Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Đề tài: Lãi suất tín dụng là gì? Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng, cho ví dụ minh họa ở Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.56 KB, 19 trang )

Đề tài: Lãi suất tín dụng là gì? Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín
dụng, cho ví dụ minh họa ở Việt Nam.

Mở đầu
Lãi suất là một trong những biến số kinh tế quan trọng được theo dõi một
cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và cũng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối
quan hệ giữa người đi vay và người cho vay, phản ánh mối quan hệ giữa cung và
cầu tiền tệ, thực trạng kinh tế của một nước. Việc nắm bắt biến động lãi suất có vai
trò rất quan trọng là chìa khóa ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của cá nhân,
doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng cả toàn bộ nền kinh tế,
các chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Với những lý do trên việc phân tích nguyên nhân làm thay đổi lãi suất trong
từng thời kì của nền kinh tế là hết sức quan trọng, đồng thời nắm được những tác
động của lãi suất đến các chủ thể kinh tế, đến nền kinh tế vĩ mô cũng giúp chúng ta
lựa chọn cho mình những phương án đầu tư hay chi tiêu tốt nhất
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều phạm trù kinh tế-tài chính,trong đó
lãi suất tín dụng ngân hàng là một trong những phạm trù quan trọng. Nếu xác định
lãi suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát
triển và ngược lại. Vì vậy, lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà
nước vừa là công cụ vi mô của các NHTM. Một chính sách lãi suất có hiệu quả là
chính sách được áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ và đưọc NHNN điều chỉnh
chặt chẽ, mềm dẻo theo từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và
cung ứng vốn nhằm thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư phục vụ phát
triển kinh tế đất nước, đồng thời bảo đảm được cho hoạt động của các NHTM thực
sự có hiệu quả.
Bài thảo luận tập trung vào phân tích “Lãi suất tín dụng, những nhân tố ảnh
hưởng đến lãi suất tín dụng và sự ảnh hưởng của các nhân tố đó đến đến mức lãi
suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam từ năm 2015 đến 6 tháng đầu năm 2016”
I.
I.1
I.1.1



Cơ sở lý luận
Khái quát về tín dụng
Khái niệm
Theo nghĩa hẹp: tín dụng là quan hệ vay mượn giữa người đi vay và người
cho vay về một lượng giá trị nhất định dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật.

1


I.1.2


-

I.2
I.2.1

Theo nghĩa rộng (khái niệm): Tín dụng là hệ thống những quan hệ kinh tế
phát sinh trong quá trình chuyển quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định từ chủ
thể này sang chủ thể khác dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Tín dụng ngân hàng
Khái niệm: tín dụng ngân hàng là các quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng
với các chủ thể trong nền kinh tế.
Đặc điểm
Đối tượng tín dụng: là tiền tệ
Chủ thể cấp tín dụng: là ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác
Nguồn vốn cho vay: là nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế được huy động
Mục đích: kinh doanh tiền tệ để kiếm lời
Thời hạn: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn

Quy mô vốn: đáp ứng được mọi nhu cầu xin vay của khách hàng
Giá cả của tín dụng ngân hàng được biểu hiện thông qua lãi suất là một yếu tố độc
lập trong hợp đồng tín dụng
Lãi suất tín dụng
Khái niệm
Lãi suât tín dụng là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức thu được với tổng số tiền cho
vay trong một khoảng thời gian nhất định.
Lãi suất TD =
Đơn vị tính của lãi suất tín dụng là %/ năm ( ngày , tháng)

I.2.2

-

-

Phân loại
Phân loại nghiệp vụ tín dụng
Lãi suất huy động vốn: Là lãi suất phát sinh trong các hình thức huy động vốn của
ngân hàng thương mại, các trung gian tài chính khác,... Hình thức huy động vốn
chủ yếu của các tổ chức tài chính trung gian là nhận tiền gửi. Lãi suất tiền gửi ngân
hàng có nhiều mức khác nhau,tùy thuộc vào : loại tiền gửi là nội tệ hay ngoại tệ;
loại tài khoản là tiền gửi thanh toán hay tiền gửi tiết kiệm; loại thời hạn là không
kỳ hạn, ngắn hạn hay dài hạn.
Lãi suất cho vay: Là loại lãi suất phát sinh từ các hình thức cho vay của NHTM và
các trung gian tài chính khác. Lãi suất cho vay được hình thành trên cơ sở các yếu
tố:lãi suất huy động, tỷ suất chi phí kinh doanh tiền tệ, rủi ro, tỷ suất lợi nhuận,...
Lãi suất cho vay cũng có nhiều mức tùy theo loại tiền, thời hạn, phương thức, mục
đích của tiền vay và theo mức độ quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng.
2



-

-

-

Theo nguyên tắc hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác mà hoạt
động thường xuyên và chủ yếu của chúng là kinh doanh tiền tệ, thì lãi suất cho vay
bao giờ cũng phải lớn hơn lãi suất huy động để đảm bảo ngân hàng có thể bù đắp
được các chi phí hoạt động đã bỏ ra và có lợi nhuận.
• Phân loại theo sự loại trừ ảnh hưởng của biến động giá trị tiền tệ
Lãi suất danh nghĩa: Là lại suất được xác định theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ
hay nói cách khác là loại lãi suất trừ ảnh hưởng bởi sự biến động của giá trị tiền tệ.
Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các hợp đồng tín
dụng và giá trị ghi rõ trên các công cụ nợ.
Lãi suất thực: là lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị tiền tệ, như tỷ
lệ lạm phát hoặc tỷ lệ thiểu phát tiền tệ.
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực Tỷ lệ lạm phát( thiểu phát) dự đoán

-

Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng, đối
với người có tiền,nhờ đoán biết được lãi suất mà họ quyết định nên gửi tiền vào
ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp.Đối với người cần vốn, nếu dự đoán
được tương lai có lạm phát và trong suốt thời gian đó lãi suất cho vay không đổi
hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng không bằng lạm phát tăng thì họ có thể yên tâm
vay để kinh doanh mà không sợ lỗ vì vượt giá khi trả nợ.
• Phân loại theo phương pháp tính lãi

