Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiều luận lịch sử mỹ thuật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804 KB, 28 trang )

A.
1.

MỞ ĐẦU

Lí do chọn đề tài
Nói tới Việt Nam là chúng ta nói tới một dân tộc có bốn ngàn năm lịch sử dựng
nước và giữ nước. Có biết bao nhiêu là sử sách đã ghi lại những chiến công hào
hùng, vẻ vang của quân và dân ta qua các cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh
truyền thống đấu tranh chống giặc giữ nước thì dân tộc ta còn có một nền nghệ
thuật phát triển khá sớm, ngay từ thời tiền sử. Chúng ta đã tìm thấy những dấu vết
đầu tiên của nghệ thuật tạo hình đó là những hình chạm khắc trên đá ở các hang;
các đồ dùng sinh hoạt, cảnh săn bắn.. trải qua những bước ngoặt thăng trầm của đất
nước nền nghệ thuật nước nhà cũng chịu ảnh hưởng không ngừng cho tới nay.
Những năm đầu thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta phải sống cực khổ dưới
ách thống trị của cả thực dân Pháp và phong kiến. Với chính sách “nô dịch hoá”
chúng khai thác nền MT phát triển, tận dụng triệt để truyền thống Mỹ thuật của dân
tộc ta để phục vụ cho chúng. Chúng đào tạo dân ta làm các đồ thủ công mỹ nghệ,
lợi dụng sự khéo léo và óc sáng tạo của dân ta. Tuy nhiên sự kiện này cũng là bàn
đạp, góp phần lớn vào sự phát triển mạnh mẽ của nền Hội họa Việt Nam sau này.
Sự kiện nổi bật nhất đó là sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam (1930), Cách
mạng Tháng tám thành công, niềm vui chưa được bao lâu, Pháp trở lại xâm lược
một lần nữa. Với khí thế quyết chiến bảo vệ Tổ Quốc, nhiều hoạ sĩ tham gia kháng
chiến chống kẻ thù xâm lược. Với ba lô, súng đạn trên vai, và cả cặp vẽ bên mình,
họ có mặt trên các chiến lũy; họ đi khắp các nẻo đường với tư cách là những chiến
sĩ, nghệ sĩ ; họ vẽ về cuộc sống sôi động của cả dân tộc đứng lên chống kẻ thù,mở
ra thời kì đỉnh cao của nghệ thuật hội họa dân tộc.
Với mục đích nghiên cứu sự thay đổi của mỹ thuật việt Nam trong thời kì đỉnh
cao này nên em chon đề tài “ Sự đổi mới của Hội họa trong thời kì kháng chiến
chống Pháp 1945 -1954” đề làm tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu



1


Nghiên cứu sự thay đổi của hội họa Việt Nam trong thời kháng chiến chống
Pháp 1945-1954
3.Phương pháp nghiên cứu
-

Trong bài tiểu luận có sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp diễn dịch , quy nạp
Phương pháp phân tích, so sánh

NỘI DUNG
1.Hội họa Việt Nam những năm 1925-1945
Trước năm 1925 ở Việt Nam, điêu khắc và kiến trúc ở làng rất phát triển, tạo nên
những dấu ấn đặc sắc Việt Nam, khác hẳn Trung Quốc, Nhật Bản. Mỹ thuật Chăm

2


và Tây Nguyên cũng là những điểm độc đáo cùng cộng hưởng để tạo nên một vùng
mỹ thuật không nằm hoàn toàn trong vùng văn hóa Đông Á đậm chất Nho giáo.
Những người làm điêu khắc, đồ họa, kiến trúc đều được coi là thợ thủ công và
khuyết danh. Đồ họa dân gian tuy có phát triển ở một vài làng nghề làm tranh tết,
tranh thờ như Đông Hồ, hàng Trống, làng Sình....song không phổ biến. Không có
những họa gia tên tuổi như của Nhật Bản, Trung Quốc. Triều đình phong kiến cũng
không quy tụ những nghệ sĩ xuất sắc mà chỉ là nơi tập hợp những nghệ nhân vẽ
mẫu thêu, mẫu trang trí đồ đạc và làm trang trí cung tẩm cho hoàng gia. Do đó,

những bức tranh ghép gốm sứ, sơn khảm cẩn vỏ trai rất đẹp được sáng tạo ra ở
kinh thành Huế nhưng gần như không có dấu ấn của hội họa. Tranh chân dung thờ
phụng thì được trình bày khô cứng theo những quy tắc thiếu tính chân thực. thật
khó để tìm được một bức tranh chuẩn về hình họa trong tranh dân gian Việt Nam.
Những năm đầu TK XX, mỹ thuật Việt Nam cũng đã có những tiếp xúc với mỹ
thuật Pháp nhưng ở mức độ còn hạn chế. Rõ ràng, nền mỹ thuật truyền thống Việt
Nam độc đáo nhưng gần như giậm chân tại chỗ. Tóm lại, hội họa Việt Nam trước
năm 1925 không có sự nổi trội và phát triển.

