, sách lược và phương fáp tiến hành CMGPDT ở thuộc địa.
Thắng lợi của CM T8/1945 và 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ đã cho thấy tính khoa học đúng đắn sáng tạo của tư tưởng HCM về
CMGPDT ở VN.
Những sáng tạo về lý luận của HCM được thể hiện ở những điểm sau:
- CMVN là 1 bộ phận của CM thế giới, trong thời đại mới fải đi theo quỹ
đạo CM vô sản.
14
2


- CMGPDT có thể nổ ra và giành thắng lợi trước CM vô sản ở chính
quốc, đồng thời tạo đk thuận lợi cho CM vô sản ở chính quốc giành thắng lợi
- Trong đk 1 nước thuộc địa nửa phong kiến như ở nước ta, việc chuẩn bị
về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của ĐCS, việc truyền bá lý luận của
CN Mác, sự kết hợp nhuần nhuyền giữa CN Mác – Lênin, phong trào công nhân
và phong trào yêu nước, thành lập ĐCSVN là một sáng tạo to lớn và quan trọng
của HCM
- Vấn đề XD lực lượng CM, HCM khẳng định, CM là sự nghiệp của toàn
dân. Do đó phải vận động, giác ngộ tất cả các thành phần DT, không phân biệt
đảng fái, g/c, tôn giáo…tham gia CM.
Những sáng tạo về phương fáp: Bằng phương pháp sử dụng CM bạo lực:
Kết hợp khởi nghĩa vũ trang với đấu tranh chính trị của quần chúng; phương
pháp tập hợp rộng rãi lực lượng dân tộc tham gia tổ chức Mặt trận dân tộc thống
nhất; phương fáp XD căn cứ địa CM; phương pháp khởi nghĩa từng phần tiến tới
tổng khởi nghĩa…, HCM đã làm phong phú kho tàng lý luận của phương pháp
CM trong CMGPDT, vì vậy HCM đã được thế giới tôn vinh Anh hùng GPDT.
Đáp án Câu 2: Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc trong giai đoạn hiện nay (3 điểm)
Luận điểm "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường

nào khác con đường cách mạng vô sản" là một luận điểm nền tảng của cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; định
hướng phương hướng, đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm
1930, trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, Đảng đã đề ra quan điểm "làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Quan
điểm này được Đảng ta phát triển trong Luận cương chính trị tháng 10 năm
1930, đặc biệt là được thể hiện rất rõ trong Đại hội II của Đảng năm 1951,
khẳng định cách mạng Việt Nam mang tính chất cách mạng dân tộc, dân chủ,
nhân dân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiếp tục khẳng định con
đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản với việc xác định
nhiệm vụ của cách mạng cả nước là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, giải phóng miền Nam, đưa miền Bắc
lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước, hoàn thành công cuộc giải
phóng dân tộc, năm 1976, tại Đại hội IV Đảng ta chủ trương đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hôịnăm 1991bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng tiếp tục
khẳng định con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã
hội; khẳng định mục tiêu lớn của thời đại là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu,
15
2


nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc
sống ấm no tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong

cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước trên thế giới”.
- Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc. (1.0 đ).
Đặt cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong quỹ đạo
của cách mạng vô sản và là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam. Người khẳng định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Cách mạng giải phóng
dân tộc phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Đường lối cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã
tạo nên sức mạnh tổng hợp và phát huy tác dụng, đưa tới những thắng lợi rực
rõ của cách mạng nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được hình thành
và phát triển trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là sự sáng tạo của Hồ Chí
Minh, mang tinh thần cách mạng và khoa học, được kiểm chứng trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Tuyệt nhiên đó không
phải là sự vay mượn, chắp vá hay “nhập khẩu cách mạng”. Những quan điểm
của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc thấm đượm khát vọng của
nhân dân Việt Nam về độc lập, tự do, công bằng, văn minh, ấm no, hạnh phúc.
Đó là đòi hỏi chính đáng của tất cả các dân tộc trong đó có Việt Nam.
Việc Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là vì,
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới khỏi ách nô lệ. Bằng việc nêu lên luận điểm mang tầm chân lý thời đại, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú lý luận Mác - Lênin về cách mạng vô sản ở
các nước thuộc địa, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên phổ biến đối với mọi
dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai

cấp, giải phóng con người. Trong bài “Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh”,
nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị - Trường Đảng Êtiôpia Têshôm
Kêbêđe đã viết: “Những tư tưởng của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng to lớn trong
việc khuyến khích và cung cấp tri thức cho các lãnh tụ của giai cấp công nhân và
các nhà cách mạng ở Á, Phi và Mỹ Latinh giải quyết một cách triệt để vấn đề
dân tộc”.

16
2


Những cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc, cả lý luận và thực tiễn bổ sung cho kho tàng lý luận cách mạng thế giới, của
chủ nghĩa Mác-Lênin, mãi mãi là niềm tự hào cho dân tộc ta tiếp tục tiến lên.
- Tình hình quốc tế và trong nước tác động đến việc bảo vệ độc lập,
chủ quyền đất nước hiện nay (1.0 đ).
Hiện nay, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp, có nhiều thuận lợi, đan xen những thách thức. Nguy cơ các thế lực phản
động trong và ngoài nước đe dọa đến nền độc lập vẫn còn. Trên thế giới có
những thay đổi căn bản, chủ nghĩa thực dân cũ đã diệt vong, nhưng chủ nghĩa
thực dân mới vẫn còn đang hiện hữu, các nước đế quốc đang cố thích ứng và
tiếp tục mưu đồ về khu vực ảnh hưởng, về thị trường lợi nhuận. Trong quá
trình vận động, hội nhập toàn cầu hóa, phải luôn nhớ tới nguyên tắc quyền lợi
của dân tộc, giai cấp và không bao giờ được ảo tưởng trong quan hệ hợp tác
với các nước khác. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng
định: Những thành tựu đạt được sau hơn 25 năm đổi mới là to lớn và rất quan
trọng, làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Đồng thời, Đại hội
cũng chỉ rõ: Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước
những thời cơ và thách thức to lớn mà chúng ta phải chủ động đón lấy để vượt
qua thách thức, nắm lấy thời cơ. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước
tiến lên những thắng lợi mới. Phải khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
và tinh thần dân tộc, tạo điều kiện và phát huy mọi nguồn lực để xây dựng và
bảo vệ đất nước (cả nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài; dân tộc và
quốc tế).
Do bản chất của mình, ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không từ
bỏ chính sách thực dân xâm lược với nhiều biến tướng mới rất tinh vi và xảo
quyệt nhằm bóc lột các nước kém phát triển, chậm phát triển. Những cuộc chiến
tranh và can thiệp quân sự của các nước phương Tây vào các quốc gia độc lập
có chủ quyền trong những thập niên 90 của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế
kỷ XXI, đặc biệt gần đây, cuộc tấn công quân sự của Liên quân do NATO lãnh
đạo chống Libi, cho dù cố che đậy với những lý do gì, thì về thực chất vẫn là các
cuộc xâm lược nhằm mục đích phân chia lại thị trường thế giới, giành giật tài
nguyên, môi trường, duy trì hoặc áp đặt ảnh hưởng của họ lên các nước đang lựa
chọn con đường phát triển của dân tộc mình, ngăn cản quá trình vận động, phát
triển lên chủ nghĩa xã hội của các quốc gia đã giành được độc lập, buộc các quốc
gia này phải phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản.
Bài học lịch sử trong thế kỷ XX và thập kỷ đầu của thế kỷ XXI cảnh tỉnh
chúng ta rằng, còn chủ nghĩa tư bản là còn nguy cơ bị xâm lược; độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, sự thống nhất đất nước còn bị đe dọa. Do đó, chủ nghĩa tư
bản quyết không phải là sự lựa chọn của nhân loại trong thời đại ngày nay. Chỉ
có đi theo con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
17
2