- Lãi suất đơn: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền
vay ban đầu không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để tính lãi thời hạn kế
tiếp.
- Lãi suất kép: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền tính lãi so với số
tiền vay, số tiền vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kỳ cho vay
(lãi mẹ đẻ lãi con)
• Phân loại theo loại tiền
- Lãi suất nội tệ: là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng nội tệ( kể cả
lãi suất huy động và lãi suất cho vay)
- Lãi suất ngoại tệ: là loại lãi suất tính toán áp dụng cho đồng ngoại tệ
Lãi suất ngoại tệ có ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất khẩu hay nhập
khẩu:để khuyến khích xuất khẩu, người ta thường áp dụng cơ chế lãi suất ngoại tệ
cho vay thấp hơn, trong huy động thì cao hơn so với lãi suất nội tệ và ngược lại.
Với cơ chế này sẽ khuyến khích các nhà xuất khẩu vay tiền để đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu của mình trong trường hợp lãi suất cho vay đối với đồng ngoại tệ thấp và
ngược lại
3


Phân loại theo độ dài thời gian
Cơ sở của cơ chế lãi suất này là ở chỗ thời gian thuê vốn ( cả huy động
và cho vay) càng dài thì lợi nhuận làm ra càng nhiều, đồn thời tính rủi ro mất
vốn cũng càng cao
- Lãi suất ngắn hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và
khoản vay ngắn hạn, có thời hạn dưới 1 năm.
- Lãi suất trung hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các huy động và khoản
vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
- Lãi suất dài hạn : là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và
khoản vay có thời hạn trên 5 năm.
Theo cách phân loại này, cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay, thời

gian àng dài thì lãi suất càng cao. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt
lãi suất ngắn hạn có thểcao hơn lãi suất trung hạn và dài hạn, ví dụ : khi nền
kinh tế trong quá trình khôi phục lại sau chiến tranh, khủng hoảng kinh tế…nhà
nước cần một lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, lúc này lãi suất huy động
ngắn hạn sẽ được ưu tiên nâng cao hơn với các loại lãi suất khác
• Các loại lãi suất khác
- Lãi suất triết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTM đối với
khách hàng dưới hình thức triết khấu các giấy tờ có giá chưa đến thời
hạn thanh toán.
- Lãi suất tái chiết khấu: Là lãi suất cho vay ngắn hạn của NH trung ương
ẩn đinh cho từng thời kỳ, căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ. Lãi suất
này được dùng để kiểm soát và điều tiết sự biến động lãi suất trên thị
trường. Đối với NHTM lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc để từ đó ẩn
định lãi suất chiết khấc và lãi suất cho vay khác.
- Lãi suất thị trường liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng
khi cho nhau vay vốn trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất thị trường
liên ngân hàng được ẩn định hàng ngày vào mõi buổi sáng. Nó được hình
thành bởi quan hệ cung cầu vốn của các ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng khác và chịu sự chi phối của lãi suất chiết khấu


I.3



Vai trò
Xét trên tầm vĩ mô

4



Lãi suất tín dụng là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ, góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Ý nghĩa này của lãi suất tín dụng được thể
hiện trên nhiều mặt.
-

Thứ nhất, nhà nước có thể thông qua lãi suất tín dụng để thực hiện điều chỉnh
lượng cung ứng tiền, từ đó tác động đến sự tăng giảm sản lượng để thực hiện điều
tiết nền kinh tế (ổn định lạm phát, công ăn việc làm và phát triển sản xuất).

-

Thứ hai, lãi suất tín dụng tác động tới tổng cung và tổng cầu thông qua tác độngtới
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đến tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư.
Khi lãi suất tín dụng tăng cao, người dân sẽ hạn chế tiêu dùng, gửi tiết kiệm nhiều
hơn và doanh nghiệp sẽ thận trọng trong các hoạt động đầu tư vì vậy tổng cầu và
tổng cung đều có xu hướng giảm. Ngược lại, lãi suất tín dụng hạ thấp khuyến khích
tiêu dùng, các khoản gửi tiết kiệm sẽ hạn chế hơn trong khi đó doanh nghiệp có
điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, tổng cung và tổng cầu đều có xu
hướng tăng cao.

-

Thứ ba, lãi suất tín dụng được sử dụng làm công cụ điều hòa cung cầu ngoại tệ,
góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Nâng cao lãi suất tín dụng sẽ hút
ngoại tệ vào trong nước làm tăng cung ngoại tệ. Hạ thấp lãi suất tín dụng sẽ đẩy
ngoại tệ ra ngoài nước, làm giảm cung và tăng cầu ngoại tệ.

-


Thứ tư, trong chừng mực nhất định, người ta có thể sử dụng lãi suất để thực hiện
điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu khu vực nhằm đảm bảo sự thích ứng của nền kinh
tế với nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Nhà nước có thể thực hiện cho
vay với lãi suất ưu đãi cho những doanh nghiệp thuộc những ngành nghề, khu vực
kinh tế được khuyến khích nhờ vậy có thể kích thích sự phát triển của những ngành
nghề và những khu vực này nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.



Xét trên góc độ vi mô
Sự ảnh hưởng của thay đổi lãi suất tín dụng thể hiện ở hai góc độ:

-

Một là, lãi suất tín dụng là công cụ thực hiện các hoạt động của các trung gian tài
chính trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh để đảm bảo tính tự chủ tài chính của
các tổ chức này, tạo ra nguồn lực tài chính để các tổ chức này tồn tại và phát triển.

-

Hai là, lãi suất tín dụng tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh
nghiệp và đời sống của dân cư.