3


Tranh dân gian Đông Hồ

Tranh dân gian Làng Sình
Ta thấy cả hai dòng tranh dân gian truyền thống nổi tiếng trên đều chưa có sự
chính xác về tỉ lệ cơ thể người trên bức tranh
4


Năm 1925, Trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương được thành lập, đây là cái
nôi đầu tiên của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại. Đây là nơi đào tạo các
thế hệ nghệ sĩ đầu tiên của Việt Nam. Cùng với các trường đại học, cao đẳng khác
được thành lập vào đầu TK XX, trường đã có đóng góp quan trọng cho sự hình
thành hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Sự truyền bá văn hóa phương Tây ngay
từ đầu đã diễn ra một cách bài bản và có hệ thống, nhờ được thừa hưởng một nền
giáo dục văn minh của Pháp. Vì vậy, sự tiếp thu nghệ thuật phương Tây ở Việt
Nam cũng diễn ra một cách có hệ thống và quy củ chứ không tùy tiện, ngẫu hứng.
Thông qua nghiên cứu cơ bản về các phân môn như: hình họa, trang trí, bố cục,
luật xa gần, giải phẫu tạo hình, lịch sử mỹ thuật, đạc biểu kiến trúc,… mục tiêu của

nhà trường là nhằm đào tạo và bồi dưỡng về kỹ thuật và kiến thức cho các nghệ sĩ
Đông Dương thông qua việc tương hợp những nghệ thuật truyền thống của các
nước Đông Dương với nhau. Song song với việc hướng các nghệ sĩ bản địa tìm
hiểu những kỹ thuật cũng như giá trị mới của phương Tây là việc hỗ trợ họ phát
huy bản sắc và giá trị nghệ thuật truyền thống của đất nước mình.
Đặc biệt là những bài học của chủ nghĩa ấn tượng, một xu hướng mang tính cách
mạng trong hội họa thế giới. Đương thời, xu thế đó chiếm ưu thế chẳng những ở
nước Pháp, nơi khai sinh ra nó, mà còn lan tỏa ra cả châu Âu như một trào lưu cách
mạng lớn trong lịch sử hội họa thế giới, đã được truyền bá giảng dạy ngay trong
ngôi trường mỹ thuật đặt tại Việt Nam. Trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương
cũng ngày càng hướng tới việc bồi dưỡng tư duy sáng tạo mang tính thực tiễn và
ứng dụng của các nghệ sĩ bản địa.
Điều đáng chú ý là mặc dầu không có bề dày truyền thống như điêu khắc, song
kể từ khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, chính là hội họa chứ không phải điêu khắc trở
thành ngành phát triển và có những thành tựu lớn nhất.
Có thể nói, mỹ thuật hiện đại Việt Nam mới bắt đầu có từ khi Trường Cao đẳng
Mỹ thuật Đông Dương ra đời. Thời điểm ấy, người Pháp đã mang đến cho mỹ
5


thuật Việt Nam những điều mới mẻ về kỹ thuật sơn dầu, sự hiểu biết khoa học về
cơ thể người, màu sắc cũng như luật xa gần. Tất cả đã thêm phần duy lý và tính
khoa học, bổ sung cho chất trữ tình đượm màu tâm linh vốn có của mỹ thuật cổ
truyền. Những bài học nghề nghiệp mà phương Tây đã đúc kết thành công lần đầu
tiên được tiếp thu bởi những thanh niên Việt tân học, hăng hái và yêu hội họa. Ở
khía cạnh thẩm mỹ, đó là một bước ngoặt đi lên thoát khỏi tầm nhìn dân gian và
lạc hậu về quan niệm. Cái tất yếu lịch sử đó tạo ra cái nhìn mới của một thế hệ
mới, vào thế giới mới mẻ và rộng lớn của mỹ thuật thế giới.
Cùng với hình họa cổ điển và các yếu tố tạo hình mang phong cách lãng mạn, ấn
tượng hiện đại châu Âu, bút pháp đường viền, mảng phẳng ước lệ của phương

Đông luôn được nhà trường nghiên cứu tiếp nhận nghiêm túc để giảng dạy cho
sinh viên, bỏ qua những lề thói bảo thủ ban đầu mang tính áp đặt của chủ nghĩa
thực dân. Các chất liệu tạo hình như sơn dầu, màu nước, phấn màu, sáp màu… từ
phương Tây luôn tồn tại song song cùng với các chất liệu truyền thống phương
Đông như sơn mài, khắc gỗ, lụa, mực nho, màu thiên nhiên từ cỏ cây hoa lá, giấy
dó truyền thống của Việt Nam.
Các họa sĩ thời Đông Dương tiếp thu một cách khá nhạy bén, nhạy cảm với
thẩm mỹ mới. Ngoài sự tiếp xúc trực tiếp hội họa châu Âu, các thầy người Pháp
cũng mở rộng thêm tầm nhìn cho sinh viên bằng cách đem những tác phẩm hội họa
truyền thống của Trung Quốc và Nhật Bản để sinh viên có điều kiện nghiên cứu về
tranh thủy mặc, tranh khắc gỗ… Thời kỳ này có rất nhiều tranh vẽ trực họa đẹp
bằng các chất liệu chì than, bút sắt, phấn màu, thuốc nước, bột màu, mực nho của
các họa sĩ Nguyễn Nam Sơn, Tô Ngọc Vân, Lưu Văn Sìn, Nguyễn Tiến Chung…
Sau này khi họ chuyển sang chất liệu sơn dầu thì vẫn rất thành công.
Trong yếu tố tích cực từ sự chuyển giao các kỹ thuật của người Pháp trong
chương trình giảng dạy tạm coi là bắt buộc thì nội lực của các họa sĩ Việt Nam thời
6