hội thì độc lập dân tộc mới được giữ vững, nhân dân lao động mới được giải
phóng thực sự. Đó cũng chính là chân lý thời đại mà cách đây 100 năm, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội được ở chủ nghĩa Mác - Lênin trên hành trình đi
tìm đường cứu nước, cứu dân của mình.
Trước hết phải xác định rõ các nguồn lực và nhấn mạnh phải phát huy
tối đa các nguồn nội lực. Nội lực, hiểu một cách toàn diện, bao gồm con
người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đất đai, tài
nguyên, vốn liếng… nhưng tựu trung lại, yếu tố quan trọng nhất, quyết định
nhất vẫn là nguồn lực con người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần của
nó. Chủ nghĩa yêu nước là nguồn lực mạnh mẽ nhất, trong hai cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến thành chủ nghĩa
anh hùng cách mạng vô song, đưa đến mọi thắng lợi của dân tộc ta. Trong sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý báu
ấy cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô
tận để đưa đất nước vượt qua mọi nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên.
- Định hướng bảo vệ (1.0 đ).
Một là, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững được nền độc lập
hoàn toàn, độc lập thực sự của đất nước.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ lịch sử mới. Trước hết là mỗi đảng viên tự
nâng cao trình độ nhận thức chính trị và chuyên môn, trau dồi, rèn luyện đạo
đức để xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Ba là, tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên
minh công – nông – trí, trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực tự cường, “đem tài
dân, sức dân để làm lợi cho dân”.
Bốn là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại. Vừa đấu tranh, vừa xây dựng lực lượng, biết giành thắng lợi từng bước, tạo
thời, lập thế, tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Công cuộc đổi mới, hội nhập, đã và
đang phát triển thuận lợi, thu được những thành tựu to lớn. Sở dĩ đạt được thành
quả như vậy là do Đảng đã vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng

khối đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở củng cố khối liên minh công – nông – trí.
Chính vì thế, chúng ta đã phát huy được tiềm năng trí tuệ của đông đảo các tầng
lớp nhân dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
NGƯỜI RA ĐỀ THI

VIỆN TRƯỞNG
18
2


Lý Việt Quang

Phạm Ngọc Anh

ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 3
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC LÃNH TỤ CỦA ĐẢNG
---------------ĐÁP ÁN ĐỀ THI KẾT THÚC MÔN HỌC
DÀNH CHO HỆ CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
LỚP: CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN THI: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Thời gian làm bài: 180 phút (Không kể thời gian chép đề)
Câu hỏi 1:? (6 điểm)
Đáp án Câu 1: (6 điểm)
- Đặt vấn đề:
Một trong những bài học quan trọng nhất mà Đại hội VIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam rút ra từ quá trình đổi mới là “kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Văn kiện Đại hội IX của Đảng tiếp tục nhấn mạnh:

“Chúng ta một lần nữa khẳng định: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh”. Nói một cách khác học tập, quán triệt, vận dụng sáng
tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là một nhân tố quyết định thắng lợi
của toàn bộ sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo.
Phải quán triệt lời dạy của Hồ Chí Minh: Vận dụng lập trường, quan
điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lê nin để áp dụng sang tạo tư tưởng
HCM vào hoàn cảnh mới phù hợp từng nơi, từng lúc. Đứng vững lên lập trường
giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, mới nhận thức
19
2