5


I.4
I.4.1

I.4.2


I.4.3


Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng
Mức cung cầu tiền tệ trên thị trường
Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến việc hình thành lãi suất trên thị
trường:
Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để thanh toán trên thị trường
Cầu tiền tệ là nhu cầu về tiền của các cá nhân, đơn vị , tổ chức để làm
phương tiện giao dịch , trao đổi hàng hóa ,dịch vụ…Lãi suất cân bằng được xác
định là giao điểm của đường cung và cầu tiền.
Khi lượng cung ứng vốn trên thị trường tăng lên , lớn hơn nhu cầu về vốn
sẽ khiến cho lãi suất giảm đi và ngược lại.
Nhà nước có thể tác động vào mức cung và cầu tiền tệ này để khống chế lãi
suất và thực hiện các mục tiêu kinh tế và xã hội của mình. Giả sử khi Chính phủ,
Ngân hàng TW lo sợ nền kinh tế có nguy cơ bị suy thoái thì NHTW sẽ tăng mức
cung tiền bằng cách bơm tiền vào lưu thông và lãi suất sẽ có xu hướng giảm. Còn
khi nền kinh tế phát triển quá nóng và có thể xảy ra lạm phát thì nhà nước sẽ thực
hiện các biện pháp làm giảm lượng cung tiền và khi đó lãi suất sẽ tăng lên.
Lạm phát
Lạm phát là hiện tượng phát hành tiền vào lưu thông ua lớn, vượt quá số
lượng tiền cần thiết trong lưu thông,làm cho sức mua của đồng tiền giảm sút không
phù hợp với giá trị danh nghĩa mà nó đại diện.
Có thể nói rằng lạm phát là một trong những nhân tố chủ chốt ảnh hưởng
đến lãi suất tín dụng. Lạm phát là một hiện tượng của tiền tệ, chính vì vậy chúng ta
không thể tránh khỏi nó mà chỉ có kiềm chế nó ở mức ít hay nhiều.
Khi lạm phát tăng lên một trong những biện pháp của nhà nước để giảm
phát chính là áp dụng các biện pháp để hút bớt lượng tiền lưu thông về. Đồng thời
các cá nhân tổ chức trong nền kinh tế đang nắm giữ lượng vốn, tiền cũng sẽ không

dám cho vay do lo sợ đồng vốn của mình sẽ bị mất giá, bởi vậy họ chuyển hướng
sang dự trữ các loại hàng hóa như: vàng, ngoại tệ hay đầu tư ra nước ngoài. Hai
điều này sẽ làm cho khả năng cung ứng vốn trên thị trường giảm nhanh chóng, và
khi cung ứng vốn giảm thì tất yếu sẽ khiến cho lãi suất tăng. Như vậy, lạm phát và
lãi suất luôn có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại mật thiết với nhau.
Chính sách vĩ mô của nhà nước( chính sách tài khóa , chính sách tiền tệ)
Chính sách tiền tệ
Như chúng ta đã biết một khi lãi suất tín dụng tăng quá cao hay giảm
thấp thì đều có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế .Chính bởi vậy mà nhà
nước đã thực hiện các chính sách tiền tệ của mình thông qua Ngân hàng TW
6




với vai trò chỉ huy toàn bộ hệ thống ngân hàng của một quốc gia (với các công
cụ như lãi suất tái chiết khấu ,tỉ lệ dự trữ bắt buộc) để điều chỉnh lãi suất ,bình
ổn nền kinh tế .
Một khi lãi suất tăng làm cho nhu cầu tiêu dùng và đầu tư giảm thì Ngân
hàng Trung ương sẽ áp dụng chính sách giảm lãi suất tái chiết khấu cho các
ngân hàng thương mại ,và khi các ngân hàng thương mại được giảm lãi suất tái
chiết khấu ( là lãi suất ngắn hạn mà ngân hàng TW cho các ngân hàng thương
mại vay ) thì họ cũng sẽ hạ lãi suất cho vay đối với các cá nhân ,tổ chức và
doanh nghiệp trong nền kinh tế .Làm cho toàn bộ hệ thống lãi suất giảm và các
khoản cho vay tăng lên .
Khi lãi suất thị trường giảm ,thừa tiền trong thị trường thì Ngân hàng
TW sẽ tăng lãi suất tái chiết khấu để giảm bớt khối lượng tín dụng của các ngân
hàng thương mại nhằm buộc các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất tín
dụng đối với các thành phần trong nền kinh tế ,các khoản cho vay sẽ giảm
,lượng tiền trong lưu thông cũng sẽ giảm . Thông qua lãi suất tái chiết khấu mà

Ngân hàng TW đã điều chỉnh được lãi suất tín dụng .Mỗi khi lãi suất tái chiết
khấu hay giảm đều làm thay đổi lượng vay của các ngân hàng thương mại hay
nói cách khác là thay đổi lượng tiền cung ứng cho thị trường của các ngân hàng
này và cuối cùng làm thay đổi lãi suất thị trường .
Ngoài ra ,Ngân hàng TW còn có một biện pháp nữa để kiểm soát lãi
suất tín dụng và lượng tiền cung ứng thị trường đó chính là tỉ lệ dự trữ bắt buộc
.Khi ngân hàng TW tăng hay giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc cũng tức là đã tác động
đên lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại .Gây ra những khó
khăn ngân quỹ ,hạn chế tín dụng hay là sự dư giả vốn và tín dụng của các ngân
hàng .Giả sử tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc khiến cho lượng vốn và tín dụng của các
ngân hàng bị thu hẹp khiến họ buộc phải tăng lãi suất và ngược lại .Từ đó có
thể thấy được tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thị trường .
Như vậy thông qua việc thực hiện các chính sách tiền tệ của mình
,Chính phủ đã có những thay đổi ,điều chỉnh về lãi suất tín dụng trên thị truờng
nhằm đảm bảo mục tiêu ổn định ,phát triển kinh tế - xã hội mà nhà nước đã đề
ra
Chính sách tài khóa
Bội chi ngân sách là một bộ phận trong cầu quỹ cho vay nên khi bội chi
ngân sách tăng làm cho cầu quỹ cho vay lớn lên kéo theo lãi suất có xu hướng gia
tăng.
7


I.4.3

I.4.4

Thông thường, để bù đắp bội chi ngân sách, Chính phủ thường phát hành
thêm trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng làm cho giá trái phiếu
có xu hướng giảm, lãi suất thị trường vì vậy sẽ có xu hướng tăng lên.