đó là một yếu tố quyết định. Họ coi vẽ “là hành hương vào nội tâm,vẽ là giữ một
trái tim”. Vì lẽ đó hội họa của các họa sĩ giai đoạn này không bị ảnh hưởng hoàn
toàn lối vẽ của người phương Tây, họ học mới nhưng là để sáng tạo từ trong truyền
thống, từ sự thấm đậm hồn dân tộc trong cá nhân mình. Các họa sĩ Việt Nam lấy
cái mới làm cơ sở phát triển chứ không phải xem nó là mục tiêu để bắt chước.
Vị trí giao thoa của hai cực ấy đã khẳng định thêm giá trị của cội nguồn dân tộc
và bản lĩnh trong sáng tác của họ. Xem các tranh khắc gỗ, sơn mài của nhiều họa sĩ
Việt Nam giai đoạn 1925 - 1945, ta bắt gặp không ít yếu tố tạo hình trong tranh dân
gian Việt Nam, nó thật khác với kỹ thuật tạo hình của tranh khắc kẽm châu Âu.
Tranh sơn dầu, tranh lụa thời ấy cũng không phải là cái bóng của hội họa ấn tượng
đang thịnh hành ở châu Âu lúc bấy giờ. Đó là một bước tiếp biến quan trọng trong

quá trình phát triển của hội họa Việt Nam hiện đại.
Giai đoạn 1930 – 1945 gắn liền với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam những năm
1930. Đó là những năm cuối cùng của cuộc vận động cách mạng dân chủ tư sản,
những hoạt động tích cực của Đảng cộng sản Đông Dương, những năm có nhiều
biến động trong văn học nghệ thuật, xuất hiện nhiều trận tuyến đấu tranh giữa hai
xu hướng hiện thực và lãng mạn, nghệ thuật vì nghệ thuật và nghệ thuật vì nhân
sinh.
Nghệ thuật tạo hình 1930 – 1945 cũng tạo nên những phong cách nghệ thuật đa
dạng, xuất hiện nhiều hoạ sĩ, nhà điêu khắc với những sở trường sử dụng chất liệu,
tìm kiếm đề tài để hai xu hướng sáng tác chính là là lãng mạn và hiện thực đã định
hình diện mạo nền hội hoạ cận đại Việt Nam với những đại diện xứng đáng, tiêu
biểu.
Với xu hướng lãng mạn, họa sĩ Tô Ngọc Vân hiện trong lịch sử Mĩ thuật Việt
Nam như một ngôi sao sáng long lanh, bền chặt. Giai đoạn 1930 – 1945 tranh
phong cảnh của Tô Ngọc Vân đã đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp sáng tác. Thiên

7


nhiên trong tranh ông thơ mộng nhẹ nhàng, êm ái với màu sắc ngon lành rung
cảm.

Bức tranh " Thuyền trên sông Hương" ( 1935 ) – thời mà Tô Ngọc Vân cùng
một số người đang đi sâu vào nghiên cứu chất liệu sơn dầu du nhập từ Âu Châu
sang nước ta. Tô Ngọc Vân với tư chất độc đáo của mình đã tách ra khỏi ảnh
hưởng của lối vẽ sơn dầu Âu Châu và tạo cho mình một phong cách vẽ sơn dầu có
nhiều tìm tòi bắt nguồn từ nghệ thuật truyền thống của Việt Nam
Cách diễn đạt nhiều chi tiết với khối nối và sáng tối đầy đủ nhằm biểu hiện mức
độ cao về thực tế cuả Âu Châu không phù hợp với cảm xúc, nhân quan của người
nghệ sỹ Việt Nam. Nên tuy học phương pháp của Âu Châu mà các nghệ sỹ của ta

đã chuyển được thành lối diễn đạt riêng của mình. Trường hợp của Nguyễn Phan
Chánh về lụa cũng như trường hợp của Tô Ngọc Vân về sơn dầu là những chứng
minh cụ thể. Bằng chất liệu sơn dầu ông đã chứng minh cụ thể giữa khối nối và
8


nhiều chi tiết, giữa sáng tối chi li, từng độ đậm nhạt, đến khái quát cuả mảng hình
và màu sắc. Tìm cái chủ yếu và cất nhịp với chất liệu khó tính của thế giới.
Trong tranh màu sắc êm, trầm không chối mắt, màu sắc, ở một nơi mà màn
sương ẩm phủ mờ, khắc hẳn với màu sắc ở một nước Châu Âu có khí hậu khô
hanh. Các sắc không đến độ cao của nó vì ánh sáng cũng không toả hết năng lượng
của mặt trời vì còn có màn hạt ẩm dày đặc trong khí quyển, có nhiều người cứ cho
là họa sĩ của ta vẽ không bạo như Châu Âu với nhiều màu sắc đối kháng đến cực
độ nhưng họ không hiểu được vì sao và các nghệ sỹ ở nước ta cũng như ở phương
Đông nói chung, ít người vẽ được như thế, cũng như các nghệ sĩ Châu Âu không
thể diễn đạt được như đồng nghiệp của họ ở phương Đông.
Cũng như Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn trên chất liệu sơn dầu đã làm ông nổi
tiếng, tạo cho ông có những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm "Em
Thuý" được giải nhất tại triển lãm tranh 1943. Bức tranh này toát lên phong cách
riêng của ông, sự cảm nhận cũng như thể hiện vẻ đẹp lên tác phẩm. Một vẻ đẹp
tinh tế tạo nên một tác phẩm tuyệt vời.