và giải quyết đúng đắn, hợp lý những vấn đề giàu nghèo, quan hệ lợi ích giữa
dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế do thực tiễn đặt ra.
- Trước bối cảnh lịch sử mới quan điểm vận dụng, phát triển là: (2đ)
Một là, Lý luận gắn với thực tiễn
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: "Phải nâng cao sự tu dưỡng chủ nghĩa
Mác - Lênin mà tổng kết kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn
những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới dần dần hiểu được quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương
châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình
nước ta".
Cần phải gắn lý luận với thực tế thông qua việc thực tế hóa lý luận và lý
luận hóa thực tế, chỉ có như vậy mới vận dụng sáng tạo và phát triển thành
công, không chỉ tư tưởng Hồ Chí Minh mà cả Chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù
hợp điều kiện mới, yêu cầu mới hiện nay.
Hai là, Quan điểm lịch sử cụ thể
Nghiên cứu để nhận thức hay vận dụng một quan điểm hoặc một câu nói

nào đó của Người cần thiết phải đặt nó trong bối cảnh cụ thể: Nói với ai, nhằm
mục đích gì, do đâu hay vì sai mà nói, viết như thế để không dẫn đến những suy
diễn hay quy kết nhầm lẫn, sai lệch với tư tưởng của Người.
Hồ Chí Minh không chỉ là một chiến lược gia vĩ đại mà còn là một nhà
chỉ đạo chiến lược, một nhà sách lược tài giỏi. Tùy đối tượng, hoàn cảnh cụ thể
mà Người có cách xử lý linh hoạt, sáng tạo riêng.
Vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh rất cần nắm chắc lịch sử vấn
đề và rất cần so sánh, tìm hiểu các điều kiện ra đời quan điểm tư tưởng đó còn
không? Còn như thế nào để bổ sung và phát triển.
Ba là, quan điểm toàn diện và hệ thống
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống đề cập toàn diện đến các vấn để
của con người và xã hội Việt Nam.
Bản thân Người khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tương, xã hội hay con
người luôn nhìn qua các mối quan hệ nhiều chiều để thấy toàn diện của vấn đề,
đồng thời cũng nhìn toàn diện các vấn đề như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội; quá khứ hiện tại, tương lai; truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; cá
nhân, tập thể, cộng đồng; thời, thế, lực; thiên thời, địa lợi, nhân hòa; nhận thức,
tư tưởng, phương pháp, phong cách; tình cảm, đạo đức, nhân cách, lối sống; lý
luận và thực tiễn, nói và làm, quyền lợi vào nghĩa vụ, v.v.
Cán bộ, đảng viên trong công tác, công việc phải có cái nhìn toàn cục,
tránh chủ quan, phiến diện, cục bộ. Vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
trước hết là vận dụng, phát triển cách nhìn toàn diện về mình, về người, về vật,
về việc của Người.
20
2


Hoàn thiện nội dung toàn diện của hệ thống các quan điểm cơ bản của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bốn là, Quan điểm kế thừa và phát triển

Bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh là một sự kế thừa và phát triển tinh hoa
văn hóa tư tưởng của dân tộc và nhân loại.
Nhưng cũng có nhiều vấn đề, sinh thời Hồ Chí Minh chưa có điều kiện đề
cập đến. Vì vậy, chúng ta phải biết kế thừa để phát triển, vừa kế thừa vừa phát
triển và phát triển trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trung thành ở đây không phải là khư khư giữ nguyên các câu chữ mà là
trung thành với mục tiêu lý tưởng, với lôgic phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, để
sáng tạo ra những luận điểm mới, nội dung mới, cách làm mới phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh mới. Nghĩa là tìm ra những vấn đề có tính quy luật của cách
mạng Việt Nam thời kỳ hậu Hồ Chí Minh.
- Nội dung vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh: (3.5đ)
Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là một lĩnh vực rộng lớn. Ở
đây chỉ nêu lên một số nội dung mang tính nguyên tắc.
Vận dụng và phát triển tư tưởng HCM trong thời kỳ quá độ đi lên XHCN
ở Viết Nam là hết sức quan trọng. Cần phải nhận thức đầy đủ, phát huy tính độc
lập, tự chủ, sáng tạo trong phát triển kinh tế cũng như khi tham khảo kinh
nghiệm nước ngoài; tránh vay mượn sao chép rơi vào chủ nghĩa giáo điều; nâng
cao trình độ tổng kết thực tiễn, rút ra những vấn đề lý luận mới, tìm ra những
vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Từ đó vạch được chiến lược
phát triển toàn diện, hệ thống, lâu dài cho đất nước, đồng thời tích cực phòng
tránh những rủi ro có thể xảy ra:
+ Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Đó là ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch HCM đã trao lại cho thế hệ hôm
nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện
CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Vì rằng, thế giới đã và đang thay đổi nhiều, song cuộc đấu tranh
cho độc lập dân tộc và CNXH vẫn diễn ra gay gắt. sau sự đổ vỡ của hệ thống
XHCN, các xu hướng dân tộc vị kỷ, cực đoan trổi dậy mạnh mẽ dẫn đến các
cuộc chiến tranh dân tộc, sắc tộc đẫm máu. Các thế lực phản động quốc tế ra sức