Tác động của thuế đến lãi suất cũng giống như tác động của thuế tới giá
cả của các hàng hóa khác. Nếu Nhà nước tăng thuế, do tính chất chuyển giao của
thuế, giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Khi dó, người dân phải dành tiền nhiều hơn cho
nhu cầu tiêu dùng nên phần dành cho tiết kiệm sẽ giảm xuống , từ đó ảnh hưởng
đến lãi suất theo chiều hướng tăng lên
Rủi ro và kỳ hạn tín dụng
Bất cứ khi đầu tư vào vào ngành gì cũng có những rủi ro nhất định, trong
tín dụng cũng vậy. Mức độ rủi ro cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách
quan lẫn chủ quan. Các yếu tố khách quan như: môi trường kinh tế, sự phát triển
liên ngành, môi trường pháp lý… Các yếu tố chủ quan như: hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp, tổ chức vay tín dụng; tính tin cậy và khả năng trả nợ của các doanh
nghiệp khi đến hạn.
Rủi ro tín dụng xuất phát từ hoạt động tín dụng khi mà bên vay tín dụng vi
phạm các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Để giảm bớt các rủi ro cho bên cho
vay thì lãi suất tín dụng là một biện pháp tốt nhất, những khoản vay tín dụng có rủi
ro càng lớn thì lãi suất càng cao và ngược lại. Kì hạn cho vay tín dụng cũng vậy,
ngắn hạn thì lãi suất thấp còn dài hạn thì cao hơn. Nói chung, khi mà thời hạn cho
vay dài, độ rủi ro lớn thì lãi suất cho vay sẽ cao; ngược lại thời hạn cho vay ngắn,
độ an toàn cao thì lãi suất cho vay sẽ thấp.
Các nhân tố khác( sự ổn định về chính trị, các thể chế tài chính trung gian,
tình hình tài chính quốc tế, tỷ giá hối đoái, tình hình tài chính quốc tế)
• Sự ổn định về nền kinh tế chính trị
Nền kinh tế ổn định và phát triển là một yếu tố kiên quyết để lãi suất tín
dụng được ổn định. Khi nền kinh tế phát triển quá nóng hay rơi vào suy thoái
thì nhà nước đều có những chính sách, biện pháp điều chỉnh lãi suất để kìm
hãm hay kích thích nền kinh tế, phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. sự ổn
định của nền chính trị cũng rất quan trọng, nếu nền chính trị bất ổn, mỗi khi
chính trị biến động, chính quyền thay đổi dẫn đến chính sách kinh tế mới khiến
lãi suất biến động.
• Các thể chế tài chính trung gian:

Các thể chế, định chế tài chính trung gian này có ảnh hưởng lớn đến lãi
suất thị trường như là quỹ tín dụng, bảo hiểm, thị trường cổ phiếu, bất động
sản… Một khi các thể chế tài chính trung gian này phát triển sẽ cần đến một
8




lượng vô cùng lớn, khi đó cầu về vốn( tiền tệ) trên thị trường sẽ tăng và kéo
theo đó là làm cho lãi suất tín dụng tăng theo và ngược lại.
Tỷ giá hối đoái
Nó tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu của
một quốc gia. Khi tỷ giá tăng thì sẽ khiến cho tăng giá của các mặt hàng nhập
khẩu, chi phí sản xuất đầu vào tăng, giá hàng hóa tăng dẫn đến lợi nhuận giảm,
nhu cầu đầu tư giảm, cầu tiền tệ giảm, lãi suất tín dụng giảm..
• Tình hình tài chính quốc tế
Trong thời kỳ hiện nay hầu hết các quốc gia đều thực hiện chính sách
mở cửa, không ngừng tăng cường các mối quan hệ kinh tế nói chung, tín dụng
nói riêng. Các mối quan hệ này nhanh chóng phát triển, tình hình tài chính, tín
dụng bây giờ không chỉ phụ thuộc vào yếu tố quốc gia mà còn phụ thuộc rất
nhiều vào tình hình tài chính thế giới, khi mà tình hình tài chính quốc tế ổn
định thì tình hình tài chính của mỗi quốc gia cũng không có gì biến động.
Nhưng một khi tình hình tài chính quốc tế bất ổn, rơi vào khủng hoảng thì nó
sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình tài chính và tín dụng của mỗi quốc gia.
Khiến cho đầu tư, sản xuất kinh doanh, nền kinh tế có nhiều biến động và điều
tất nhiên là lãi suất tín dụng cũng sẽ có nhiều thay đổi.
• Ngoài các yếu tố chính nêu trên thì mức độ phát triển của các chế
trung gian và mức độ cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và sự phát
triển của thị trường tài chính trong và ngoài nước cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của công nghệ thông tin góp phần làm giảm chi phí quản lý,

giao dịch,… kéo theo lãi suất có xu hướng giảm xuống.
II.

Thực trạng lãi suất tín dụng ngân hàng 2015 đến nay và sự ảnh hưởng
của một số nhân tố đến lãi suất tín dụng ở Việt Nam
II.1 Thực trạng của lãi suất tín dụng
II.1.1 Thực trạng của lãi suất tín dụng năm 2015
a) Nội tệ
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay cùng giảm nhẹ so với năm 2014



Lãi suất huy động
Trần lãi suất huy động được giữ cố định trong cả năm 2015 (5,5%/năm đối
với tiền gửi các kì hạn dưới 6 tháng) sau lần điều chỉnh gần nhất ngày 28/10/2014.
9


Mặt bằng lãi suất huy động tiếp tục được các NHTM chủ động giảm nhẹ 0,2-0,5%
trong Q1.2015, duy trì ổn định trong hầu hết năm 2015 trước khi chịu áp lực tăng
trở lại sát mức trần ở một số ngân hàng vào thời điểm cuối năm.