9


Em thúy , Trần Văn Cẩn, 1943

Bức tranh " Em Thuý" ra đời 1943 cùng thời với bức tranh " Thiếu nữ bên hoa
huệ" của Tô Ngọc Vân. Trước cách mạng, đối với Trần Văn Cẩn, đề tài chủ yếu
của ông là thiếu nữ, phụ nữ. Ông tìm vẻ đẹp nội tâm trong con người họ, tác phẩm

" Em Thuý" đã đạt đến mức điêu luyện của sơn dầu, phát huy quy chế mạnh của
sơn dầu và đạt hiệu quả cao trong việc diễn tả tinh tế ngoại hình và chiều sâu tâm
lý của nhân vật.
" Em Thuý" được thể hiện trên khuôn khổ 60 x 45 cm. Trong tranh hoạ sĩ sử
dụng lối vẽ sơn dầu mỏng và mềm mại. Đó là phảng phất một chút kỹ thuật và
phong cách vẽ tranh lụa. Với lối diễn tả ấy, ông đã thể hiện thành công vẻ đẹp
trong sáng, thơ ngây của một em bé gái. Nhìn tổng thể bức tranh, tác giả đã diễn tả
với gam màu ấm nóng, pha chút lạnh nhẹ tạo cảm giác thật tự nhiên, thoải mái.
10


Khuôn mặt hình trái xoan, xinh xắn, cặp mắt to đen lánh, tạo nên một vẻ đẹp thông
minh, phúc hậu. Nổi bật lên trong sự phối hợp không gian nhiều mảng màu là bộ
váy trắng mỏng, nhẹ, tao nhã của " em Thuý". Cách bố trí mảng màu của hoạ sĩ
thật ấn tượng, từ chiếc vòng tay, mái tóc, chiếc ghế với mảng đậm đến khuôn mặt
trắng hồng, và cả không gian tạo nên một nhịp điệu hài hoà, cân đối.
Đôi mắt " em Thuý" mở to, đen, tròn long lanh đến ngây thơ, hồn nhiên. Đôi
mắt ấy chứa đựng bao nhiêu điều, cả cuộc đời trong sáng của em, một cái nhìn đăm
chiêu sâu lắng. Có thể rằng, điểm nhìn của em không là vật gì cả mà là không gian
vô định. Người ta thường nói: "Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn". Đúng vậy, với " Em
Thuý", Trần Văn Cẩn đã nói lên điều đó. Một trong những thành công của tác
phẩm là đôi mắt của em, là con đường dẫn đến tâm hồn, tình cảm. Hiện trên khuôn
mặt ngây thơ ấy là một vẻ đẹp tuyệt đối đến ngỡ ngàng đối với người xem, chiếc
ghế nâu đỏ làm nền cho mảng trắng của chiếc váy cô bé nổi bật. Mặc dù nó không
làm tương phản đến khó chịu cho bức tranh mà tạo nên sự hài hoà sắc độ, mềm
mại của chất liệu, thuần tuý của vẻ đẹp tâm hồn.
Sự thành công tuyệt đối trong bức tranh là sự cảm nhận và cách thể hiện những
tình cảm đó của tác giả qua nhân vật của mình. Đến với " Em Thuý" đồng thời ông
cũng bộc lộ đựơc tâm hồn cảm xúc của mình.
Song song với xu hướng lãng mạn, xu hướng hiện thực trong hội hoạ và điêu

khắc cũng phát triển khá mạnh và hầu như đối lập với xu hướng lãng mạn. Đề tài
chủ yếu của xu hướng này là sinh hoạt nông thôn với cảnh lao động lam lũ cực
nhọc. Tuy tiếng nói tố cáo xã hội chưa mạnh mẽ nhưng phong cách cuả các tác giả
hiện thực đã phần nào nói lên tâm trạng phản kháng một xã hội bất công. Hoạ sĩ
tiêu biểu cho xu hướng này là Nguyễn Phan Chánh.
Các tác phẩm về lụa của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh như: " Chơi ô ăn quan", "
Rửa rau cầu ao" (1931), "Ra đồng", " Đi chợ về" ( 1937) đã chứng minh điều đó.
11


Đặc điểm tranh lụa của ông là những gam màu nâu ấm, trắng phớt, các độ đậm
nhạt điểm tô cho nhau trên một gam màu chủ đạo là nâu, đỏ nâu, tạo nên một
không khí dịu dàng cổ kính. Cách tạo hình của ông là diễn tả theo mặt phẳng, lối
diễn tả này tiếp thu nhiều ở tranh cổ Việt Nam mà ông đã làm quen từ trước.
Với bức " Chơi ô ăn quan", Nguyễn Văn Chánh vẽ theo phương pháp hiện đại
và đã được trưng bày ở triển lãm đấu xảo quốc tế thuộc địa tại Pari 1934, cũng là
tác phẩm đầu tay của hoạ sĩ, một trong những nhà mĩ thuật lớp đầu của nước ta,
tiếp thu kỹ thuật diễn tả phương Tây nhưng lại mang nhiều tính dân tộc rất độc
đáo.

Chơi ô ăn quan, Nguyễn Phan Chánh
Tranh vẽ trên lụa, diễn tả bốn thiếu nữ đang chơi ô ăn quan – một trò chơi phổ
biến của dân gian từ miền Trung trở ra Bắc. Khi trưng bày ở nước ngoài, người ta
chú thích là trò chơi của trẻ em. Hai em là vai chính được diễn tả toàn diện còn hai
em phụ thì ghép với em chính bên phải thành một mảng nhỏ bên trái và một mảng
lớn bên phải. Người ta không cảm thấy lệch mà lại thấy cân đối bởi những mảng
12