khai thác, kích động, lôi cuốn các dân tộc vào cơn lốc bạo lực mới chưa biết khi
nào chấm dứt. Bên cạnh đó các cường quốc công nghệ đang thực hiện âm mưu
biến các nước chậm phát triển thành bãi thãi công nghệ, hòng kìm hãm các nước
này trong vòng lạc hậu dễ thao túng, bóc lột. Ở ta các thế lực phản động trong và
ngoài nước cấu kết với nhau kích động hận thù và theo đuổi âm mưu xoá bỏ
CNXH. Nền độc lập dân tộc chỉ được bảo vệ vững chắc khi và chỉ khi nước ta
giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là mục tiêu phản ảnh đầu đủ
quan niệm của HCM và Đảng ta về CNXH ở VN.
21
2


+ Đổi mới là sự nghiệp của toàn dân, do vậy mọi chủ trương, chính sách
phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc:
Xác định đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng, mọi chủ trương, chính sách phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, việc gì
có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
Giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân đẻ ổn định xã hội,
đồng thời cũng là để xây dựng cơ sở cho khối đoàn kết dân tộc, của lien minh
công – nông – trí, nhằm khắc phục và hạn chế khoảng cách giàu nghò, khoảng
cách giữa nông thôn và thành thị.
Mở rộng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc làm cho chiến lược đại đoàn
kết của HCM đạt thắng lợi mới rực rỡ hơn. Mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với thời đại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở
giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc.
+ Tăng cường, cũng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc làm cho chiến lược đại đoàn két dân tộc HCM đạt thắng lợi rực rở hơn:
Nghiên cứu vấn đề đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
chúng ta thấy, phương pháp đại đoàn kết dân tộc của Người thực sự là khoa học,
là nghệ thuật của sự cảm hoá, thu phục lòng người. Đó là nghệ thuật khơi dậy và

nhân lên những điều tốt đẹp, nhân bản trong mỗi con người; tập hợp, tổ chức, cố
kết mọi người, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cách mạng.
Cùng với những chính sách thông thoáng - sản phẩm của tưu duy mới về
kinh tế, là các hình thức, biện pháp xã hội hóa các hoạt động và chính sách xã
hội như: xóa đói, giam nghèo, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, cứu giúp
đồng bào những vùng bị bão lụt, thiên tai v.v. đã góp phần củng cố niềm tin của
đại bộ phận nhân dân đối với Đảng, với chế độ, củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân
+ Đổi mới và phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị:
Xây dựng dựng Đảng trong sách vững mạnh, Đảng phải thực sự là đạo
đức văn minh, vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân
dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện đúng cơ chế dân chủ: dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra trong xây dựng Đảng cũng như trong phát
triển đất nước.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản VN, thực hiện quyền lực nhà nước là thống nhất có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Xây dựng và củng cố vững chắc mặt trận Tổ quốc VN, phát huy vai trò
của mặt trận trong việc tang cường sức mạnh hối đoàn kết dân tộc, để Mặt trận
22
2


thực sự là tổ chức đại diện và bảo về quyền, lợi ích chính đáng củ nhân dân và
hoàn thành có hiệu quả vai trò giám sát và phản biện xã hội.
+ Nâng cao nhận thức chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” (0.5 đ)
Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là độc lập,
tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.