Lãi suất cho vay
Từ Mặt bằng lãi suất cho vay cũng được điều chỉnh giảm bình quân 0,3%0,5% từ đầu năm và chưa có dấu hiệu tăng trở lại. Một số lĩnh vực được ưu tiên
như Nông nghiệp, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao có thể được vay
với lãi suất ngắn hạn 6-7%, dài hạn là 9-10%.
b)

Ngoại tệ (USD )


(Từ ngày 1/1/2015 đến 25/9/2015)


Lãi suất huy động: vẫn tiếp tục ổn định và phổ biến bằng mức trần do NHNN quy
định là 0,25%/năm đối với tiền gửi của tổ chức và 0,75%/năm đối với tiền gửi của



dân.
Lãi suất cho vay: cũng không thay đổi, cho vay phổ biến ở mức 3%-7%/năm.
(Từ ngày 26/9/2015 đến ngày 17/12/2015)



Lãi suất huy động: phổ biến ở mức 0.25%/năm đối với tiền gửi của cá nhân và



0%/năm đối với tiền gửi của tổ chức.
Lãi suất cho vay: phổ biến ở mức 3-6.7%/năm; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn
phổ biến ở mức 3-5.5%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức 5.5-6.7%/năm.
(Từ ngày 18/12/2015 đến hết năm 2015)




Lãi suất huy động: ở mức 0% đối với cả tổ chức và cá nhân
Lãi suất cho vay: lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 3-6.5%/năm; trong đó lãi
suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 3-5.3%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn

ở mức 5.5-6.5%/năm.
10




Trong hai quý đầu năm 2015 mặt bằng lãi suất ngoại tệ (USD) vẫn duy trì trì và ổn
định so với cuối năm 2014. Cụ thể lãi suất huy động là 0.25%/năm đối với tiền gửi
của tổ chức, 0.75%/năm đối với tiền gửi của các nhân; lãi suất cho vay ở mức 37%/năm. Nhưng trong hai quý cuối năm mặt bằng lãi suất huy động đã giảm xuống
còn 0%/năm đối với cả tổ chức và cá nhân; lãi suất cho vay cũng giảm xuống còn
3-6.5%/năm.

II.1.2

Lãi suất tín dụng 6 tháng đầu năm 2016

Nội tệ
Lãi suất huy động
a)



Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, mặt bằng lãi suất huy động sau khi
tăng khoảng 0,2-0,3%/năm trong 3 tháng đầu năm thì đã duy trì ổn định và từ
tháng 4/2016 từng bước được một số tổ chức tín dụng điều chỉnh giảm, dự kiến về
cơ bản tiếp tục diễn biến ổn định trong những tháng cuối năm.

11



Hiện, mặt bằng lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,8-1%/năm
đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,5-5,4%/năm đối với
tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,4-6,5%/năm đối với tiền gửi có
kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,4-7,2%/năm.


Lãi suất cho vay
Đối với lãi suất cho vay, mặc dù lãi suất huy động tăng nhẹ trong những
tháng đầu năm, nhưng mặt bằng lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng vẫn
tương

đối

ổn

định.

Từ cuối tháng 4/2016, thực hiện chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại nhà nước
và một số ngân hàng thương mại cổ phần đã điều chỉnh giảm 0,5%/năm lãi suất
cho vay ngắn hạn và đưa lãi suất cho vay trung và dài hạn về tối đa 10%/năm đối
với các khách hàng vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, đồng thời tích cực triển
khai các chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi.
Theo đó, mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở
mức 6-7%/năm đối với ngắn hạn, các NHTM nhà nước tiếp tục áp dụng lãi suất
cho vay trung và dài hạn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-10%/năm.
Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,89%/năm đối với ngắn hạn; 9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn.
b)

Ngoại tệ( USD)

Lãi suất huy động USD vẫn duy trì ở mức 0% kể từ cuối năm 2015.
Lãi suất cho vay USD tương đối ổn định: Hiện lãi suất cho vay USD phổ biến ở
mức 2.8-6.3%/năm; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 2.85.2%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức 5.3-6.2%/năm.

12


2.2 Phân tích ảnh hưởng của một số nhân tố đến lãi suất tín dụng
2.2.1 Ảnh hưởng nhân tố lạm phát, thanh khoản tiền VNĐ đến lãi suất tín
dụng
Một trong những sự kiện nổi bật nhất của kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm
2015 là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 0.55%, tăng thấp nhất trong khoảng 10 năm trở
lại đây.
Lạm phát thấp mang đến nhiều cơ hội và thách thách cho nền kinh tế. Các
chính sách cần được điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến mới. Lạm phát tác động
đến tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội, trong đó có hoạt động của các ngân hàng
thương mại. Có thể nói lạm phát là một trong những nhân tố chủ chốt ảnh hưởng
đến lãi suất huy động vốn và cấp tín dụng của ngân hàng. Lạm phát thấp mang lại
niềm vui cho người tiêu dùng, sự an tâm của các nhà đầu tư trong sản xuất, kinh
doanh; tạo điều kiện cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý, điều hành vĩ
mô có cơ sở để đề ra và thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, hỗ
trợ thị trường. Chính phủ có dư địa lớn hơn để nới lỏng chính sách tiền tệ và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Lạm phát thấp tạo điều kiện cho lãi suất giảm là tín hiệu tốt của nền kinh tế, tuy
nhiên, thực tế cung và cầu về vốn vẫn chưa thể gặp nhau. Doanh nghiệp không thể
tiếp cận được khoản vay do không đáp ứng được các tiêu chuẩn của ngân hàng,
trong khi đó, phía ngân hàng có thể hạ lãi suất, nhưng không thể hạ tiêu chuẩn cho
vay. Khó khăn thiếu vốn vẫn còn và nhiều doanh nghiệp tiếp tục đối mặt với những
khó khăn phía trước. Bản chất lạm phát quá thấp là do tổng cầu chưa được cải
thiện nhiều, không phải do năng suất, chất lượng trong hoạt động sản xuất kinh