đen trắng và sáng tối phân bố một cách tài tình. Màu chính là màu nâu và đen với

nhiều sắc nhi và cung bậc nên không tạo ra sự nặng nề, trái lại bằng cách cấu tạo
hình và mảng đẹp nên càng làm cho mảng thêm chiểu sâu và có âm thanh.
Ở thời kỳ này các hoạ sĩ Việt Nam đua nhau diễn đạt khối vờn nổi như các tranh
phương Tây nhưng chính phong trào tìm lối thoát của phương pháp bán tam viền
vờn khối nặng nề ở Châu Âu lại quay về Châu Á để thu lối diễn đạt mới thanh
thoát và khái quát hơn.
Nguyễn Phan Chánh từ bé đã say mê những tranh dân gian, đã cầm bút nho viết
và vẽ, cho nên ông nhập cách vờn khối của phương Tây một cách kín đáo. Khối
vẫn có ở áo quần, ở mặt các em bé, những đường viền mờ, tỏ, những cung bậc đậm
nhạt, những nét ở mặt, quần áo đều như có và như không, không ai thấy thiếu ở
chỗ nào cần có. Nhưng không thừa vì không có sự rườm rà, tham lam.
Toàn bộ tranh có chiều sâu, không gây cảm giác tách rời từng người, mảng
người và nền. Nét mặt các em thiếu nữ ngây thơ, chân thật. Bạn xem tranh chú ý
mấy ô chơi bên trái, tuy ít nhưng là điểm quan trọng. Điểm theo hình bầu dục dài
với mười hình tròn nhỏ và hai hình tròn to hơn, tạo nên yếu tố trang trí và gắn liền
khối trái, em gái bé nhất chưa chít khăn, với khối phải ba em lớn hơn. Em bên trái
đang bỏ tiền, hoặc cuội vào các ô, mắt chăm chú còn em đối thủ có nét mặt điềm
tĩnh và chú ý bạn chơi, mảng quần trắng của em ngồi xem ở giữa đã làm nên một
âm thanh thanh thoát và là điểm khởi sắc của toàn bộ cung bậc. Nếu đó là quần đen
thì tranh sẽ nặng nề và buồn tẻ, cái giỏi của tác giả thể hiện ở điểm trắng ấy. Độ
của nền, tuy là một mảng nhưng ta vẫn thấy như có không khí, gió thổi nhẹ ở giữa
các em gái. Có cái rất khác giữa tranh của Nguyễn Phan Chánh với tranh của các
tác giả khác. Nhất là ở phương Tây là nền bao giờ cũng có những dấu hiệu để diễn
đạt bối cảnh như cây cỏ sông núi.

13


Thiếu nữ bên hoa huệ, Tô Ngọc Vân
Hiện nay, tuy chúng ta không còn lưu giữ được nhiều tác phẩm hội họa của các

họa sĩ thời Đông Dương, nhưng mỗi khi nhìn ngắm lại những bức tranh Thiếu nữ
bên hoa huệ, Hai thiếu nữ và em bé (sơn dầu, 1942) của Tô Ngọc Vân, Thiếu nữ
trong vườn xuân (sơn mài, 1940) của Nguyễn Gia Trí, Em Thúy (sơn dầu, 1943)
của Trần Văn Cẩn, Chơi ô ăn quan (lụa, 1931) của Nguyễn Phan Chánh… được
lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, ta thấy rõ hơn sự tiếp thu và sáng tạo
nhuần nhuyễn giữa nguyên lý tạo hình châu Âu và thủ pháp tạo hình phương Đông
trong mỗi tác phẩm của họa sĩ thời bấy giờ, đó cũng là kết quả của quá trình tiếp
biến văn hóa Pháp thời mỹ thuật Đông Dương.
Với việc nắm được những kiến thức mỹ thuật hiện đại có tính khoa học, các họa
sĩ Việt Nam giai đoạn 1925 - 1945 đã tiếp biến, tạo cho hội họa một luồng sinh khí
mới, là cơ sở ban đầu cho sự phát triển mạnh mẽ ở những giai đoạn kế tiếp.
Chương 2: Sự đổi mới của hội họa thời kì kháng chiến chống Pháp 1945-1954

14


Thời kì 1945 – 1946, từ Cách Mạng tháng 8 đến toàn quốc kháng chiến, đó là
thời kỳ ngắn ngủi, chỉ ngót một năm rưỡi. Nhưng bao nhiêu biến cố lịch sử đã diễn
ra dồn dập: Nhật đảo chính Pháp. Tổng khởi nghĩa 19/8 thành công ở Thủ đô, tiếp
đó là nhiều tỉnh trong cả nước. Bác Hồ đọc Bản Tuyên ngôn độc lập trước quốc
dân đồng bào và thế giới, long trọng tuyên bố nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời. Quân Tàu - Tưởng kéo vào Việt Nam với danh nghĩa đại diện đồng minh tước
khí giới quân Nhật vừa đầu hàng. Nạn đói khủng khiếp chết hai triệu đồng bào còn
ám ảnh nặng nề.Không ít công việc phải làm trước nghĩa vụ thiêng liêng của người
nghệ sỹ công dân. Tranh tuyên truyền - cổ động cho Cách mạng rất cần và có ý
nghĩa lúc này. Họa sỹ phải kịp thời đáp ứng số lượng lớn, rộng khắp.
“Triển lãm văn hóa” khai mạc ngày 7/10/1945 tại nhà Khai Trí Tiến Đức, bên
Hồ Gươm (Nay là trụ sở Không gian văn hóa Việt, thuộc Nhà hát nghệ thuật đương
đại, Bộ Văn hóa, Thể thao Du lịch). Nội dung trưng bày tổng hợp nhiều loại hình như sách báo, âm nhạc, văn học, sản phẩm ngành nghề tự do, kể cả tôn giáo - tâm
linh… Mỹ thuật được dành một tỷ lệ lớn, không gian rộng. Ngoài số tranh của các

họa sỹ có tên tuổi xuất thân từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, còn trưng
bày hai bộ sưu tập tranh dân gian Việt Nam thuộc loại quý hiếm của Viện Viễn
Đông Bác Cổ. Một số tác phẩm thu hút được sự chú ý của dư luận. Cụ thể như hai
bức tranh sơn dầu Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân và Em Thúy của Trần
Văn Cẩn; Nguyễn Văn Tỵ với Cô gái Mường; Đỗ Đức Thuận với Thuyền trên bến
sông Hồng (khắc gỗ màu)...Trong buổi triển lãm này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
có lời phát biểu : “Những bức tranh này tỏ ra các nghệ sỹ của ta lâu nay đều đã cố
gắng tìm một con đường đi. Nhưng tiếc một điều là không muốn đi dưới đất mà lại
muốn vút lên trời. Chất thơ mộng nhiều quá, mà cái chất thật của sự sinh hoạt rất
ít… Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến, cũng phải
coi trọng như nhau: Chính trị, Kinh tế, Xã hội, Văn hóa, nhưng Văn hóa là một