Thấm đượm tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống,
là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người không chỉ được tôn
vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa nhận
là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa
trong thế kỷ XX”.
+ Xây dựng và phát huy động lực cách mạng trong đổi mới (0.5 đ)
Phần lớn cuộc đời Hồ Chí Minh tập trung cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Khi Hồ Chí Minh qua đời, đất nước vẫn chưa có hoà bình, thống nhất, vì
vậy, những vấn đề về chủ nghĩa xã hội, Người mới chỉ kịp vạch ra trên những
nét cơ bản. Bước vào thời kỳ xây dựng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta vận dụng một cách sáng tạo, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa đất nước
đi lên vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là tất
yếu, nhưng đó là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài giữa xấu và tốt cũ và
mới, lạc hậu và tiến bộ. Đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cách
mạng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh để cách mạng thành công trước hết cần có
đảng vững mạnh. Để cho Đảng vững mạnh, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới thắng
lợi, trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh,
+ Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh (1đ)
Sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ ở những nguyên lý, những quan điểm do các ông nêu lên mà còn ở sự
vận dụng sáng tạo, bảo vệ và phát triển của các thế hệ tiếp theo. Chính sự vận
dụng sáng tạo, bảo vệ và phát triển đó làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trường tồn, ngày càng có sức mạnh to lớn.
Cũng như vậy, khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận
thấy cần thiết phải bổ sung cho chủ nghĩa Mác những tư liệu mà ở thời mình
Mác không thể có được.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hai bộ phận không thể
tách rời tạo nên nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và
cách mạng Việt Nam. Để làm cho nền tảng của Đảng ngày một vững chắc, cách
mạng Việt Nam không thể chệch hướng, chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng
sáng tạo, phát triển cũng như phải đấu tranh bảo vệ cả chủ nghĩa Mác - Lênin,
lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó đòi hỏi mỗi người trong nghiên cứu lý luận
cũng như hoạt động thực tiễn không nên nhấn mạnh bộ phận này, xem nhẹ bộ
phận kia. Cũng không thê chấp nhận những biểu hiện phê phán chủ nghĩa Mác 23
2


Lênin để ca ngợi tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc ngược lại. Những việc làm không
khoa học và thiếu nhất quán đó đều ảnh hưởng trực tiếp nền tảng tư tưởng kim
chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hơn lúc nào hết đang đòi
hỏi mỗi người Việt Nam cần có sự thống nhất, gắn bó chặt chẽ giữa nghiên cứu,
học tập với vận dụng sáng tạo và hành động theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Văn
kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy, mỗi chi bộ có kế hoạch
định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng
cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Chống tư tưởng cơ hội thực
dụngĐó là con đường duy nhất đúng đắn đưa Việt Nam đến mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Câu hỏi 2: Phân tích sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác
xây dựng Đảng hiện nay. (4 điểm)
Đáp án Câu 2: (4.0 điểm)
1. Vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh phải toàn diện theo những
nội dung đã nêu trên. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất chính là xây dựng Đảng
đạo đức và văn minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh (2.0 đ)
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.