doanh được nâng lên, làm cho chi phí sản xuất và giá thành hạ.
Ngoài ra, thực tế lãi suất tại Việt Nam không chỉ gắn với vấn đề lạm phát, dù
nó là biến số rất quan trọng. Vì lãi suất đồng VND còn gắn tương quan với lãi suất
đồng USD, liên quan đến cách thức điều hành linh hoạt tỷ giá của Ngân hàng nhà
nước (NHNN). Bởi nếu không xử lý, kiểm soát tốt, nhiều khả năng có sự dịch
chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác. Ngoài ra, lãi suất còn phụ thuộc vào
biến số khác như mức độ biến động và phát triển của thị trường tài chính, tức là lợi
tức đối với việc cầm giữ tiền VND so với các loại tài sản tài chính khác như thế
nào.
Việc cân nhắc những chỉ số vĩ mô là điều thiết yếu để có được một chính sách
lãi suất phù hợp với các biến số kinh tế vĩ mô khác trong khuôn khổ một chính
sách phát triển kinh tế tổng thể của đất nước trong từng thời kỳ. Theo số liệu của
Tổng Cục Thống kê, 6 tháng đầu năm 2015, tăng trưởng tín dụng trên cả nước đạt
6,28% so với tháng 12 năm trước. Kết quả này có nhiều cải thiện so với mức tăng

13


2,03% của cùng thời điểm năm 2014, huy động vốn của các ngân hàng thương mại
tăng 4,58%, thấp hơn mức tăng 5,26% của cùng kỳ năm trước.
Thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tiếp tục được cải thiện, đảm
bảo khả năng thanh toán và chi trả của hệ thống. Trạng thái vốn khả dụng của toàn
hệ thống hiện vẫn dư thừa, thậm chí nhà điều hành vẫn phải liên tục hút bớt tiền
về.
Cụ thể, ngân hàng thương mại đã hút ròng khoảng 16,5 nghìn tỷ đồng qua repos
và tín phiếu từ ngày 22/6- 3/7/2015. Đầu ra hẹp đi ở kênh trái phiếu, cung dồn
nhiều hơn cho kênh tín dụng cũng là một yếu tố góp phần cạnh tranh lãi suất cho
vay. Trong khi đầu ra là kênh trái phiếu hẹp đi, đầu vào lại càng dồn lên từ trái
phiếu và tín phiếu đáo hạn. Trạng thái vốn khả dụng của hệ thống dư thừa cũng từ
đây, bất chấp tăng trưởng huy động vốn thấp, hay sức ép tăng lãi suất huy động từ

đây là không lớn. Nếu sức ép đó thể hiện, vai trò điều tiết vốn của ngân hàng
thương mại cũng cần tính đến. Các tổi chức tài chính đang nắm trong tay cỡ
khoảng 150.000 tỷ đồng trái phiếu đặc biệt của VAMC mà chưa dùng đến qua
kênh tái cấp vốn. Do đó, trong điều kiện hiện nay tại Việt Nam, tỷ lệ lạm phát thấp
cùng với thanh khoản tiền VNĐ trong hệ thống ngân hàng dồi dào là điều kiện rất
tốt để các ngân hàng thương mại có cơ hội để ổn định lãi suất từ nay đến cuối năm
2015.
2.2.2 Phân tích ảnh hưởng nhân tố tỷ giá và nhập siêu đến lãi suất tín dụng
6 tháng đầu năm 2015, nhập siêu ước tính 3.8 tỷ USD, tương đương 4.8% kim
ngạch xuất khẩu. Trong đó, khu vực FDI xuất siêu 6,07 tỷ USD, khu vực doanh
nghiệp trong nước nhập siêu 9.83 tỷ USD.Nhập siêu tăng do cả xuất khẩu tăng
chậm và nhập khẩu tăng nhanh. Nhập siêu tăng cao còn là sự kết hợp giữa những
yếu tố bất lợi trên thị trường thế giới (làm cho xuất khẩu của nhiều mặt hàng sụt
giảm) và sự phục hồi kinh tế trong nước dẫn đến sự tăng tốc của nhập khẩu. Trên
thực tế, nhập siêu không nằm ngoài dự đoán của các cơ quan quản lý nhà nước
nhưng nhập siêu cao ngay trong những tháng đầu năm là diễn biến khá bất ngờ.
Tuy nhiên, trong những tháng tiếp theo, nhập siêu có thể được kiểm soát ở mức
mục tiêu. Bên cạnh đó, cán cân thanh toán tổng thể năm 2015 có thể dương khoảng
5 tỷ USD. Nghĩa là, cầu về ngoại tệ, trong đó có bù đắp cho nhập siêu sẽ được đáp
ứng đầy đủ bằng các nguồn tài trợ khác như kiều hối, vay nợ nước ngoài và FDI.
Bên cạnh đó, giá dầu thô trên thị trường quốc tế đang phục hồi nhanh chóng, phát
tín hiệu tích cực cho khả năng phục hồi xuất khẩu. Đồng EUR đang giữ vững thế
mạnh của mình so với USD khi tình hình chính trị và tài chính Hy Lạp vẫn đang
diễn biến phức tạp và việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) lùi thời hạn tăng lãi
suất sẽ có tác dụng hỗ trợ tích cực cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường Châu Âu, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
14