15


kiến trúc thượng tầng…” Lời phát biểu của Hồ Chủ tịch đáng cho giới mỹ thuật
phải suy nghĩ, chuyển biến tư tưởng trong lao động sáng tạo của mình.
Năm 1949 , Hội văn hóa cứu quốc từng tổ chức cuộc “Tranh luận hội họa” kéo
dài suốt 4 ngày (từ 25 đến 28 tháng 9 năm 1949) tại Việt Bắc. Vấn đề trung tâm
được đặt ra trong cuộc tranh luận là mối quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền,
nghệ thuật và quần chúng. Chủ trương của các nhà lãnh đạo văn nghệ là biến nghệ
thuật thành công cụ tuyên truyền phục vụ chính trị, phục vụ kháng chiến. Theo
Trường Chinh, nghệ thuật nào cũng có thuộc tính tuyên tuyên truyền, tuyên truyền
tốt thì sẽ thành nghệ thuật. Nhưng nhiều nghệ sĩ cho rằng, tuyên truyền sẽ làm mất
tính nghệ thuật của tác phẩm hội họa. Đối tượng được đưa ra phân tích, mổ xẻ là
ba bức Phú phong tiêu thổ kháng chiến, Trong công binh xưởng, Cuộc họp của
Nguyễn Đỗ Cung. Nguyễn Tuân, Kim Lân, Chính Hữu, Nguyễn Tư Nghiêm cho
rằng những bức tranh ấy “vẽ quá nệ vào cái thực, đều đều, mực thước mà đơn điệu.
Trước Cách mạng tranh rất có cá tính, nay lại sa vào cái thực quá đà”. Đáng lưu ý
nhất là ý kiến của Tô Ngọc Vân, ông viết: “Tôi cần phải diễn giải dài dòng để đi

được vững vàng đến kết luận ngược với ông Trường Chinh là quần chúng phải học
nghệ thuật hội họa mới thưởng thức được sâu rộng hội họa. Phải học tiếng nói của
hình sắc mới nghe được hình sắc kể lể gì (Văn nghệ. Số 10/1949). Tuy nhiên, chỉ
đến năm 1951, sau Triển lãm hội họa toàn quốc, tiếp nhận lá thư gửi các họa sĩ của
Hồ Chủ Tịch với lời kêu gọi “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, hầu hết nghệ sĩ đều tự nguyện “gác nghệ thuật” để
làm tuyên truyền. Trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Phan Chánh
tạm dừng vẽ tranh lụa. Hầu hết các họa sĩ đều vẽ nhiều tranh kí họa như là thứ bút
kí chiến trường để dành cho sau này. Có cơ sở để giả định, Tô Ngọc Vân vừa vẽ
tranh tuyên truyền cổ động, vừa vẽ rất nhiều tranh kí họa, ông “vẽ nhanh trên
đường chạy giặc, vẽ vào những cuộc họp ban đêm dưới ánh đèn dầu, vẽ vào ban
ngày hoặc rất kỹ lưỡng, hoặc rất vội vàng… với ý thức sau này, khi hòa bình có thể
16


sử dụng chúng xây dựng một nền hội họa Việt Nam tầm cỡ thế giới – ý tưởng đó
quyết định các bức ghi chép, ký họa trong kháng chiến có sự chuẩn bị sâu sắc như
thế

nào.

Bức tranh “ Hà Nội vùng đứng lên ( khắc gỗ 1946)” đã ra đời trong hoàn cảnh
cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đưa đất nước vào kỷ nguyên Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc. Đồng thời cũng mở ra một trang sử mới cho mỹ thuật Việt
Nam.Từ những hạt nhân là một số hoạ sỹ hoạt động bí mật trong những " tổ chức
văn hoá cứu quốc thời tiền khởi nghĩa ". Giờ đây cả giới mỹ thuật bị cuốn hút vào
thể loại vẽ tranh cổ động biểu thị ý chí toàn dân quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do
của Tổ quốc với nhiều chất liệu khác nhau những tác phẩm này đã hướng mỹ thuật
Việt Nam vào con đường mới, với nhân sinh quan cách mạng