Với bản chất cách mạng và khoa học, Đảng ta đã không ngừng chăm lo xây
dựng Đảng, kiên cường lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi gian nan thử thách, đưa
cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vẻ
vang của dân tộc. Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản – một Đảng đạo
đức và văn minh, cách mạng và khoa học – là vấn đề có tính nguyên tắc, là quy
luật của cách mạng XHCN, là nhân tố bảo đảm sự phát triển đúng đắn của đất
nước. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không thể có độc lập dân tộc
vững chắc, không có quyền làm chủ thực sự của nhân dân, không có Nhà nước
của dân, do dân và vì dân theo đúng nghĩa của nó và càng không thể có CNXH.
Do vậy, để xây dựng Đảng là đạo đức, là văn minh thì những người cộng sản
Việt Nam nhất thiết phải nâng mình lên một tầm cao mới về tri thức và văn minh
của thời đại.
- Mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần và thường xuyên trau dồi
đạo đức của người cộng sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: đạo đức cách mạng là nền tảng, là
tiêu chuẩn đầu tiên của người cách mạng. Nhìn lại trong những năm qua, chúng
ta đã thu được nhiều thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề để tiếp tục đi
theo con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn. Đó cũng
là kết quả tốt đẹp của việc rèn luyện đạo đức cách mạng; là quá trình làm mới
đạo đức cách mạng cả về thực tiễn và ý thức, cả trong Đảng và trong dân. Tuy
nhiên vẫn còn “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ
chủ chốt các cấp yếu kém cả về phẩm chất và năng lực… Thoái hóa biến chất về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách
24
2


nhiễu dân… diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi… Đó
là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”.
Trước tình hình ấy, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách

mạng để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới. Nâng cao đạo
đức cách mạng trong tình hình mới, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải quán
triệt và vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cũng như những chỉ dẫn của
Đảng về đạo đức cách mạng của người đảng viên trong thời kỳ mới.
- Cán bộ, đảng viên không ngừng học tập, nâng cao năng lực trí tuệ
khoa học, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Cách mạng là một nghề, nghề gì cũng
phải học, học lý luận Mác-Lênin, học văn hóa, học khoa học-kỹ thuật, học ngoại
ngữ… Muốn xây dựng CNXH thì phải có học thức, phải có văn hóa. Với mọi
cán bộ, đảng viên, Người yêu cầu “vững về chính trị, giỏi về chuyên môn” và
“nghề nào cũng phải học, phải thông thạo”. Hiện nay khi mà thời đại đã và đang
tạo cho nhân loại thu được nhiều thành tựu kỳ diệu trên các lĩnh vực thì những
chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các thành tựu do cuộc
cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại đem lại chính là những thăng hoa của
văn hóa, là đỉnh cao trí tuệ của loài người.
Các nhân tố đó đang và sẽ là hành trang và sức mạnh tinh thần không thể
thiếu được để toàn Đảng, toàn dân ta vững bước tiến vào thế kỷ XXI, một thế kỷ
chứa đầy triển vọng nhưng cũng không ít thách thức.
2. Phân tích vấn đề xây dựng Đảng về tất cả các lĩnh vực theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. (2.0 đ)
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn xác định công
tác xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt và nhiệm vụ trung tâm là
phát triển kinh tế. Vì vậy, thành tựu bao trùm nổi bật nhất về công tác xây dựng
Đảng những năm qua là, trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp,
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới rất nặng nề, các thế lực thù
địch tấn công toàn diện vào Đảng, nhưng Đảng ta vẫn vững vàng, kiên định lập
trường bản lĩnh chính trị.
Tuy nhiên, cần nghiêm túc thấy rõ những khuyết điểm, yếu kém về năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, cũng như về công tác xây dựng Đảng
còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Thực tế trên do

nhiều nguyên nhân, song trước hết do năng lực lãnh đạo của Đảng có những mặt
chưa theo kịp sự phát triển mau lẹ của tình hình. Đảng ta cần nhận thức sâu sắc
nguyên nhân này, chứ không thể đổ lỗi cho nguyên nhân khách quan về tình
trạng yếu kém trong công tác xây dựng Đảng.
Ngày nay, đất nước ta đang đứng trước thời cơ lớn, đồng thời phải đối
mặt với những thách thức gay gắt, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến
phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Điều đó đặt ra đối với
Đảng nhiều vấn đề mới mẻ cần phải giải quyết. Công tác xây dựng Đảng càng
25
2


×