Ngoài ra, xuất khẩu của khu vực FDI cũng tăng cao nên cung và cầu ngoại tệ

của khu vực này có thể tự cân đối được. Chính vì vậy, dù nhập siêu tăng cao nhưng
ngay trong những tháng đầu năm, NHNN đã mua được một lượng ngoại tệ khá lớn
để tăng dự trữ ngoại hối. Đây là căn cứ quan trọng để ngân hàng thương mại kiên
trì thực hiện mục tiêu điều hành tỷ giá hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhập siêu cao đã gây sức ép lên tỷ giá, là một trong các nguyên nhân quan
trọng khiến ngân hàng thương mại trong tháng 5 phải thực hiện lần điều chỉnh tỷ
giá thứ hai trong năm nay, một động thái được coi là sớm hơn dự đoán. Việc tăng
thêm tỷ giá sẽ khiến giá hàng hóa nhập khẩu tăng lên và ảnh hưởng phần nào tới
niềm tin của dân chúng vào tiền đồng. Ngoài ra, tăng tỷ giá cũng sẽ ảnh hưởng tới
mặt bằng lãi suất hiện nay và cũng sẽ tác động tới lạm phát, vì theo tính toán khi
đó, tỷ giá điều chỉnh thêm 1% thì sẽ khiến lạm phát tăng 0,2%, từ đó sẽ gây áp lực
lên mặt bằng lãi suất chung trên thị trường.
Hơn thế nữa, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD càng giãn ra thì càng có lợi
cho VND. Khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi bằng VND và USD
khoảng trên 5%, song nếu tỷ giá tăng mạnh thì người gửi tiền sẽ có khuynh hướng
rút tiền đồng để đổi sang USD gửi ngân hàng. Do đó, các ngân hàng sẽ phải cân
nhắc tăng lãi suất tiền đồng để giữ chân khách hàng. Và khi lãi suất đầu vào tăng
thì lãi suất đầu ra sẽ tăng theo. Tuy nhiên, đã nhiều lần ngân hàng thương mại
khẳng định cam kết tỷ giá USD/VNĐ trong năm 2015 tăng không quá 2%, bất kể
"room" đã không còn và ngân hàng thương mại sẵn sàng bán ngoại tệ để can thiệp
thị trường khi cần thiết; và dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện nay cơ bản gắn liền
với USD và đạt 36 tỷ USD thời điểm cuối năm 2014, khoản dự trữ này sẽ đảm bảo
sự can thiệp và điều chỉnh thị trường ngoại hối trong ngắn hạn của ngân hàng
thương mại.
Từ đó, một khi tỷ giá đã được ngân hàng thương mại cam kết giữ ổn định đến
cuối năm 2015, tình trạng nhập siêu trong năm cũng không ảnh hưởng nhiều đến
tình hình lãi suất trên thị trường.
2.2.3 Phân tích ảnh hưởng thị trường bất động sản và thị trường chứng
khoán đến lãi suất tín dụng
Đến cuối tháng 6 năm 2015, tín dụng bất động sản tăng 11%, chiếm tỷ trọng

8,3% trong tổng dư nợ tín dụng. Tín dụng này chủ yếu đổ vào lĩnh vực xây dựng
nhà ở và cho thuê. Do vậy tín dụng bất động sản (BĐS) không phải đổ vào kinh
doanh bất động sản. Tín dụng này cũng kích thích tiêu dùng đối với các nhóm hàng
vật liệu xây dựng.
Sau hai tháng chỉ đạo gỡ khó về vốn cho lĩnh vực bất động sản, nghị quyết
phiên họp tháng 6/2015 của Chính phủ vừa ban hành đã đề cập đến nội dung yêu
15


cầu “Giám sát chặt chẽ khi cho vay các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro” trong đó nêu cụ thể
là bất động sản, dự án có thời gian thu hồi vốn dài.Thị trường BĐS chưa có bất cứ
dấu hiệu nào. Bởi lượng tồn kho khổng lồ với hàng nghìn dự án BĐS nằm bất động
khắp cả nước chưa giải quyết.
Đối với thị trường chứng khoán, nhìn chung hoạt động huy động vốn qua thị
trường chứng khoán có nhiều tiến bộ hơn trước, đặc biệt là phát hành riêng lẻ tăng
đã giúp doanh nghiệp có được ngay nguồn vốn để tái cấu trúc và đầu tư phát triển.
Trên thực tế, thời gian qua dòng tiền ngân hàng chảy vào chứng khoán thông qua 3
kênh chính: Thứ nhất, khối lượng margin (Margin Trading: giao dịch ký quỹ là
việc nhà đầu tư mua cổ phiếu có sử dụng hạn mức tín dụng do Công ty chứng
khoán môi giới cấp. Nó được đảm bảo bằng khoản ứng trước bằng tiền hoặc thế
chấp bằng chính cổ phiếu được mua) của các công ty chứng khoán bằng nguồn vốn
vay của ngân hàng. Thứ hai, các khoản cầm cố cho vay trực tiếp của các ngân hàng
cho việc đầu tư cổ phiếu và trái phiếu, các khoản ngân hàng ủy thác qua công ty
quản lý quỹ để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Thứ ba, đầu tư trực tiếp của các
ngân hàng vào cổ phiếu, trái phiếu niêm yết và không niêm yết.
Bên cạnh đó, thông tư 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 đang giúp lành
mạnh hóa hoạt động của hệ thống ngân hàng và đảm bảo dòng vốn vào thị trường
chứng khoán có chất lượng và dài hạn đồng thời giúp cơ hội cấu trúc lại thị trường
chứng khoán. Về dài hạn, việc kiểm soát dòng tiền từ ngân hàng vào thị trường
chứng khoán là một chủ trương đúng. Thông tư 36 có hiệu lực, dòng cung cho đầu

tư kinh doanh cổ phiếu khả quan hơn.
Ngoài ra, cú sốc từ kết quả cuộc trưng cầu dân ý ở Hy Lạp đã khiến thị trường
tài chính châu Á biến động mạnh trong những ngày gần đây. Giá dầu thô, đồng
Euro, và các chỉ số chứng khoán đồng loạt giảm sâu, trong khi giá các tài sản an
toàn đi lên. Tình hình này cũng phần nào ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của thị
trường chứng khoán, tuy không nhiều. Do đó, các dòng vốn chạy vào thị trường
bất động sản và thị trường chứng khoán được nhà nước kiểm soát chặt chẽ.
2.2.3 Phân tích ảnh hưởng của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
đến lãi suất tín dụng
Chính sách vĩ mô nói chung, trong đó chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
nói riêng là công cụ quan trọng trong điều hành, quản lý kinh tế vĩ mô của bất kỳ
một quốc gia nào. Hai chính sách này tuy có những khuôn khổ thực thi riêng
nhưng khi phối hợp hài hòa lại tạo ra hiệu quả rất lớn trong việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế quan trọng. Tại Việt Nam, sự phối hợp chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ đã có những bước tiến bộ đáng kể trong những năm gần đây và trở nên