17


Hà Nội vùng đứng lên, Tô Ngọc Vân, 1946
Bức tranh đã miêu tả một cô gái thành thị với chiếc áo daì tung bay mạnh mẽ
với những nếp gấp thật dứt khoát. Gương mặt cương nghị nhưng cũng không kém
vẽ mỹ miều, mái tóc dài uốn lượn tung bay tạo cho cô gái có nét gì đó rất duyên
dáng nhưng cũng cho ta thấy được tư thế sẳn sàn. Trong cuộc chiến thần thánh của
dân tộc người phụ nữ cũng không ngoại lệ, ngày thường họ là những cô gái chân
yếu tay mềm nhưng khi tổ quốc cần họ sẳng sàng tham gia kháng chiến. Hình ảnh
mái tóc phía sau cô gái bùng lên như một ngọn lửa quyết tâm của người dân cả
nước nói chung và Hà Nội nói riêng và hình ảnh cô gái trong bức tranh này đã thể
hiện được vẽ đẹp lãng mạn nhưng thật mạnh mẽ của một thiếu nữ Hà thành trong
cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại.Cho đến cuối 1946 cuộc kháng chiến toàn quốc
bùng nổ đi liền với sự nghiệp kháng chiến toàn dân, toàn diện là sự chuyển mình
của các hoạ sỹ. Họ nghe theo tiếng gọi của nước của dân tộc cho nên đa số các hoạ
sỹ đều cầm súng, vừa cầm bút vẽ tranh để tuyên truyền cho kháng chiến thể loại ký
hoạ, tranh khắc gỗ, bột màu, thuốc nước, chì, tranh sơn mài được dùng nhiều với
những tác phẩm đạt giá trị cao cả ở nội dung và nghệ thuật, đã phản ánh cuộc chiến
tranh nhân dân thần thánh với niềm lạc quan tất thắng.
Bức tranh cổ động: “Hà Nội vùng đứng lên” hòa nhập một cách hữu cơ với
không khí thời đại, tiêu biểu cho sự chuyển biến lớn lao trong tư tưởng của thế hệ
họa sĩ lúc đó. Tô Ngọc Vân đã từng tâm sự: “Cuộc kháng chiến đã làm xiêu đổ
những giá trị tư tưởng cũ, chúng tôi muốn đoạn tuyệt với cái dĩ vãng nghệ thuật mà
giờ nghĩ tới sự chuyển biến đó, chúng tôi cảm thấy khó khăn, nặng nề như chuyển
một trái núi…”. Thực tiễn đời sống kháng chiến với những sinh hoạt bình dân,
những vẻ đẹp bình dị của các bà bủ, bà bầm, những cô dân quân, anh bộ đội… đã
phá tung cánh cửa khuê các, đặt các nhân vật của Tô Ngọc Vân vào hoàn cảnh
khác, mang tâm tình và suy nghĩ theo lối khác. nhưng hầu như ngay lập tức, xuất
hiện trên giá vẽ của Tô Ngọc Vân những hình ảnh, những khuôn mặt phụ nữ Việt

18


Nam dọc đường kháng chiến, với quan niệm về cái đẹp thay đổi theo nhân sinh
quan thời đại.
Cùng với quân dân cả nước Tô Ngọc Vân tham gia vào cuộc kháng chiến bằng
tất cả tài năng và sức lực của mình. Cuộc sống trong những ngày toàn quốc kháng
chiến đã thắp sáng vẻ đẹp mộc mạc, đằm thắm nghĩa tình, trong ước muốn cống
hiến vô tư cho Tổ Quốc, lý tưởng. Tô Ngọc Vân hăng hái tham gia vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc, mở rộng thế giới quan để đạt tới sự hoàn thiện, thống nhất giữa
hình thức và nội dung.
Họa sĩ Tô Ngọc Vân còn có các bức : Ông lão du kích ( chì – màu nước 1947),
Du kích bảo vệ làng (lụa – 1948), Xưởng quân giới ( màu dầu – 1951). Các bức
sơn mài được sáng tác 1949 như: Chạy giặc trong rừng, khi giặc đã qua, dừng chân
trên đồi được sáng tác ở xưởng Xuân Áng. Nhiều kí họa , trực họa sinh động về
hiện thực kháng chiến : Bừa trên đồi ( màu nước -1953), Đốt đuốc đi học, Chị cốt
cán, Con trâu quả thực, Đấu tố địa chủ. Các tranh vẽ những sinh hoạt và phong
cảnh Tây Bắc: Cô gái thái...

19


Đốt đuốc đi học, Tô Ngọc Vân
Họa sĩ Tô Ngọc Vân còn có các bức : Ông lão du kích ( chì – màu nước 1947),
Du kích bảo vệ làng (lụa – 1948), Xưởng quân giới ( màu dầu – 1951). Các bức
sơn mài được sáng tác 1949 như: Chạy giặc trong rừng, khi giặc đã qua, dừng chân
trên đồi được sáng tác ở xưởng Xuân Áng. Nhiều kí họa , trực họa sinh động về
20



hiện thực kháng chiến : Bừa trên đồi ( màu nước -1953), Đốt đuốc đi học, Chị cốt
cán, Con trâu quả thực, Đấu tố địa chủ. Các tranh vẽ những sinh hoạt và phong
cảnh Tây Bắc: Cô gái thái...
Hoạt động Mỹ thuật phát triển ở các chiến khu. Các họa sĩ ký họa, vẽ tranh
cổ động, tranh phổ biến, in tranh tuyên truyền, thể nghiệm sơn mài để phản ánh
về : Bộ đội, dân quân du kích, tình quân dân, tăng gia sản suất, thuế nông nghiệp,
vạch tội ác giặc, địch vận, chống tệ nạn xã hội.
Họa sĩ Trần Văn Cẩn với các tác phẩm : Xuống đồng ( lụa – 1946), Cùng nhau
học tập ( khắc gỗ màu – 1948), Ở hang (lụa – 1951), Nhớ ơn người chiến sĩ vô
danh (tranh cổ động – giải nhì triển lãm Mỹ thuật toàn quốc – 1951).
Nguyễn Đỗ Cung vẽ dân quân du kích, quân giới, công binh xưởng. Ông làm
tranh tuyên truyền, mở lớp dạy vẽ và làm nhiều công tác. Tại La Hai ( phú Yên)
ông đã vẽ nhiều tranh đẹp : Du kích tập bắn (1946), Phá họa Phú Phong ( 1947),
Họp tiểu đội (1947), Làm kíp lựu đạn ( 1947), Ném lựu đạn ( 1947), Buổi luyện
quân . Bức “ Du kích tập bắn” vẽ những người du kích tập bắn trong cái nắng rực
rỡ ở Liên khu V, tạo được hòa sắc đẹp, trong sáng, mạnh mẽ.