16


gắn kết chặt chẽ hơn sau Quyết định số 1317/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án cải cách
cơ chế phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô.
Việc phối hợp CSTK và CSTT nhằm đạt được các mục tiêu chung là: Một là,
tăng tính hiệu lực của chính sách. Hai là, khắc phục độ trễ và tăng tính linh hoạt
của chính sách. Ba là, giúp ổn định kỳ vọng của nền kinh tế
Trong những năm gần đây, chính sách tài khóa phối hợp chặt chẽ với chính
sách tiền tệ hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện phát triển sản
xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ quá trình tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng. Cụ thể:
Chính sách tài khóa hỗ trợ việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
(NHTM). Nỗ lực cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm số giờ nộp thuế, đẩy

mạnh tuyên truyền, hỗ trợ tư vấn pháp luật về thuế giảm áp lực lên hệ thống doanh
nghiệp, góp phần xử lý các khoản nợ xấu cũ và ngăn chặn các khoản nợ xấu mới
phát sinh. Việc giảm thuế đối với bản thân hệ thống ngân hàng thương mại cũng
giúp hệ thống có thêm nguồn lực để củng cố hoạt động. Việc thu cổ tức từ phần
vốn góp tại các tập đoàn nhà nước và ngân hàng thương mại nhà nước cũng được
thực hiện thận trọng, linh hoạt vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước
nhưng không ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các đơn vị này.
Chính sách chi ngân sách được điều hành chặt chẽ, thực hiện phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực hỗ trợ mục tiêu ổn định tiền tệ. Các khoản chi ngân sách nhà
nước được kiểm soát chặt chẽ hơn, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm chi ngân sách nhà
nước, từ đó góp phần ổn định kỳ vọng lạm phát của thị trường.
Ngân hàng thực hiện điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp
chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm
soát lạm pháp theo mục tiêu đề ra (dưới 5%), ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý (khoảng 6,7%), bảo đảm thanh khoản của các
tổ chức tín dụng và nền kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ. Chỉ thị về chính
sách tiền tệ năm 2016 nêu rõ, năm 2016, định hướng tổng phương tiện thanh toán
tăng khoảng 16-18%, dư nợ tín dụng tăng khoảng 18-20%, có điều chỉnh phù hợp
với diễn biến tình hình thực tế.
Chính sách tiền tệ đã hỗ trợ tích cực cho phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP)
suốt thời gian qua, dòng tiền từ trái phiếu chính phủ có đóng góp đặc biệt quan
17


trọng của đầu tư từ khu vực ngân sách, từ đó tạo ra nền tảng cho các hoạt động đầu
tư của khu vực tư nhân. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nỗ lực mở rộng thanh
khoản của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD), bởi khách hàng chính mua trái phiếu
chính phủ trên thị trường sơ cấp là các tổ chức tín dụng. Cụ thể, trong 6 tháng đầu
năm 2016, ngân hàng nhà nước đã cung ứng lượng tiền lớn qua kênh mua ngoại tệ;
đồng thời, chỉ hút về qua kênh tái cấp vốn với khối lượng nhỏ.

Như vậy, Ngân hàng Nhà nước đã bơm ròng cho nền kinh tế trong nửa đầu năm
2016. Nguồn thanh khoản được Ngân hàng Nhà nước cung ứng thêm trên đã thúc
đẩy các tổ chức tín dụng đầu tư mạnh mẽ hơn vào các thị trường tài chính, đặc biệt
là thị trường trái phiếu chính phủ. Khối lượng trúng thầu trái phiếu chính phủ nhờ
đó cũng đã tăng mạnh, trong khi lãi suất huy động lại giảm.
Thanh khoản dồi dào làm giảm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, giúp hạ
mặt bằng lãi suất huy động trái phiếu. Mặc dù, lạm phát tổng thể đang gia tăng
trong nửa đầu năm 2016 nhưng lãi suất trái phiếu chính phủ lại giảm (Hình 3) cho
thấy, Ngân hàng Nhà nước đang rất nỗ lực thực hiện chỉ đạo giảm mặt bằng lãi
suất trên thị trường theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
II.2

Kết luận

Lãi suất là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi suất một cách
hợp lý nó sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát
triển. Ngược lại một cơ chế lãi suất không hợp lý sẽ là nhân tố kìm hãm sự phát
triển kinh tế , gây nên những cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta đã có những
thành công nhất định cải cách về chính sách lãi suất trong thời gian qua. Song phải
chăng lãi suất ở Việt nam đã thực sự linh họa, mềm dẻo và biến động phù hợp với
nền kinh tế. Trên thực tế lãi suất ở Việt nam vẫn chỉ là lãi suất ngân hàng, do ngân
hàng trung ương xác định và áp dụng cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chúng ta
vẫn chưa thực sự có lãi suất thị trường, chưa cho phép lãi suất được xác định trên
cơ sở thị trường. Muốn phát triển nền kinh tế thị trường đòi hỏi chúng ta phải cho
phép tự do hóa lãi suất. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cũng như trong
khu vực cho thấy đây là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải lựa chọn bước đi đúng
đắn của mỗi quốc gia
Chính tính chất quan trọng của lãi suất mà ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã
nhiều lần điều chỉnh chính sách lãi suất của mình cho phù hợp với nhu cầu phát
18



triển nền kinh tế. Vượt qua những khó khăn ban đầu trong việc điều chỉnh lãi
suất đến nay Việt nam đã lựa chọn cho mình một chính sách lãi suất dựa trên cơ
sở lãi suất cơ bản. Có thể nói chính sách lãi suất cơ bản là một bước đi dài trong
công cuộc đổi mới ở nước ta và đây chính là một chính sách hết sức linh hoạt từ
trước tới nay.
Việc nghiên cứu đề tài giúp chúng em nhận ra rằng đây là một đề tài hết sức
phức tạp nếu xem xét thực tế một cách tỷ mỷ. Và trong một khoảng thời gian
nhất định, với trình độ kiến thức còn hạn chế, đề tài chắc chắn sẽ không thể
tránh khỏi những thiếu sót cả về lý luận và thực tiễn. Em rất mong được sự góp
ý của cô và các bạn.
Cuối cùng em rất chân thành cảm ơn cô giáo đã hết lòng hướng dẫn giúp chúng
em hoàn thành đề tài này.

19



×