21


Du kích tập bắn, Nguyễn Đỗ Cung, 1946
Họa sĩ Nguyễn Sáng phục vụ Cách mạng trong cuộc trường chinh 9 năm ở Việt
Bắc: Vẽ tuyên truyền cổ động, vẽ mẫu giấy bạc cho Bộ Tài chính của Chính phủ
lâm thời, vẽ tranh phổ biến đóng thuế nông nghiệp, vẽ bộ đội chiến dịch Biên giới;
Chiến dịch Cao Bắc Lạng, trận địa pháo binh La phù, Tu Vũ cùng họa sỹ Nguyễn
Tư Nghiêm. Năm 1954, cùng họa sỹ Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc, Dương Bích Liên
tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ.Chín năm kháng chiến trường kỳ, họa sỹ đi
cùng năm tháng hào hùng của chiến tranh cứu nước, chứng kiến những bản làng
bốc cháy, người dân đói khổ đau thương, đêm tuyển quân vùng địch hậu sôi động,
dân công tải đạn trên đường đèo, cơn mưa rừng triền miên, chiến hào lửa máu, ác

liệt. Nguyễn Sáng sống như người lính và ông đã truyền được hơi thở nóng bóng
của cuộc chiến tranh thần thánh vào tác phẩm của mình, sức truyền cảm mạnh mẽ,
sống mãi cùng thời gian.Mỗi nghệ sỹ sinh ra đều có một đất nước để phụng thờ,
một thời đại ảnh hưởng, một con tim nhạy cảm để yêu thương hay phấn nộ, một
22


hoàn cảnh khắc nghiệt để vượt lên. Nguyễn Sáng sống tuổi thanh niên rưc rỡ giữa
cánh rừng xanh ngắt, có lúc đói rét, bệnh tật. An toàn khu: Bản Thi - Đầm Hông
(Tuyên Quang) : “Bản Thi có đi không về, Đầm Hồng không chồng mà chửa”. Đạn
bom hằn sâu trong ký ức tới ngày giải phóng Điện Biên có hoa và nước mắt tiến về
Hà Nội trong vinh quang và kiêu hãnh của dân tộc mình.Thực ra, không chờ ngày
về giải phóng Thủ đô, ông đã vẽ bức Chợ Bo đẫm máu (tố cáo giặc tàn sát ở Thái
Bình) bức sơn dầu này đã lưu lạc ra nước ngoài, Tình quân dân bức khắc gỗ màu
lớn rất sinh động. Đầu 1954 ở Tuyên Quang, ông vẽ Giặc đốt làng tôi bức tranh
gây chấn động vì tính chất bi hùng của tác phẩm. Giặc đốt làng tôi là tên tranh,
cũng là tiếng kêu phẫn nộ của người dân chạy giặc.

Bức tranh như cuốn tiểu thuyết nhiều nhân vật. Bà già, em gái nét mặt buồn bã
khăn áo ra đi, là quá khứ tối tăm của buôn làng. Bé trai góc tranh ở truồng đói rách,
23


người phụ nữ kể tội giặc là hiện tại, còn cháu bé bừng sáng trên lưng thiếu phụ
người Thái là tương lai miền Tây Bắc sạch bóng thù. Người lính Cụ Hồ nhận lệnh
từ nhân dân, khuôn mặt căng thẳng, căm hờn và con ngựa như chồm lên hành
động...Với bút pháp tả thực trần trụi, nét sơn xao xác, xúc động, gam màu chàm
chủ đạo trầm hùng u tối, lấp lánh ánh sáng trên khuôn mặt anh bộ đội và áo khăn
cô gái người dân tộc. Bức tranh mới là phác thảo, đã vượt lên một tác phẩm lớn,
sức cuốn hút mạnh mẽ.Giữa Hà Nội thanh bình thuận lợi về vật liệu sáng tác, điều

trước đây trong chiến khu gian khổ, thiếu thốn không sao có được.
3

Liên hệ bản thân
Với tư cách đang là một sinh viên theo học khoa Sư phạm Mỹ thuật trường Đại
học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương, em cảm thấy rất biết ơn các họa sĩ đã để
lại cho thế hệ sau nhiều thành tựu nghiên cứu, các bức tranh giá trị. Để thế hệ
sau như chúng em có thể biết được một thời kì đấu tranh gian khổ nhưng chói
lòa của dân tộc thông qua ngắm nhìn và nghiên cứu các bức tranh được để lại
của các họa sĩ. Đây là những tư liệu vô cùng quý giá với chúng em , giúp chúng
em ứng dụng nghiên cứu trong học tập, tiếp thu và phát triển hội họa dân tộc.
Khi đang theo học tại trường, chúng em được học các chất liệu Sơn mài, một
chất liệu truyền thống từ chỉ dùng là đồ mỹ nghệ được phát triển vào hội họa.
Một số tác phẩm của sinh viên Khóa 9 khoa Sư phạm Mỹ thuật chúng em :

24


Ngõ vắng, Phương Trí, sinh viên K9A khoa Sư phạm Mỹ thuật, giải ba triển lãm
tranh sinh viên 2017 trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung Ương
Một vài tác phẩm của sinh viên trong kì thi học phần sơn mài ngày 28/3

25


×